Giới Thiệu Khái Quát Thành Phố Sầm Sơn - Tỉnh Thanh Hóa

thành phố Sầm Sơn - Tỉnh Thanh Hóa

Giới thiệu khái quát thành phố Sầm Sơn

I – CÁC YẾU TỐ VÀ NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN Thành phố Sầm Sơn nằm ở phía Đông tỉnh Thanh Hoá, cách Thành phố Thanh Hoá khoảng 16 km; phía Bắc giáp huyện Hoàng Hoá (ranh giới là sông Mã); phía Nam và phía Tây giáp huyện Quảng Xương (cách sông Đơ); phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Thị xã Sầm Sơn có 5 đơn vị hành chính, gồm 04 phường và 01 xã với tổng diện tích tự nhiên gần 17,9 km2, dân số năm 2010 là 62.550 người, chiếm 0,16% diện tích và 1,68% dân số tỉnh Thanh Hoá. Về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của thành phố Sầm Sơn có những điểm nổi bật sau: 1. Đặc điểm tự nhiên 1.1. Đặc điểm địa hình Địa hình ở thành phố Sầm Sơn chia thành 4 vùng rõ rệt. * Vùng triều ngập mặn thành phố Sầm Sơn: gồm vùng đất trũng bên bờ sông Đơ trải dọc từ cống Trường Lệ đến sông Mã và vùng triều ngập mặn Quảng Cư. Đây là vùng đất trũng, cốt trung bình từ 0,5 – 1,5 mét. Từ khi đắp đập Trường Lệ vùng đất trũng bên bờ sông Đơ đang được ngọt hoá dần. Hiện nay vùng này đang trồng lúa năng suất thấp, nuôi trồng hải sản, trồng sen… * Vùng cồn cát cao thành phố Sầm Sơn: gồm khu vực nội thị, trải dài từ chân núi Trường Lệ đến bờ Nam Sông Mã. Địa hình ở đây tương đối bằng phẳng, dốc thoải từ Đông sang Tây khoảng 1,5 – 2%, cốt trung bình từ 2,5 – 4,5 mét, thuận lợi cho việc xây dựng khách sạn, nhà nghỉ, trung tâm hành chính và các khu dân cư, diện tích khoảng 700 ha. * Vùng ven biển thành phố Sầm Sơn: gồm khu vực phía Đông đường Hồ Xuân Hương từ chân đền Độc Cước (phường Trường Sơn) kéo dài đến hết địa phận xã Quảng Cư. Đây là dải cát mịn, thoải, dốc dần ra biển phù hợp với yêu cầu của bãi tắm (độ dốc từ 2 – 5%), diện tích khoảng 150 ha, rộng 200 mét. * Vùng núi thành phố Sầm Sơn. Bao gồm toàn bộ núi Trường Lệ, nằm sát biển, độ cao trung bình khoảng 50 mét, đỉnh cao nhất đạt 76 mét, có các vách đá dốc đứng về phía biển tạo nên sự hùng vĩ của núi Trường Lệ, rất thích hợp cho các loại hình du lịch leo núi, du lịch mạo hiểm. Ngoài ra ở đây còn có những bãi cỏ rộng và những sườn thoải phù hợp cho du lịch cắm trại, vui chơi giải trí… Nền địa chất của thành phố Sầm Sơn khá tốt, cường độ chịu tải của đất cao, đạt từ 1 – 2 kg/cm2, riêng khu vực gần núi Trường Lệ đạt trên 2 kg/cm2, rất tốt cho xây dựng các công trình. 1.2. Đặc điểm khí hậu Thành phố Sầm Sơn nằm trong miền khí hậu Bắc Việt Nam, thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh. Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt là mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Chế độ nhiệt: Thành phố Sầm Sơn có chế độ nhiệt tương đối cao, nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC. Nhiệt độ trung bình mùa hè (tháng 5 – 9) là 25oC, tháng nóng nhất nhiệt độ lên đến 40oC; nhiệt độ trung bình mùa đông (từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau) là 200C, tháng lạnh nhất có thể xuống đến 5oC. Tổng tích ôn cả nămkhoảng 8.6000C; số giờ nắng cao, trung bình 1700 giờ/năm. Tháng có số giờ nắng cao nhất (tháng 7) là 225 giờ, tháng có số giờ nắng thấp nhất (tháng 2) là 46 giờ. Chế độ gió: Thành phố Sầm Sơn chịu ảnh hưởng của hai loại gió chính là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện vào mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau), bình quân mỗi năm có khoảng 30 đợt gió mùa Đông Bắc mang theo không khí lạnh, làm nhiệt độ giảm xuống từ 5 – 10oC so với nhiệt độ trung bình năm. Về mùa hè (từ tháng 3 – 11) gió thịnh hành là Đông Nam mang theo hơi nước gây mưa nhiều. Riêng đầu mùa hè thường xuất hiện gió Tây khô nóng (gió Lào) ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Chế độ mưa: Lượng mưa ở Sầm Sơn khá lớn, trung bình năm từ 1600 – 1900 mm, nhưng phân bố rất không đều giữa hai mùa. Mùa khô (từ tháng 12 – 4 năm sau) lượng mưa rất ít, chỉ chiếm 15% lượng mưa cả năm, ngược lại mùa mưa (từ tháng 5 – 11) tập trung tới 85% lượng mưa cả năm. Mưa nhiều nhất vào tháng 8, lượng mưa có năm lên tới gần 900 mm. Ngoài ra trong mùa này thường có giông, bão kèm theo mưa lớn gây úng lụt cục bộ. Chế độ thủy triều thành phố Sầm Sơn: Thủy triều ở khu vực Sầm Sơn có chế độ nhật triều đều. Về mùa hè thủy triều lên lúc 7 giờ và xuống lúc 14 – 16 giờ chiều; mùa đông thì ngược lại xuống lúc 6 – 9 giờ là lên lúc 14 – 16 giờ. Biên độ triều trung bình khoảng 1,2 – 1,6 mét, cao nhất đạt 2 – 2,5 mét. Chế độ thủy triều như vậy rất thích hợp cho các hoạt động du lịch tắm biển. Tóm lại, khí hậu ở thành phố Sầm Sơn tuy có sự phân chia rõ rệt theo mùa, nhưng do có tác động điều hòa của biển nên khí hậu tương đối dễ chịu, mát vào mùa hè, ít lạnh vào mùa đông, khá phù hợp cho tắm biển, thăm quan, nghỉ dưỡng và phù hợp cho sự sinh trưởng của nhiều loại cây trồng, vật nuôi. 2. Các tài nguyên thiên nhiên chính 2.1. Tài nguyên du lịch là ưu thế nổi trội nhất của thành phố Sầm Sơn Thành phố Sầm Sơn có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng, gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Đây là ưu thế nổi bật nhất của Sầm Sơn, là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như du lịch biển, du lịch núi, du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch tâm linh… * Về tài nguyên du lịch tự nhiên: Sầm Sơn có bờ biển dài khoảng 9 km, từ cửa Hới (sông Mã) đến Vụng Tiên (Vụng Ngọc) với các bãi biển đẹp như bãi biển nội thị (A, B, C, D), bãi biển Quảng Cư, Bãi Nix, Bãi Lãn, Bãi Vụng Tiên… Các bãi biển này đều có đặc điểm chung là rộng, bằng phẳng, độ dốc thoải, bãi cát trắng mịn, sóng biển vừa phải, nước biển ấm, trong xanh có nồng độ muối trên dưới 30%, ngoài ra còn có Canxidium và nhiều khoáng chất khác có tác dụng chữa bệnh… rất phù hợp cho tắm biển và các hoạt động vui chơi giải trí nên từ lâu đã là khu nghỉ mát nổi tiếng trong cả nước. Theo đánh giá Sầm Sơn là nơi rất có lợi cho sức khỏe, nghỉ dưỡng vào mùa đông, đồng thời là thị trường tiêu dùng, mua sắm lớn cho 1,5 – 2 triệu khách du lịch hiện nay và khoảng 4 – 5 triệu du khách