HÀN MẶC TỬ Với “ Đà Lạt Trăng Mờ”

HÀN MẶC TỬ với “ Đà lạt trăng mờ”

(Bài viết của TRẦN NGỌC TRÁC – trích DUYÊN NỢ ĐÀ LẠT – NXB Văn Học)

Có lẽ sau 80 năm để có, hiếm thấy một bài thơ nào viết về Đà Lạt hay như bài thơ “Đà Lạt trăng mờ” của Hàn Mặc Tử. Tôi đã sưu tầm hơn ba ngàn bài thơ viết về Đà Lạt đăng trên các báo, tạp chí và cả bản thảo viết tay của nhiều văn nghệ sĩ khắp mọi miền đến Đà Lạt sáng tác và cố gắng lắm cũng làm được một tuyển thơ về Đà Lạt. Thơ hay đã khó, thơ lưu lại trong trái tim người yêu thơ lại càng khó vô cùng.

Khi chưa là công dân của thành phố Đà Lạt, tôi cũng như nhiều người yêu thơ khác đều biết đến bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ” của Hàn Mặc Tử. Đó là giai đoạn phương tiện nghe nhìn chưa phát triển. Thời mà học sinh trung học còn mơ mộng, lãng mạn, kiếm tìm những bông hoa ép vào cuốn sổ, chép những bài thơ tình lên trang vở …Bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ” cũng được chép lại cẩn thận như một báu vật của riêng mình.

Chỉ thoáng nghe hai câu thơ “ Để nghe tơ liễu run trong gió / Và để nghe trời giải nghĩa yêu” là bọn trẻ chúng tôi hồi đó đã đỏ mặt. Con gái thì “ hồng đôi má” thẹn thùng. Con trai thì xấu hổ. Vậy mà vẫn “ lén lút” chuyền tay nhau bài thơ này của Hàn Mặc Tử.

Năm 1933 , nhà thơ Hàn Mặc Tử lên Đà Lạt chơi. Cảm xúc trước thiên nhiên kì vĩ của Đà Lạt, Hàn Mặc Tử đã viết bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ”:

Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu

Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ

Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt

Như đón từ xa một ý thơ.

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều

Để nghe dưới đáy nước hồ reo

Để nghe tơ liễu run trong gió

Và để nghe trời giải nghĩa yêu.

Hàng thông thấp thoáng đứng trong im

Cành lá in như đã lặng chìm

Hư thực làm sao phân biệt được

Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm.

Cả trời say nhuộm một màu trăng

Và cả lòng tôi chẳng nói rằng

Không một tiếng gì nghe động chạm

Dẫu là tiếng vỡ của sao băng…

Hình ảnh liễu rũ bên Hồ Xuân Hương, lăn tăn sóng gợn, hàng thông lặng im, thực mơ mơ thực…đã làm cho Hàn Mặc Tử xao xuyến vung bút thành thơ.

Mời nghe bài hát phổ bài thơ cùng tên:

Để hiểu rõ hơn về bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ” của Hàn Mặc Tử, con trai của nhà thơ Quách Tấn – ông Quách Giao cho hay : “ Ba tôi và Hàn Mặc Tử quen nhau từ năm 1931. Khi đó ba tôi làm việc tại Toà công sứ Đà Lạt, Hàn Mặc Tử sống với mẫu thân tại Quy Nhơn.

…Năm 1932, Hàn Mặc Tử làm ở Sở đạc điền Qui Nhơn. Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1933), Hàn Mặc Tử nhân được nghỉ phép lên Đà Lạt thăm ba tôi. Hai nhà thơ đi thưởng ngoạn các thắng cảnh, từ thác Cam Ly đến rừng Ân Ái. Trong tập hồi ký “ Đôi nét về Hàn Mặc Tử”, ba tôi đã ghi:

“Trước hết đi xem các cảnh gần. Cảnh nào cũng làm cho Tử trìu mến.

Đến Cam Ly, Tử nhất định ở lại suốt ngày. Khách du quan lúc nào cũng có. Phần đông đều dồn nơi thác và nơi các tiểu đình. Tử thích đứng trên những chiếc cầu cong cong làm bằng những khúc thông để nguyên vỏ và bắc ngang qua những dòng khe đá chảy quanh co.

Gió thổi mát lạnh và mùi hoa rừng thoang thoảng đưa.

Vì cảnh mênh mông, không thể đứng một chỗ để ngắm. Theo những con đường khuất khúc và rợp bóng thông, nhưng rất sạch sẽ vì có người coi sóc, tôi đưa Tử vào rừng sâu. Bóng nắng lọt qua kẽ lá trông trong dịu như bóng trăng và tiếng thông cuộn gió nghe ào ào như tiếng sóng.

Đứng trên đồi cao trông xuống cảnh rừng Ân Ái (Bois d’Amour) thật chẳng khác nào đứng nhìn mặt biển lộng gió nồm. Chợt nhớ câu hát trong tuồng Hộ Sanh của Đào Tấn, tôi buột miệng hát:

Lao xao sóng bủa ngọn tùng

Gian nan là nợ anh hùng phải vay.

Tử vỗ tay khen: “Thật tân kỳ!”

Sau cuộc du ngoạn bằng ngựa ở Đường vòng Mỹ cảnh (Tour des 99 Points de vue), Hàn Mặc Tử đã thấy được đàn cà tông, ngủ trưa bên hồ Than Thở (Lac des Soupirs), nằm ngắm trời xanh, ngửi hơi nhựa thông bay phảng phất trong gió trưa.

Tối đến, đôi tri kỷ tay trong tay đi dạo cảnh Đà Lạt lúc ban đêm. Ba tôi đã ghi vào tập hồi ký:

“ Dạo cảnh Đà Lạt lúc ban đêm cũng là một kỳ thú. Những con đường quanh co, khi lên cao khi xuống thấp, nhiều khi đường chồng lên nhau. Lắm nơi, đứng xa mà trông, thấy như những cuộn vải đen giăng lơ lửng trên đọt cây… Đèn điện lẫn lộn cùng sao, trên cao có, dưới thấp có, chỗ thì chói rọi giữa không, chỗ thì khép nép trong cành lá… Mùi nhựa thông ban đêm bay ngát cả không khí. Thỉnh thoảng mùi hoa mimosa, mùi hoa violet trộn lẫn vào thành một hương vị đặc biệt, hít vào thấy nhẹ cả châu thân.

Tử nắm tay tôi, đi từng bước một, không nói không rằng.

Đến bờ hồ nhìn xuống mặt nước, chúng tôi mới nhớ là đêm trăng! Mặt hồ lóng lánh. Và vầng trăng dưới nước trông trong sáng gấp mấy lần vầng trăng ở trên mây.

Tử nói:

– Cứ xem bóng trăng cũng biết nước hồ ở Đà Lạt trong đến ngần nào!

Tôi tiếp:

– Theo tôi chỉ có nước hồ Đà Lạt và nước sông Hương mới đáng gọi là nước. Nước ở các sông, các hồ, dù trong đến đâu, sắc xanh cũng có phần lợt lạt. Duy nước hồ Đà Lạt và nước sông Hương là đượm đà màu nước biển. Ai đã từng nhìn đôi mắt của người đẹp Ấn Độ – đôi mắt xanh như ngọc và xa thăm thẳm như vòm trời ngày thu – thì mới tin lời nói của tôi là không huyễn hoặc. Muốn thấy rõ cái đẹp của nước hồ Đà Lạt thì phải đến ngắm lúc ban trưa tạnh trời.

Tử trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

– Không có cảnh thì khó có thơ, mà đứng trước cảnh đẹp quá, thơ nghĩ cũng không ra được.

– Theo tôi không phải vì cảnh quá đẹp mà thơ không dám ra. Đó là vì đứng trước cảnh đẹp cũng như đứng trước tình đẹp, người thơ mắc lo tận hưởng cái đẹp của tình, của cảnh, tâm trí đâu còn rảnh rang mà nghĩ đến thơ. Huống nữa người thơ chỉ làm thơ trong khi thiếu thốn. Tình kia đã quá đầy đủ để cho tâm hồn ôm ấp thì người thơ còn thiếu thốn gì nữa mà làm thơ.

Tử vỗ tay tán thưởng.

Chúng tôi đang nói chuyện thì dường như có một luồng ánh sáng từ trong hồ bay ra và thoáng nhẹ ở trước mắt. Chúng tôi chú mục: Một đám sương lớn bằng một chiếc chiếu chõng nổi lềnh bềnh trên mặt hồ. Sương mỗi lúc mỗi vun cao và lan rộng, phản chiếu ánh trăng sáng hực cả bốn bên. Trong phút chốc mặt hồ bị khuất hẳn và trước mặt chúng tôi nổi lên một ngọn “núi bông gòn” trắng phau và sáng ánh. Rồi một ngọn gió thổi nhẹ, sương ùn ùn toả ra khắp nơi và cuốn cả trời đất muôn vật. Chúng tôi không còn thấy gì ngoài ánh trăng. Đến nỗi chúng tôi đứng sát bên nhau mà chúng tôi nhìn cũng không thấy rõ được nhau!

Chúng tôi có cảm giác là trời đất đã tan ra thành thuỷ tinh và chúng tôi đương đứng lơ lửng giữa hư vô… Sương bay thấm má và một luồng hơi mát chạy khắp châu thân, gây một cảm khoái dìu dịu…

Tôi nói khẽ cùng Tử:

– Mình đương chìm vào mộng hay mộng đương lắng vào mình?