trong tương lai, tạo cơ sở để phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng hóa và các mặt hàng TTCN của các vùng lân cận. Hiện nay Sầm Sơn mới khai thác 3 bãi biển ở khu vực nội thị vào mục đích du lịch, chủ yếu là tắm biển. Thời gian tới có thể khai thác các bãi biển ở khu vực Quảng Cư và Nam Sầm Sơn, hình thành một khu du lịch – nghỉ dưỡng biển lớn của vùng và cả nước với các hoạt động du lịch phong phú và đa dạng như: tắm biển, nghỉ dưỡng và các loại hình thể thao, vui chơi giải trí khác… Bên cạnh các bãi biển trên, thành phố Sầm Sơn còn có núi Trường Lệ cao 76 mét nằm sát biển, được coi như là hòn ngọc của Sầm Sơn. Các vách đá dốc đứng về phía biển đã tạo nên sự hùng vĩ của núi Trường Lệ và rất thích hợp cho loại hình du lịch leo núi, du lịch mạo hiểm. Mặt khác ở đây có những bãi cỏ rộng, những sườn thoải và các đồi được cấu tạo từ đá granit cổ sinh hay đá biến chất dạng bát úp (điển hình là khối hoa cương Độc Cước) phù hợp cho du lịch cắm trại và các hoạt động vui chơi giải trí khác. Trên núi Trường Lệ còn có các di tích như đền Độc Cước, đền Cô Tiên, đền Tô Hiến Thành… rất có giá trị du lịch văn hóa, du lịch tâm linh. Đặc biệt hòn Trống Mái trên núi Trường Lệ là cảnh quan tự nhiên độc đáo của Sầm Sơn cũng như của cả nước, rất hấp dẫn khách du lịch. Ngoài ra, cảnh quan tự nhiên dọc hai bờ sông Mã, sông Đơ cũng là điều kiện lý tưởng để Sầm Sơn phát triển các tuyến du lịch sinh thái trên sông, biển. Xuất phát từ Cửa Hới ở phía Bắc, du khách có thể đi thuyền đến Hòn Mê và xa hơn về phía Nam, hoặc ngược dòng sông Mã đi thăm các di tích Hàm Rồng, Lam Sơn, di tích triều vua Lê và các di tích, danh thắng khác trong tỉnh. Đặc biệt sông Đơ chảy dọc thị xã (từ Sông Mã ở phía Bắc đến cống Trường Lệ ở phía Nam) có cảnh quan tự nhiên khá hấp dẫn với các đầm sen ở phía Nam đền An Dương Vương là nguồn tài nguyên du lịch tiềm năng của Sầm Sơn để phát triển du lịch sinh thái. Tóm lại, sự đan xen giữa các loại địa hình (sông, núi, biển), giữa các bãi biển với núi Trường Lệ và cảnh quan sông nước, cùng với các hồ, đầm ở Quảng Cư và những rặng thông, phi lao dọc ven biển… tạo nên sự phóng phú và đa dạng của tài nguyên du lịch trên địa bàn, là điều kiện rất thuận lợi để Sầm Sơn phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn. * Về tài nguyên du lịch nhân văn thành phố Sầm Sơn: Bên cạnh những tài nguyên du lịch tự nhiên, Sầm Sơn còn có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn khá phong phú gồm các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội, ngành nghề truyền thống và các giá trị văn hóa khác. Theo thống kê, trên địa bàn Sầm Sơn có 16 di tích, là một trong số các địa phương có tỷ lệ di tích cao trong cả nước, trong đó có 6 di tích cấp Quốc gia gồm: – Đền Độc Cước (hay còn gọi là đền Thượng), nằm trên hòn Cổ Giải thuộc dãy núi Trường Lệ. Đền thờ thần Độc Cước, được xây dựng cách đây 700 năm. Hàng năm người dân Sầm Sơn tổ chức lễ hội bánh trưng, bánh dầy vào ngày 12 tháng 5 âm lịch để tế thần. – Đền Cô Tiên, nằm trên hòn Đầu Voi ở phía Tây núi Trường Lệ, phía trên Vụng Ngọc. Đây là đền thờ Chúa Liễu Hạnh, trước đây là nơi thờ vọng thần Độc Cước. – Đền Tô Hiến Thành (hay còn gọi là đền Trung), thờ Thái úy Tố Hiến Thành, vị quan thanh liêm, cương trực của triều Lý. – Hòn Trống Mái là danh thắng nổi tiếng gắn với huyền thoại về một mối tình chung thủy. – Đền Đề Lĩnh thuộc phường Trung Sơn, thờ thần Hoàng có công khai dân, lập ấp. – Đền Cá Lập (hay còn gọi là đền Làng Trấp) thuộc phường Quảng Tiến, thờ tướng Trần Đức. Ngoài ra còn 10 di tích được xếp hạng cấp tỉnh gồm: đền Hoàng Minh Tự (hay còn gọi là đền Hạ); chùa làng Lương Trung; đền Bà Triều; đền làng Hới; đền Thanh Khê; đền thờ phủ Đô Hầu; đền thờ Ngư Ông… và nhiều di tích khác như: Nơi Bác Hồ về thăm và tham gia kéo lưới cùng ngư dân Sầm Sơn; Nơi anh hùng Nguyễn thị Lợi đánh tàu chiến Pháp; Nơi tập kết đón học sinh Miền Nam ra Bắc sau Hiệp định Genever và nơi đón tiếp các tử tù Cách mạng Miền Nam ra Bắc sau Hiệp định Pari… Như vậy, du khách đến Sầm Sơn không chỉ bởi cảnh đẹp thiên nhiên kỳ thú mà còn giầu chất nhân văn với những lễ hội được lưu giữ từ bao đời nay như lễ hội tế thần Đốc Cước, Cô Tiên, (từ ngày 21 – 23/8 âm lịch); Lễ hội bánh chưng bánh dày (ngày 12/5 âm lịch); lễ hội cầu ngư (ngày 15/5 âm lịch)… Ngoài những lễ hội truyền thống về lịch sử, về truyền thuyết còn có các lễ hội tôn vinh những người có công với dân, với nước, với làng hoặc lễ hội tưởng niệm Bà Triều, tổ sư nghề dệt săm súc, lễ hội Cá Ông… mang đậm nét sinh hoạt của cư dân vùng biển… làm cho du lịch của Sầm Sơn càng thêm phong phú và hấp dẫn. Bên cách đó, Sầm Sơn còn có truyền thống thượng võ (có lò vật nổi tiếng ở Quảng Trường – Trung Sơn); Các làng nghề truyền thống như dệt săm xúc (Triều Dương), sản xuất nước mắm (làng Hới) cùng với tinh thần mến khách và lòng nhiệt thành của con người Sầm Sơn cũng là nền tảng vững chắc cho ngành du lịch phát triển. Tóm lại, Với những tiềm năng và lợi thế trên, trong tương lai ngành du lịch Sầm Sơn có cơ hội phát triển mạnh, trở thành điểm đến hấp dẫn và lý thú của nhiều du khách. Ngoài ra, với vị trí địa lý thuận lợi, Sầm sơn còn có thể mở rộng liên kết với các địa phương khác trong tỉnh, trong vùng và cả nước, hoặc với các tỉnh Bắc Lào để hình thành các tuyến du lịch hấp dẫn. 2.2. Tài nguyên thuỷ sản cũng là một lợi thế lớn Thành phố Sầm Sơn có bờ biển dài 9 km từ Cửa Hới đến Vụng Tiên (Vụng Ngọc). Vùng biển, ven biển Sầm Sơn và phụ cận có nguồn lợi hải sản khá phong phú, đa dạng, tạo cho Sầm Sơn có lợi thế rất lớn về khai thác hải sản. Các ngư trường khai thác chính gồm: – Bãi cá nổi ven bờ từ Nghệ An trở ra phía Bắc có trữ lượng khoảng 12.000 – 15.000 tấn, chủ yếu là cá lầm, cá trích (chiếm 40 – 50%); còn lại là cá nục, cá cơm, cá lẹp… Khả năng khai thác khoảng 6.000 – 7.000 tấn/năm. – Bãi cá nổi vùng Lạch Hới – Đông Nam Hòn Mê có trữ lượng 15.000 – 20.000 tấn, chủ yếu là cá lầm, cá trích, cá nục (chiếm 60 – 70%), còn lại là cá thu, bạc má… Khả năng khai thác 7.000 – 10.000 tấn/năm. – Các bãi cá đáy phía Nam đảo Hòn Mê đến Lạch Ghép và Lạch Hới – Đông Nam Hòn Mê. Vềtôm biển: Có hai bãi tôm chính là bãi tôm Hòn Nẹ – Lạch Ghép và bãi tôm Lạch Bạng – Lạch Quèn. Đây là các bãi tôm có trữ lượng cao trong khu vực Vịnh Bắc Bộ. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1.000 – 1.300 tấn, trong đó chủ yếu là tôm bộp, tôm sắt và hơn 7.000 tấn moi biển. Về mực: Vùng biển Thanh Hoá và phụ cận có nguồn lợi mực rất phong phú với trữ lượng 13.000 – 14.000 tấn; Khả năng khai thác hàng năm khoảng 5.000 – 6.000 tấn, trong đó có khoảng 3.000 – 4.000 tấn mực ống và 1.500 – 2.000 tấn mực nang. Ngoài ra, vùng biển và ven biển còn có nhiều loại hải đặc sản khác có giá trị kinh tế cao và rất được ưa chuộng trên thị trường trong và ngoài nước như ốc hương, sứa, tôm hùm, cua, ghẹ… Về nuôi trồng thuỷ sản: Thành phố Sầm Sơn có trên 158,7 ha mặt nước thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản, trong đó chủ yếu là ở Quảng Cư (138.7 ha) và một phần ở Quảng Tiến (20 ha). Toàn bộ diện tích này nằm trong đê sông Mã, đã hình thành các ao, đầm có thể nuôi trồng nhiều loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, ghẹ, rong câu… 2.3. Tài nguyên đất Theo kết quả phúc tra thổ nhưỡng của FAO-UNESCO, thị xã Sầm Sơn có 4 nhóm đất chính phân bố như sau: – Nhóm đất cát biển (Arennosols): Đây là loại đất chính, có diện tích gần 1.000 ha, chiếm 55,9% diện tích tự nhiên thị xã. Nhóm đất này phân bố chủ yếu ở các phường Trung Sơn, Bắc Sơn và một phần Trường Sơn, thích hợp cho xây dựng các công trình phúc lợi, xây dựng nhà ở, hoạt động tắm biển và trồng cây lâm nghiệp… – Nhóm đất đỏ có tầng mỏng (Leptoso): diện tích 145 ha, phân bố ở khu vực núi Trường Lệ, thích hợp cho trồng cây lâm nghiệp. – Nhóm đất Glây (Gleysols): Diện tích trên 300 ha, phân bố chủ yếu ở phường Quảng Tiến, xã Quảng Cư và phía một phần phía Tây phường Trung Sơn. Đất có thành phần cơ giới cơ nhẹ, nghèo chất dinh dưỡng, khả năng giữ nước, giữ màu kém… nên năng suất cây trồng thấp. Hiện chủ yếu trồng lúa nước. – Đất khác thành phố Sầm Sơn: Diện tích trên 300 ha, chủ yếu là diện tích đất ao hồ, mặt nước chuyên dùng. Về tình hình sử dụng đất thành phố Sầm Sơn: Theo báo cáo biến động đất ngày 24/6/2010 của UBND thị xã Sầm Sơn, đất đang sử dụng của Sầm Sơn (gồm cả sông suối, mặt nước chuyên dùng) là 1.686,12 ha, chiếm 94,3% diện tích tự nhiên. Trong đó, đất nông nghiệp là 782,2 ha, chiếm 43,7% và đất phi nông nghiệp là 903,9 ha, chiếm 50,5% diện tích tự nhiên toàn thị xã. Trong số đất nông nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là 421,8 ha, chiếm 23,6%; đất sử dụng vào sản xuất lâm nghiệp là 201,02 ha, chiếm 11,24% và mặt nước nuôi trồng thủy sản là 159,4 ha, chiếm 8,9% diện tích tự nhiên của thị xã. Đất chưa sử dụng còn 102,7 ha, chiếm 5.7% diện tích tự nhiên, trong đó chủ yếu là đất bằng (97,6 ha) phân bố ở khu vực ven sông Mã, sông Đơ. Thời gian tới cần có kế hoạch khai thác quỹ đất này vào phát triển sản xuất, nhất là cho du lịch và nuôi trồng thủy sản. Biểu 01: Hiện trạng sử dụng đất của thị xã Sầm Sơn
Chỉ tiêu 2005 2010 Tăng tuyệt đối
DT (ha) % DT (ha) %
Tổng DT tự nhiên 1788.83 100.0 1788.83 100.0 0.0
1. Diện tích đã sử dụng 1685.07 94.2 1686.12 94.26 1.05
a) Đất nông nghiệp 833.42 46.59 782.24 43.73 -51.18
– Đất SX nông nghiệp 466.25 26.06 421.81 23.58 -44.44
– Đất SX lâm nghiệp 200.57 11.21 201.02 11.24 0.45
– Mặt n­­ước nuôi trồng TS 166.6 9.31 159.41 8.91 -7.19
b) Đất phi nông nghiệp 851.65 47.6 903.88 50.53 52.23
– Đất ở 369.33 20.6 378.68 21.17 9.35
– Đất chuyên dùng 290.18 16.2 313.71 17.54 23.53
– Đất phi NN khác 192.14 10.7 211.49 11.82 19.35
2. Diện tích ch­­ưa sử dụng 103.76 5.80 102.71 5.74 -1.05
– Đất bằng ch­­ưa sử dụng 98.68 5.52 97.64 5.46 -1.04
– Núi đá không có rừng 5.08 0.28 5.07 0.28 -0.01
Nguồn: Biến động đất theo mục đích sử dụng của UBND Tx.Sầm Sơn; ngày 24/6/2010. Nhìn chung hầu hết diện tích đất bằng ở Sầm Sơn đã được khai thác sử dụng vào các mục đích khác nhau, tuy nhiên việc sử dụng đất hiện nay cũng còn nhiều bất cập, tỷ lệ đất nông nghiệp còn khá cao, tỷ lệ đất du lịch và dịch vụ tương đối thấp, nhất là đối với một đô thị du lịch. Vì vậy thời gian tới cần quy hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhất là cho xây dựng đô thị và phát triển du lịch, dịch vụ để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. 2.4. Tài nguyên nước * Về nước mặt: Trên địa bàn Sầm Sơn có 02 sông chính chảy qua là sông Mã và sông Đơ; tổng lưu lượng dòng chảy trung bình khoảng 14 tỷ m3/năm, trong đó lưu lượng dòng chảy chủ yếu là của sông Mã, còn sông Đơ chỉ là một nhánh nhỏ chảy dọc thị xã (từ sông Mã ở phía Bắc đến cống Trường Lệ ở phía Nam), có lưu lượng không đáng kể. Hiện nay việc khai thác nguồn nước mặt ở Sầm Sơn gặp nhiều khó khăn do nằm ở vùng cửa sông ven biển nước thường bị nhiễm mặn. Mặt khác nguồn nước phân bố không đều trong năm, mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 10) lưu lượng dòng chảy lớn, chiếm tới 78% tổng lượng nước cả năm, thường gây ngập úng; ngược lại vào mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 5) lưu lượng dòng chảy nhỏ, chỉ chiếm khoảng 22% nên thường gây hạn hán… ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân. * Về nước ngầm: Nước ngầm tại khu vực Sầm Sơn khá phong phú nhưng chất lượng thấp. Mặt khác, thời gian qua do khai thác quá mức nên nguồn nước ngầm đang bị nhiễm mặn, đặc biệt các mạch sâu bị nhiễm mặn rất nặng, không thể sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất. 2.5. Tài nguyên rừng Hiện tại thị xã Sầm Sơn có 201,02 ha rừng, trong đó hầu hết phân bố trên núi Trường Lệ và một phần rừng trồng ven biển. Rừng ở Sầm Sơn tuy không đem lại hiệu quả trực tiếp về kinh tế nhưng có giá trị rất lớn về bảo vệ môi trường sinh thái như chắn gió bão, ngăn mặn xâm thực vào đất liền… và tạo cảnh quan thiên nhiên phục vụ phát triển du lịch. 2.6. Tài nguyên khoáng sản Tài nguyên khoáng sản ở Sầm Sơn không nhiều cả về chủng loại và trữ lượng, chủ yếu là một số nguyên liệu để sản xuất vật liệu xây dựng như: – Đá Granit ở núi Trường Lệ với trữ lượng vài triệu m3 chất lượng khá tốt, có thể sản xuất vật liệu xây dựng. – Fenspat chứa trong các vỉa đá trên núi Trường Lệ, trữ lượng khoảng 17.000 tấn là nguyên liệu tốt để sản xuất men sứ. – Quặng titan ở dải cát ven biển, trữ lượng 73.000 tấn có thể làm nguyên liệu để sản xuất que hàn. Nhìn chung, các điểm khoáng sản này đều có trữ lượng nhỏ và phân bố ở những khu vực nhạy cảm, vì vậy cần quản lý‎ chặt chẽ, không cho khai thác nhằm bảo vệ môi trường, cảnh quan cho phát triển du lịch. II – ĐẶC ĐIỂM DÂN SỐ VÀ NGUỒN NHÂN LỰC 1. Dân số Năm 2009 tổng dân số của Sầm Sơn là 62.050 người (năm 2010 ước khoảng 62.550 người), chiếm gần 1,7% dân số toàn tỉnh Thanh Hóa. Mật độ dân số bình quân 3.496 người/km2, cao gấp 10 lần mức trung bình của tỉnh (khoảng 340 người/km2). Trong 5 năm trở lại đây, tốc độ tăng dân số của Sầm Sơn có xu hướng giảm dần từ 1,05% thời kỳ 2001 – 2005 xuống còn 0,92% thời kỳ 2006 – 2010, thấp hơn mức tăng dân số trung bình của tỉnh (1,01%). Nguyên nhân chính là do công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình được thực hiện thường xuyên và hiệu quả, mặt khác do có sự di chuyển của một bộ phận lao động của thị xã đi làm ăn, sinh sống ở các địa phương khác. Về phân bố dân cư thành phố Sầm Sơn: Là một đô thị du lịch nên phần lớn dân cư của Sầm Sơn sinh sống ở 3 phường nội thị cũ (Bắc Sơn, Trung Sơn và Trường Sơn), chiếm trên 53% tổng dân số; cao hơn nhiều so với tỷ lệ dân số thành thị của tỉnh (9,8%) và cả nước (27%). Về chất lượng dân số thành phố Sầm Sơn: Sầm Sơn có cơ cấu dân số tương đối trẻ; trình độ học vấn của dân cư khá cao. Đến nay Sầm Sơn đã hoàn thành phổ cập giáo dục THCS đúng độ tuổi (năm 2004); 45% trường đạt chuẩn quốc gia, 37% lực lượng lao động được đào tạo. Đây là nguồn nhân lực chủ yếu sẽ được huy động vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của thị xã trong những năm tới. Biểu 02: Dân số và lao động thị xã Sầm Sơn đến năm 2010
Tăng BQ (%/n.)
Chỉ tiêu 2000 2005 2010 2001 – 2005 2006 – 2010
1. Quy mô DS (người) 56.721 59.749 62.550 1.05 0.92
– DS Phi nông nghiệp 30.567 33.128 1,62
% so với tổng DS 51.2 54,0
– DS nông nghiệp 29.182 28.922 – 0,18
% so với tổng DS 48.8 46,0
2. DS trong độ tuổi LĐ 32.898 34.953 38.281 1,22 1,84
% so với tổng DS 58.0 58.5 61,2
Nguồn:Số liệu Thống kê của UBND thị xã Sầm Sơn. 2. Nguồn nhân lực thành phố Sầm Sơn Nguồn nhân lực của Sầm Sơn khá dồi dào. Năm 2010 dân số trong độ tuổi lao động có khoảng 38.280 người, chiếm 61,2% tổng dân số. Hiện nay số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 31.670 người, chiếm 82,7% lao động trong độ tuổi, trong đó phần lớn là lao động ở khu vực dịch vụ, chiếm trên 50% tổng số lao động xã hội. Cơ cấu lao động cũng đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng lao động nông lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 44,3% năm 2000 xuống còn 31,2% năm 2009; lao động khu vực dịch vụ tăng nhanh từ 24,4% năm 2000 lên 59.3% năm 2009 (riêng lao động ngành du lịch chiếm 32%); lao động công nghiệp – xây dựng tăng từ 8% năm 2000 lên 9,5% năm 2009. Như vậy, chỉ trong 9 năm (từ 2000 – 2009) tỷ trọng lao động dịch vụ và công nghiệp đã tăng 13,1%. Đây là kết quả đáng khích lệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn. Mặc dù số lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ lớn nhưng do việc làm có tính thời vụ cao nên thời gian nhàn dỗi nhiều, ảnh hướng khá lớn đến thu nhập của người lao động. Về chất lượng nguồn nhân lực: Những năm gần đây chất lượng lao động ở Sầm Sơn đã được cải thiện một bước, trình độ văn hoá của lực lượng lao động ngày được nâng cao. Tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp phổ thông giảm, số lao động tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông ngày càng tăng. Số lao động được đào tạo tăng đều qua các năm, từ 30% năm 2005 lên 40% năm 2010. Tuy nhiên hầu hết số lao động được đào tạo hiện đang làm việc tại các cơ quan hành chính sự nghiệp. Còn ở các cơ sở sản xuất kinh doanh phần lớn là lao động phổ thông, chất lượng thấp. Biều 03: Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế
Chỉ tiêu 2000 2005 2010
I Số LĐ đang làm việc(người) 23.896 27.705 31.670
1 LĐ trong ngành NLN và TS 10.589 11.508 9.762
2 LĐ trong ngành CN – XD 1.912 2.554 3.071
3 LĐ trong ngành dịch vụ 11.395 13.643 18.837
Tr.đó: LĐ du lịch 5.836 7.920 10.230
II Cơ cấu (%) 100 100 100
1 LĐ trong ngành NLN và TS 44.3 41.5 30.8
2 LĐ trong ngành CN – XD 8.0 9.2 9.7
3 LĐ trong ngành dịch vụ 47.7 49.2 59.5
Tr.đó: LĐ du lịch 24.4 28.6 32.3
Nguồn: UBND thị xã Sầm Sơn Tóm lại nguồn nhân lực của thành phố Sầm Sơn mặc dù đã được nâng cao đáng kể, song nhìn chung vẫn còn bất cập cả về số lượng và chất lượng; số lao động chưa được đào tạo còn chiếm tỷ lệ khá cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Sầm Sơn với tốc độ nhanh trong thời gian tới. 3. Dự báo dân số và nguồn nhân lực đến năm 2020 Trên cơ sở những kết quả của công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe ban đầu đã đạt được thời gian qua, dự báotừ nay đến năm 2020 tốc độ tăng dân số tự nhiên của thành phố Sầm Sơn (trong phạm vi thị xã hiện nay) sẽ giảm dần xuống còn khoảng 0,85 %/năm giai đoạn 2011 – 2015 và 0,8 %/năm giai đoạn 2016 – 2020. Tuy nhiên, do Sầm Sơn là một đô thị du lịch đang phát triển nhanh nên tốc độ tăng dân số cơ học sẽ khá cao, dự báo khoảng 0,35 – 0,4 %/năm giai đoạn 2011 – 2015 và 1,0 – 1,2 %/năm giai đoạn 2016 – 2020. Như vậy, tốc độ tăng dân số chung của Sầm Sơn giai đoạn 2011 – 2020 sẽ đạt khoảng 1,6 %/năm, trong đó tốc độ tăng tự nhiên là 0,82 %/năm và tăng cơ học là 0,78 %/năm. Đến năm 2015 dân số của Sầm Sơn sẽ đạt 66.394 người và năm 2020 đạt khoảng 73.300 người. Cùng với sự tăng dân số, nguồn nhân lực của Sầm Sơn cũng tăng nhanh, dự báo năm 2015 đạt 43.420 người và năm 2020 đạt khoảng 50.000 người, chiếm 68,2% tổng dân số của thị xã (chưa kể số lao động ở các địa phương khác đến làm việc theo thời vụ trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ). Đây là nguồn lực rất quan trọng đối với sự phát triển của Sầm Sơn trong tương lai, song cũng là một sức ép lớn đối với Sầm Sơn trong vấn đề tạo thêm việc làm mới cho số lao động tăng thêm và cả số lao động thời vụ hiện nay. Mặt khác để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội với tốc độ nhanh trong giai đoạn tới, nhất là phát triển du lịch, đòi hỏi phải có kế hoạch thật cụ thể để đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn. Biểu 04: Dự báo dân số, lao động của Sầm Sơn đến năm 2020 Đơn vị: người