– Hư thực phân biệt làm sao được! Nhưng chớ nói nhiều… Hãy lắng nghe… Dường như có tiếng thì thầm từ đáy hồ vọng đến. Tôi không mơ đâu nhé! Hãy lắng nghe…

Đứng tựa lan can cầu trước dinh quản đạo, chúng tôi nắm chặt tay nhau… Rồi sương tan dần và dần dần mặt trăng sáng trở lại.

Tử nói:

– Cảnh thật huyền mơ! Tiếng lòng lẫn cùng tiếng tạo vật! Con người hoà hẳn vào thiên nhiên.”

Sau đêm ngắm trăng trên mặt hồ Đà Lạt, Hàn Mặc Tử và ba tôi đều bị cảm lạnh. Một tuần sau hai người chia tay.

Vẻ đẹp huyền diệu của non sông Đà Lạt đã là nguồn cảm hứng cho hai bài thơ Đà Lạt đêm sương và Đà Lạt trăng mờ của ba tôi và Hàn Mặc Tử.”

Với những thông tin có được từ ông Quách Giao, chúng ta hiểu thêm hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Đà Lạt trăng mờ” của Hàn Mặc Tử.

Nhà văn Mai Văn Hoan ở Huế cũng có bài viết “Đây xứ thiêng liêng…” với những tình cảm đặc biệt dành cho Hàn Mặc Tử :

“Nếu Quy Nhơn là nơi khởi đầu sự nghiệp thi ca Hàn Mặc Tử thì Đà Lạt lại là nơi Hàn Mặc Tử đã tìm được cho mình một không gian thơ thích hợp. Con người thường sống trong hai cõi: cõi thực và cõi mộng. Hàn Mặc Tử cũng vậy. Nhưng có lẽ do bị rơi vào cảnh ngộ đặc biệt nên về cuối đời, Tử thường sống trong cõi mộng nhiều hơn cõi thực. Hơn ai hết, Hàn Mặc Tử luôn có ý thức tìm mối quan hệ giữa sống và chết, giữa thực và hư, giữa sắc và không. Hàn Mặc Tử quan niệm: “Sắc cũng như không, chết cũng như sống, gần cũng như xa và hư cũng như thực”. Với Tử “ Hư và thực là những huyền ảo chập chờn trước mắt” (Chiêm bao với sự thật).

Chính vì thế mà khi đặt chân đến Đà Lạt, Hàn Mặc Tử đã thốt lên:

Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu!

Đó không chỉ là phút khởi đầu của tình yêu, của niềm say mê mà còn là phút khởi đầu của thi ca, của sự sáng tạo nghệ thuật. Phút khởi đầu đó hết sức quan trọng. Hàn Mặc Tử như đang đắm chìm trong khói sương Đà Lạt:

Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ!

Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt,

Như đón từ xa một ý thơ.

Ngỡ như Đà Lạt chờ đợi giây phút này đã lâu, ngỡ như trời đất này là để dành riêng cho Hàn Mặc Tử. Không ở đâu “hư và thực là những huyền ảo chập chờn trước mặt” như ở đây. Giữa khói sương mờ ảo ấy “hư thực làm sao phân biệt được!”. Điều này rất đúng với quan niệm của Hàn Mặc Tử: “Hư cũng như thực, thực cũng như hư”. Ngay cả trăng sao cũng phải “đắm đuối” trong màn sương hư ảo đó. Nếu chỉ tả cho hợp cảnh, chắc tác giả sẽ viết “Trăng sao chới với trong sương nhạt”. Nhưng “chới với” chỉ hợp cảnh mà không hợp tình. Phải là “trăng sao đắm đuối” mới diễn tả được niềm đam mê của Hàn Mặc Tử với khói sương Đà Lạt. Cũng trăng ấy, cũng sao ấy, cũng khói sương ấy nhưng phải đến Hàn Mặc Tử mới trở nên “đắm đuối” như thế!.