Chỉ tiêu 2005 2010 2015 2020
1. Tổng dân số 59.749 62.550 66.394 73.306
Tốc độ tăng DS(%/n.) 1,05 0,92 1,2 2,0
Tr.đó: Tăng tự nhiên 1,05 0,92 0,85 0,8
– DS phi nông nghiệp 30.591 38.969 48.136 61.724
% so với tổng DS 51,2 62,3 72,5 84,2
– DS NL nghiệp & TS 29.158 23.581 18.258 11.582
% so với tổng DS 48,8 37,7 27,5 15,8
2. DS trong độ tuổi LĐ 34.953 38.593 43.422 49.995
% so với tổng DS 58,5 61,7 65,4 68,2

SẦM SƠN VỮNG BƯỚC ĐI LÊN XÂY DỰNG THỊ XÃ THÀNH ĐÔ THỊ DU LỊCH BIỂN VĂN MINH, HIỆN ĐẠI, GIÀU ĐẸP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Thị xã Sầm Sơn là địa bàn ven biển, nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thanh Hóa, đất không rộng (1.790 ha), người không đông (gần 60.000 người) nhưng được thiên nhiên ban tặng nhiều tài nguyên, danh lam, thắng cảnh đẹp, quyến rũ, khí hậu trong lành. Sầm Sơn còn là vùng đất có truyền thống lịch sử lâu đời, giàu bản sắc văn hóa, mang đậm chất dân tộc Việt, nhân dân Sầm Sơn từ bao đời nay đã có tinh thần yêu nước, yêu vùng biển quê hương, cần cù, chịu khó, đoàn kết, chung sức, chung lòng trong lao động, sản xuất và trong đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Các yếu tố đó đã tạo nên các điều kiện cơ bản để hình thành, phát triển vùng du lịch, nghỉ mát lý tưởng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn. Xuất phát từ những điều kiện thực tế của địa phương, phát huy những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội đạt được của thị xã qua 30 năm xây dựng, trưởng thành (1981–2011), nhất là những thành tích đạt được của giai đoạn 2005 – 2010; Đại hội Đảng bộ thị xã Sầm Sơn lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 – 2015 đã đề ra mục tiêu, phương hướng phát triển thị xã trong những năm tiếp theo đó là: Phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh đô thị du lịch biển, tăng cường nội lực và thu hút các nguồn lực đầu tư nhằm đầu tư, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội. Phấn đấu đến năm 2015 Sầm Sơn trở thành đô thị loại III. Phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, trong đó chú trọng phát triển 2 ngành kinh tế có thế mạnh là dịch vụ du lịch và nghề cá. Với tinh thần cách mạng tiến công, mục tiêu giai đoạn 2010 – 2015, Sầm Sơn phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt từ 18% trở lên. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng: tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng Ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp. GDP đầu người đến năm 2015 đạt 2.200 USD. Tập trung nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa – xã hội, nâng cao mức sống nhân dân. Giữ vững quốc phòng – an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, đảm bảo kỷ cương, tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Sầm Sơn thực sự trở thành một trong những khu vực động lực phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hóa, một đô thị du lịch biển văn minh, giàu đẹp và hiện đại. Chung sức cùng cán bộ, nhân dân cả tỉnh xây dựng tỉnh Thanh Hóa đến năm 2015 có mức thu nhập bình quân dầu người bằng mức thu nhập bình quân chung của cả nước và đến năm 2020 trở thành Tỉnh tiên tiến mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 –2015 đã đề ra. Du lịch được xác định là ngành kinh tế chủ đạo, có tiềm năng và lợi thế phát triển nhất của Sầm Sơn. Vì vậy, từ nay đến năm 2020 thị xã tập trung phát triển nhanh và bền vững ngành du lịch gắn kết chặt chẽ với các điểm du lịch lớn trong tỉnh và cả nước, sớm đưa Sầm Sơn thực sự trở thành đô thị du lịch biển hiện đại của khu vực và cả nước.Tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư đủ năng lực đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn. Hình thành một số khu du lịch nghỉ dưỡng cao cấp và khu vui chơi giải trí tổng hợp, hiện đại có tầm quốc gia và quốc tế như: Khu du lịch sinh thái xã Quảng Cư, Khu du lịch sinh thái ven Sông Đơ, Khu du lịch sinh thái – văn hóa Núi Trường Lệ, Khu du lịch nghỉ dưỡng cao cấp Nam Sầm Sơn… Tăng cường tổ chức các tuyến, tua du lịch kết nối Sầm Sơn với các khu du lịch, các địa điểm di tích, danh lam, thắng cảnh trong và ngoài tỉnh như Hàm Rồng, Lam Kinh, Thành Nhà Hồ, Bến En, suối cá Cẩm Lương, hồ Cửa Đặt, Cửa Lò, Kim Liên (Nghệ An), Bích Động, Tràng An, Bái Đính (Ninh Bình)… và một số tuyến du lịch quốc tế đến các điểm du lịch nổi tiếng ở Bắc Lào, Đông Bắc Thái Lan. Bên cạnh đó, do xác định rõ vai trò quyết định của yếu tố nguồn nhân lực đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội nhất là kinh tế du lịch, trong những năm tiếp theo thị xã tập trung đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhanh nguồn nhân lực du lịch nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, từng bước xây dựng một lực lượng lao động du lịch ở Sầm Sơn có chuyên môn, nghiệp vụ và tính chuyên nghiệp cao trong đó chú trọng đào tạo về nghiệp vụ du lịch du lịch, về ngoại ngữ, kiến thức lịch sử văn hóa, phong cách giao tiếp, ứng xử… đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của một đô thị du lịch hiện đại. Để khai thác tối đa lợi thế phát triển các ngành kinh tế của Sầm Sơn, nhất là kinh tế du lịch, trong giai đoạn tiếp theo Sầm Sơn tập trung phát triển các ngành dịch vụ theo hướng hiện đại, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ và các thành phần kinh tế tham gia, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ mới để kích thích sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân, ưu tiên các ngành dịch vụ có giá trị tăng cao như tài chính, ngân hàng, dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông…; Phát triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống thương mại trên địa bàn, kết hợp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại chất lượng cao với hệ thống các trung tâm thương mại, các siêu thị, các chợ và các của hàng, cửa hiệu như trung tâm thương mại Bắc Sơn (phường Bắc Sơn), Trung tâm tài chính – thương mại hiện đại theo chuẩn quốc tế (ở nút giao giữa đại lộ Nam sông Mã với đường Lê Thánh Tông), Trung tâm đầu mối hải sản (quy mô cấp vùng) tại Quảng Tiến… Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, nhất là hàng thủy sản và thủ công mỹ nghệ sang các thị trường đã có và các thị trường mới như Nhật Bản, EU. Sớm xây dựng Sầm Sơn trở thành một trong những điểm hội tụ hàng hóa chính của tỉnh, là trung tâm giới thiệu sản phẩm của Thanh Hóa. Đạt tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ là 20,4%/năm. Sầm Sơn nằm gần các ngư trường khai thác chính ở phía Bắc Vịnh bắc Bộ, đồng thời có Cảng Hới là một trong những cảng cá lớn của vùng Bắc Trung Bộ và cả nước. Vì vậy, cùng với ngành du lịch, thủy sản cũng là ngành sản xuất chính và là ngành sản xuất truyền thống, có ưu thế của thị xã, từ lâu thủy sản Sầm Sơn đã nổi tiếng thơm, ngon trong cả nước. Phát huy ưu thế này, từ nay đến năm 2020 thị xã tập trung hiện đại hóa ngành thủy sản trên tất cả các lĩnh vực, bố trí các phương tiện và cơ cấu ngành nghề hợp lý, phù hợp với ngư trường, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề theo hướng giảm tàu có công suất bé, tăng tàu công suất lớn (140 CV đến 400 CV), mở rộng khai thác xa bờ xuống ngư trường phía Nam và ngư trường biển Đông giáp quần đảo Hoàng Sa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kết hợp bảo vệ quốc phòng an ninh. Phấn đấu đến năm 2020 sản lượng khai thác hải sản của Sầm Sơn đạt khoảng 24.000 tấn, trong đó sản lượng khai thác xa bờ chiếm hơn 70%. Bên cạnh các ngành kinh tế mũi nhọn là dịch vụ – du lịch và khai thác, nuôi trồng thủy sản, nhằm khai thác tối đa về nguồn nhân lực và nguồn nhiên liệu, nhất là nguồn lợi hải sản, thị xã cũng rất chú trọng phát triển ngành công nghiệp – TTCN gắn với quá trình đô thị hóa và cải thiện môi trường sinh thái nhằm tạo việc làm, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Phấn đấu giai đoạn 2010 – 2020 tốc độ tăng trưởng GTGT CN–TTCN đạt 13,6%. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến hải sản, nhất là các ngành nghề chế biến truyền thống như: Nước mắm đặc sản Quảng Tiến, mực, tôm, cá khô, đông lạnh… phục vụ xuất khẩu và du lịch với quy mô lớn và công nghệ tiên tiến. Đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các cơ sở đóng, sửa chữa tàu, thuyền nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành khai thác hải sản và du lịch trên địa bàn. Khôi phục và phát triển các nghề, làng nghề truyền thống ở địa phương, khuyến khích phát triển các làng nghề mới gắn kết với nhau tạo thành quần thể “Làng nghề du lịch”. Trước mắt đẩy mạnh việc khôi phục các Làng nghề dệt Săm súc ở xã Quảng Cư, chế biến hải sản ở Quảng Tiến; Tiếp tục du nhập, nhân rộng và phát triển các nghề mới như: Sản xuất mây, tre đan, mỹ thuật từ dừa, thêu tranh nghệ thuật, sản xuất đồ mỹ nghệ từ vỏ ốc, vỏ sò và sinh vật biển tận thu… phục vụ phát triển du lịch và xuất khẩu. Trong những năm tới, quá trình đô thị hóa ở sầm Sơn sẽ diễn ra nhanh chóng, cùng với sự phát triển của các ngành dịch vụ, du lịch… quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp sẽ giảm mạnh dự kiến đến năm 2020 chỉ còn khoảng 75ha. Vì vậy, sản xuất Nông – Lâm nghiệp ở Sầm Sơn sẽ phát triển theo hướng nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái, chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành một số sản phẩm hàng hóa có khối lượng lớn, chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu du lịch trên địa bàn như: Rau, đậu, hoa, cây cảnh…. Đối với lâm nghiệp, thị xã tập trung phát triển lâm nghiệp theo hướng đảm bảo chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường, tạo cảnh quan đô thị xanh, sạch, đẹp và tham gia phát triển du lịch. Tiếp tục đầu tư bảo vệ nghiêm ngặt rừng đặc dụng trên núi Trường Lệ và rừng phòng hộ ven biển, ven lạch Hới. Quy hoạch phát triển trồng cây xanh dọc Sông Đơ, dọc các bãi tắm, trên các đường phố, trong các khu du lịch, các khu đô thị, khu dân cư… Đến năm 2020, ổn định diện tích rừng trên địa bàn khoảng 180 – 200ha, góp phần làm cho Sầm Sơn ngày càng xanh, sạch và đẹp hơn. Nhằm tạo điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế – xã hội của thị xã với tốc độ nhanh, thị xã đặc biệt quan tâm phát triển kết cấu hạ tầng như phát triển mạng lưới cấp điện, cấp nước, thoát nước, xử lý chất thải, hạ tầng bưu chính – viễn thông… Nhất là quan tâm phát triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống giao thông trên địa bàn đảm bảo tính liên hoàn, liên kết trong toàn thị xã và giữa thị xã Sầm Sơn với các địa phương khác. Từ nay đến năm 2015, triển khai nâng cấp và xây dựng mới các trục giao thông chính là Đại Lộ Nam Sông Mã, dự kiến hoàn thành vào năm 2012. Quốc lộ 47 (cửa ngõ chính của thị xã Sầm Sơn), mở rộng mặt đường từ 4 – 6 làn xe; Tuyến đường nối khu Nam Sầm Sơn với thành phố Thanh Hóa; Tuyến đường Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, đường Hồ Xuân Hương kéo dài; các đường nhánh xuống biển…; Sau năm 2015 đầu tư xây dựng tuyến đường duyên hải (kéo dài đường Trần Hưng Đạo qua Nga Sơn, Hậu Lộc và đến khu kinh tế Nghi Sơn). Song song với quá trình đầu tư, phát triển các ngành kinh tế chủ đạo, thị xã cũng rất chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội tạo nền tảng, động lực cho tăng trưởng bền vững; Mục tiêu đề ra là phấn đấu giảm tỷ lệ phát triển dân số xuống còn 0,95% năm 2015 và 0,9% vào năm 2020. Mỗi năm giải quyết việc làm cho hơn 1.500 lao động, nâng tỷ lệ lao động được đào tạo nghề lên 65% vào năm 2015. Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4% năm 2015 và dưới 2% vào năm 2020. Coi giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn dân và đặt thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để nâng cao dân trí và xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao nhất là nguồn nhân lực cho kinh tế du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển của thị xã trong giai đoạn tới. Phấn đấu đến năm 2020, 100% số trường trên địa bàn đạt chuẩn quốc gia, giữ vững thành tích phổ cập THCS và đạt phổ cập THPT trước năm 2020. Chăm lo phát triển sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng theo hướng dự phòng tích cực và chủ động lấy phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu làm mục tiêu phấn đấu, không để dịch bệnh phát sinh và lây lan trên địa bàn đặc biệt là trong mùa du lịch. Tập trung xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở theo hướng kết hợp văn hóa hiện đại với khôi phục và phát triển những nét văn hóa truyền thống. Tăng cường cơ sở vật chất, hệ thống các thiết chế văn hóa đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa thông tin, TDTT trên địa bàn. Quan tâm bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử. Tiếp tục thực hiện tốt Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và Nghị quyết số 04 của Ban chấp hành Đảng bộ thị xã khóa XIV về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng một số lĩnh vực văn hóa trên địa bàn thị xã Sầm Sơn. Từ nay đến năm 2020 thị xã dự kiến xây dựng Quảng trường lớn ở trung tâm để phục vụ các lễ hội; Xây dựng quần thể văn hóa thể thao ( Nút giao đường Lý Tự trọng và Lê Lợi ). Cùng với công tác chăm lo phát triển các sự nghiệp kinh tế – xã hội, để chủ động phòng ngừa và đấu tranh với các thủ đoạn của các thế lực thù địch và các loại tội phạm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi truờng xã hội ổn định phục vụ công cuộc phát triển kinhh tế – xã hội. Cấp ủy, Chính quyền địa phương luôn quan tâm đến công tác củng cố quốc phòng – an ninh với phương trâm gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng – an ninh. Hoàn thành tốt các nhiệm vụ quân sự tại địa phương. Tập trung đấu tranh giải quyết tốt tình trạng mất an ninh trật tự xã hội như: Nghiện hút, buôn bán ma túy, mại dâm, trộm cắp, số đề… Chủ động nắm tình hình, ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm, không để xảy ra các vụ án nghiêm trọng, các tội phạm có tổ chức giữ được sự an toàn và bình yên cho nhân dân và du khách khi đến thăm quan, du lịch, nghỉ dưỡng tại thị xã Sầm Sơn. Thị xã Sầm Sơn là một trong những đô thị du lịch biển trọng điểm của cả nước, có nhiều tiềm năng phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, sản phẩm du lịch. Để đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài của thị xã, cần thiết phải mở rộng không gian thị xã, kết hợp với tổ chức hợp lý không gian đô thị; Dự kiến trong tương lai thị xã có thể mở rộng không gian về phía tây, thêm 6 xã thuộc huyện Quảng Xương (gồm: Quảng Châu; Quảng Thọ; Quảng Vinh; Quảng Minh; Quảng Hùng và Quảng Đại), với tổng diện tích là 22,1km2, nâng diện tích tự nhiên của Sầm Sơn lên 45km2, gấp 2,5 lần diện tích hiện nay. Cùng với việc mở rộng không gian, thị xã sẽ tiến hành tổ chức các phân khu chức năng phù hợp với một đô thị mới, hiện đại. Trong đó, lấy núi Trường Lệ làm vùng cảnh quan chính để kiến tạo đô thị; Lấy khu vực ven biển và dọc Sông Đơ làm các trục phát triển chính, tạo không gian thoáng đẹp, hòa nhập với thiên nhiên. Dự kiến xây dựng mới khu Trung tâm hành chính của thị xã ra ngoài khu vực nội thị hiện nay lên phía tây sông Đơ. Hình thành mới các trung tâm khu vực như: Trung tâm khu vực Bắc Sầm Sơn (dự kiến tại ngã ba cuối Đại lộ Nam sông Mã); Trung tâm khu vực Nam Sầm Sơn (Tại ngã tư cuối đường vành đai 3 liên đô thị Thanh Hóa – Sầm Sơn); Trung tâm khu vực Đông Sầm Sơn (Tại 3 phường Trường Sơn, Bắc Sơn, Trung Sơn). Đồng thời quy hoạch sắp xếp lại các khu du lịch hiện có theo hướng hiện đại, đạt tiêu chuẩn Quốc tế, từng bước di dời các cơ quan hành chính và các hộ dân ra ngoài khu vực để dành đất cho phát triển du lịch, tạo cảnh quan đẹp cho khu vực du lịch. Xây dựng mới một số bãi tắm, khu du lịch chất lượng cao. Sau 30 năm, kể từ ngày được thành lập (1981 – 2011), thị xã Sầm Sơn đang ngày một đổi mới, phát triển đi lên, đáng tự hào. Tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trên các mặt, nhưng Thị xã vẫn còn những bộn bề, những khó khăn, những tồn tại, yếu kém phải trăn trở. Nhưng với tiềm năng, lợi thế của đô thị ven biển; với truyền thống cách mạng anh dũng, kiên cường, bất khuất của một đơn vị Anh hùng; với các giải pháp đúng đắn, đồng bộ; với sự ủng hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện của các ngành, các cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, kiên quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương quyết tâm đưa Sầm Sơn phát triển tăng tốc, bền vững. Chúng ta tin tưởng rằng trong tương lai không xa, Thị xã Sầm Sơn sẽ có một diện mạo mới, sẽ trở thành một đô thị du lịch biển trọng điểm, giàu đẹp, hiện đại tầm cỡ quốc gia và quốc tế, là điểm hẹn, điểm đến ấn tượng, lý tưởng của du khách trong và ngoài nước./. SẦM SƠN VỚI CÁC LỄ HỘI Sầm Sơn là vùng đất gắn với nhiều di tích – danh thắng và những lễ hội văn hoá truyền thống lâu đời. Ở đây Chúng tôi xin trích giới thiệu một số lễ hội lớn, được nhân dân khôi phục tổ chức hàng năm trong phạm vi Thị xã. Lễ hội Bánh Chưng Bánh Dày Thường niên, vào ngày 12 tháng 5 âm lịch, nhân dân của 4 làng thuộc xã Lương Niệm xưa tổ chức rước kiệu hội đồng, Thần linh tập trung tại sân Đền Độc Cước, tế lễ và thi làm Bánh Chưng – Bánh Dày. Đây là Lễ hội cầu mưa (Cầu vũ), cầu cho biển lặng gió êm, cầu cho thôn xóm được mùa, cho làng xóm bình yên, nhân dân vào lộng ra khơi đánh bắt được nhiều tôm cá. Những năm gần đây, lễ hội được nhân dân Sầm Sơn khôi phục và phát triển. Vào ngày Lễ hội, kiệu của 8 làng trên địa bàn Thị xã được rước về sân trước Đền Độc Cước từ rất sớm, mỗi đoàn rước có khoảng 300 đến 400 người. Đoàn rước gồm người cầm biển hiệu dẫn đường, sau đó là nhóm người vừa đi vừa diễn trò dân gian đến kiệu làng, mâm bánh chưng bánh dày tế lễ, mâm sơn trang, ngũ quả, và sau cùng là đoàn người già, trẻ, gái, trai ăn vận quần áo truyền thống, khăn xếp áo the. Ở Làng núi và Làng Cá lập còn có đôi nam thanh nữ tú, rước theo bộ quân