Không gian Đà Lạt là một không gian đầy sao: “ Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm”, không gian Đà Lạt còn là một không gian đầy trăng: “Cả trời say nhuộm một màu trăng”. Trăng sao, khói sương với những “hàng thông lấp loáng” đã tạo nên nét đẹp riêng của cảnh trời Đà Lạt. Đà Lạt không chỉ có vẻ đẹp huyền ảo, Đà Lạt còn là nơi hết sức yên tĩnh. Hàn Mặc Tử đã “huy động” rất nhiều từ cùng vần để diễn tả sự yên tĩnh ấy: “làm thinh”, “đứng trong im”, “cành lá in”, “lặng chìm”. Đà Lạt yên tĩnh đến mức ngỡ như nghe được cả tiếng nước reo dưới đáy hồ, “tơ liễu run trong gió”… Yên tĩnh đến mức:

Không một tiếng gì nghe động chạm

Dẫu là tiếng vỡ của sao băng…

Cái không gian vô cùng yên tĩnh, cái không gian đầy sương khói, đầy trăng, đầy sao, cái không gian “hư thực làm sao phân biệt được” của Đà Lạt ghi dấu ấn khá sâu đậm trong tâm thức Hàn Mặc Tử. Và thi sĩ đã mang theo cái không gian Đà Lạt ấy đi suốt cuộc hành trình thi ca của mình. Dường như ở đâu, đi đâu thi sĩ cũng nhìn thấy không gian Đà Lạt. “Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng” trong bài thơ Huyền ảo của thi sĩ phảng phất hương khói Đà Lạt. Màn sương đêm bao phủ “những tháp kiêu ngạo”, trong bài thơ Thi sĩ Chàm tặng Chế Lan Viên cũng phảng phất cái màn sương Đà Lạt. Ngay cả khi bày tỏ niềm khao khát gặp lại người con gái thôn Vĩ mà thi sĩ vẫn thầm yêu trộm nhớ, Hàn Mặc Tử cũng như đang đắm chìm giữa không gian Đà Lạt:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

(Đây thôn Vĩ Dạ)

Và rất nhiều lần Hàn Mặc Tử tái hiện cái không gian Đà Lạt ấy:

Chiếc cầu chở cả một đêm trăng

Muôn ánh sao ngời chói thẳng băng

Muôn sợi hương trầm say bối rối…

(Ghen)

Có thể khẳng định: không gian Đà Lạt đã biến thành không gian thơ của Hàn Mặc Tử. Đà Lạt đã biến thành thế giới riêng của Hàn Mặc Tử. Hiếm có nhà thơ nào tạo dựng được cho mình một không gian đầy trăng, đầy sao, đầy khói sương như thi sĩ.

Hàn Mặc Tử phải cám ơn cái giây phút thiêng liêng khi lần đầu tiên đặt chân đến Đà Lạt. Ngược lại, Đà Lạt cũng rất biết ơn nhà thơ thiên tài đã vĩnh cửu hóa vẻ đẹp huyền ảo và yên tĩnh của Đà Lạt trong một đêm trăng mờ. Nếu giữ được vẻ đẹp sương khói và yên tĩnh ấy, Đà Lạt sẽ còn làm “đắm đuối” bao nhiêu du khách như Hàn Mặc Tử đã từng đắm đuối!”

Tháng 9 năm 2008, bài thơ “Đà Lạt trăng mờ” đã được nhà giáo Thân Trọng Sơn ở thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng dịch sang tiếng Pháp như sau:

DALAT SOUS LA LUNE VOILÉE

Voici le moment divin qui a déjà commencé

Un ciel de rêve dans un tableau féerique

La lune et les étoiles dans la brume blafarde noyées

Semblent attendre de loin une ébauche poétique.

Qu’on ne parle pas, qu’on cesse les causeries

Pour écouter, au fond du lac, les eaux murmurer

Pour écouter, dans le vent, les saules frissonner

Le ciel va expliquer ce que l’amour signifie.

Les pins s’aperçoivent, debout, dans le silence

Leurs branches et feuilles ne font aucun bruit.

Entre l’irréel et le réel, distingue-t-on la différence !

La voie lactée émerge sur le rideau de la nuit.

Le firmament s’enivre, teinté de clarté lunaire,

Et tout mon cœur veut maintenant se taire.

Aux alentours, aucun heurt ne se fait entendre

Pas même l’éclat lointain d’une étoile filante.

Traduction de THÂN TRỌNG SƠN

Dẫu thời gian có thay đổi, số phận con người nay còn mai mất thì bài thơ “ Đà Lạt trăng mờ” của Hàn Mặc Tử vẫn tồn tại và ở mãi trong lòng công chúng yêu thơ qua nhiều thế hệ. Đó là món quà vô giá mà nhà thơ Hàn Mặc Tử viết riêng cho Đà Lạt. Bây giờ có dịp đọc lại, ngâm nga – cho dù ngôn ngữ thơ có phần đã cũ nhưng Hàn Mặc Tử vẫn nói hộ được bao điều cho đôi lứa yêu nhau mà Đà Lạt là nơi dễ gợi lên trong nhau những tình yêu đẹp, lãng mạn, quyến rũ…

Nguồn FB. Son Than

Chia sẻ:

  • Twitter
  • Facebook
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » để Nghe Tơ Liễu Rung Trong Gió