cờ để diễn trò múa trao quân cờ trước khi khai mạc Lễ hội. Thông thường trong chương trình Lễ hội, ngoài màn tế Thần (Tế chung cho Lễ hội), ban tổ chức Lễ hội còn tổ chức thi Tế giữa các làng, thi đi Cà kheo, thi hát dân ca, Hội vật, cờ người… Le%20hoi%20banh%20trung%20banh%20day - Giới thiệu khái quát thành phố Sầm SơnĐặc sắc và sôi động nhất là chương trình thi làm bánh chưng, bánh dày tại chỗ. Mỗi làng chọn 7 người có sức khoẻ và kinh nghiệm, vận trang phục truyền thống, mang theo một thúng nếp đã được ngâm sẵn, cùng các vật dụng như: cối đá, chày gỗ, mâm đồng đặt bánh, nước sạch và củi lửa. Sau tín hiệu phát lên của Ban tổ chức, chương trình thi làm bánh bắt đầu, lửa bếp được nhóm lên, các làng thi nhau hông xôi, dã xôi, nặn bánh trong tiếng nhạc và âm thanh của trống dục, tiếng reo hò cổ vũ của nhân dân các làng cùng du khách. Mỗi làng làm 2 bánh dày thi, mỗi bánh thường có đường kính 30cm, đỉnh cao 10cm đặt trên mâm đồng (Bánh này không tế lễ). Ban tổ chức sẽ căn cứ điều lệ dự thi để xem xét, chấm điểm. Làng nào có bánh mịn, đẹp, đảm bảo kích thước nhất sẽ đạt giải nhất; điểm thi làm bánh sẽ được cộng vào điểm chung của các môn thi khác để xếp giải toàn đoàn. Cũng có năm theo yêu cầu của Ban tổ chức Lễ hội và nguyện vọng của nhân dân thi làm bánh dày to, chiếc bánh lớn nhất được làm tới 300kg gạo. Nhiều năm qua, Lễ hội bánh Chưng Bánh Dày đã trở thành nội dung không thể thiếu và sôi động nhất trong Lễ hội Văn hoá Du lịch Sầm Sơn hàng năm, thu hút hàng ngàn du khách từ bốn phương về chiêm ngưỡng và tham gia Lễ hội. Lễ hội cầu ngư (Lễ hội đua thuyền – Bơi chải ) Đây là Lễ hội Văn hoá thể thao truyền thống của dân vùng biển Sầm Sơn, được tổ chức vào ngày Rằm tháng 5 âm lịch. Trước đây thường có 4 làng trong xã Lương Niệm tham gia. Lễ hội thường được tổ chức ở cửa Hới, nơi dòng Sông Mã từ ngọn nguồn non cao đổ về gặp biển. Theo các tài liệu nghiên cứu của Tiến sỹ Hoàng Minh Tường, có năm nhân dân Sầm Sơn tổ chức đua bè mảng từ mũi Gầm (Hòn Cổ Dải) tới Bến xứ (Địa phận xã Quảng Tường – Phường Trung Sơn ngày nay) với tổng chiều dài đường đua cả đi và về dài 3km. Người dân 4 làng tổ chức đua thuyền để tỏ lòng tôn kính vị Thần biển, Thần Mặt Trăng – Độc Cước đã phù hộ chở che cho cuộc sống của họ gắn với nghề khai thác đánh bắt hải sản. Trong ngày hội đua thuyền, các làng rước kiệu Thần của làng mình xuống thuyền, mỗi thuyền một kiệu rồi xuôi thuyền ra giữa dòng sông và tế lễ. Khi tế lễ xong thì cuộc đua chính thức bắt đầu. Mỗi thuyền đua 16 người, ăn vận đồng phục đồng mầu, trong đó có một người chỉ huy, một người cầm lái, còn lại là các tay bơi, họ đều là những thanh niên trai tráng, nhanh nhẹn, thông thạo luồng lạch. Đội bơi của mỗi làng mặc một màu quần áo khác nhau: Xanh – Đỏ – Vàng … Le%20hoi%20cau%20ngu - Giới thiệu khái quát thành phố Sầm Sơn Trên chít khăn mỏ rìu, lưng thắt khăn màu đỏ, hiệu lệnh phát ra, các thuyền đua lướt tới, mỗi thuyền phải bơi đủ 4 lượt (2 lượt đi ; 2 lượt về). Thuyền nào về đích trước thì dành phần thưởng bằng mấy vuông vải lụa, rượu và một ít tiền; phần thưởng tuy không lớn nhưng thuyền làng nào về đích sớm thì năm đó sẽ được Thần phù hộ cho làm ăn phát đạt. Các làng sau khi nhận giải thưởng thì đem lễ vật đến Đền tạ Thần, rồi chia phần thưởng cho mọi người, mỗi người một miếng vải lụa nhỏ, một hớp rượu để lấy phước lộc cho cả năm. Kế tục truyền thống ấy, hàng năm Lễ hội Cầu Ngư được tổ chức tại Cảng Hới phường Quảng Tiến. Chủ yếu để trai tráng các khu phố thuộc Phường Quảng Tiến đua tài bằng những chiếc thuyền rồng lớn hơn xưa, số tay bơi mỗi thuyền cũng nhiều hơn ( Từ 23 đến 25 người ), có năm Tỉnh Thanh Hoá và Thị xã Sầm Sơn tổ chức Lễ hội Cầu Ngư mở rộng, mời thêm một số phường xã trên địa bàn Tỉnh và Thị xã cùng tham gia. Từ năm 2008, Lễ hội Cầu Ngư Quảng Tiến đã được Chủ Tịch UBND Thị xã Sầm Sơn Quyết định nâng cấp thành Lễ hội Cầu Ngư toàn Thị xã. Lễ hội làng Lương Trung Le%20hoi%20lang%20luong%20trung - Giới thiệu khái quát thành phố Sầm SơnTheo các tài liệu của nhà nghiên cứu Văn hoá Hoàng Tuấn Phổ – Lê Kim Lữ và Tiến sỹ Hoàng Minh Tương; võ vật vốn có gốc từ Làng Lương Trung, gắn với vai trò một quan võ Thời Lê: Đường Công – Quang Lộc (Người làng Bồng Báo – Vĩnh Lộc ngày nay). Người đã có công giúp vua Lê đánh thắng giặc, rồi kéo quân về khai dân, lập ấp và mở lò võ vật làng Lương Trung. Vào dịp tế lễ Thần Độc Cước và Lễ hội rước Hội Đồng Thần Linh của các làng thuộc xã Lương niệm (16 – 17 tháng giêng hàng năm), hội vật được tổ chức dưới chân Đền Độc Cước để tưởng nhớ công đức các Vị Thần, vừa thể hiện tinh thần Thượng Võ của cư dân Làng Biển. Le%20hoi%20lang%20luong%20trung%202 - Giới thiệu khái quát thành phố Sầm Sơn Múa Rồng, Lân, sư tử trong lễ hội Bánh trưng, bánh dày Sầm Sơn Những năm gần đây, Lễ hội làng Lương Trung được UBND Phường Trung Sơn tổ chức vào dịp 17 tháng giêng hàng năm. Ngoài phần rước kiệu và tế lễ, Ban tổ chức lễ hội phát triến phong phú, đa dạng phần hội như: Hội vật, kéo co, đánh cờ Tướng, cờ người, thi hát dân ca và thi tìm hiểu lịch sử truyền thống quê hương, tạo điều kiện để nhân dân trong vùng được thể hiện nét văn hoá tâm linh góp phần gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phát huy truyền thống văn hoá ngàn đời của cư dân vùng biển Sầm Sơn, ngày nay mỗi di tích lịch sử văn hoá gắn liền với những giá trị lịch sử, văn hoá và kiến trúc các triều đại Lý – Trần – Lê – Nguyễn… gắn liền những huyền thoại, những thiên tình sử đậm chất nhân văn, say đắm lòng người, được nhân dân các làng thôn, phường xã tổ chức đều đặn hàng năm như Lễ hội Bà Triều, Lễ hội đền Lộc Trung, Lễ hội Làng Vạn, Lễ hội kỳ phúc, Lễ hội Cỗ oản, Lễ hội Đền Đệ Tam – Hoàng Minh Tự …; vừa mang yếu tố tâm linh, vừa mang giá trị như một nguồn động lực thu hút nhân dân và du khách bốn phương về Sầm Sơn tham quan – nghỉ mát – tắm biển; Tạo nên sự hoà quyện giữa văn hoá vật chất với văn hoá tinh thần, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước xây dựng Đô thị Du lịch Biển Sầm Sơn Giầu – Đẹp – Văn minh và Hiện đại./.

Từ khóa » Bãi Tắm Sầm Sơn Thuộc Vùng Kinh Tế Nào