Hàng Hóa Là Gì? Hai Thuộc Tính Của Hàng Hóa

591

Hàng hóa là gì? Tìm hiểu Hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị.

Mục lục ẩn 1. Hàng hóa là gì? 2. Hai thuộc tính của hàng hóa a. Giá trị sử dụng của hàng hóa b. Giá trị của hàng hóa c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính 3. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. 4. Lượng giá trị của hàng hóa

1. Hàng hóa là gì?

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ…

Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

2. Hai thuộc tính của hàng hóa

a. Giá trị sử dụng của hàng hóa

Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó (tính có ích) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ, công dụng của gạo là để ăn, vải để may mặc…

Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hóa học) của thực thể hàng hóa đó quyết định, vì vậy giá trị sử dụng là một phạm trù mang tính vĩnh viễn.

Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng càng cao.

Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng của người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được.

Trong kinh tế hàng hóa, vật mang giá trị sử dụng cũng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.

b. Giá trị của hàng hóa

Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một lượng giá trị sử dụng này đổi được với một lượng giá trị sử dụng khác.

Thí dụ: 1m vải = 5 kg thóc.

Tức 1 m vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.

Vấn đề là, tại sao vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, và hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định (1:5)?

Hai hàng hóa khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó là: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có một lượng lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy.

Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.

Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.

c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính

Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.

Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, tức một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng hóa. Chẳng hạn, một vật có ích (tức có giá trị sử dụng), nhưng không do lao động tạo ra (tức không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hóa.

Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hóa.

Thứ hai, tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước, trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó, nếu giá trị của hàng hóa không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. Như vậy, mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.

Khi cung > hơn cầu, Giá cả < giá trị người bán bị thiệt, người mua hưởng lợi, và ngược lại, khi cung < hơn cầu, giá cả > giá trị người bán có lợi, người mua phải trả giá cao hơn, khi cung = cầu, giá cả = giá trị, mua ,bán đúng giá trị của hàng hóa.

3. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.

C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.

a. Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp, chuyên môn nhất định.

Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ, đối tượng và kết quả lao động riêng. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào… và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra bàn, ghế để ngồi… Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì lao động cụ thể càng nhiều và do đó giá trị sử dụng cũng càng nhiều.

b. Lao động trừu tượng.

Lao động trừu tượng là lao động khi đã gạt bỏ hết những hình thức cụ thể của nó. Nói cách khác, lao động trừu tượng chính là sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa.

Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.

Cần chú ý, lao động cụ thể và lao động trừu tượng không phải là loại lao động mà chỉ là tính chất hai mặt của một quá trình lao động

Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa.

Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hóa sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.

Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động mang tính xã hội. Vì phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất – lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:

Thứ nhất: Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội, có thể thừa hoặc có thiếu, sinh ra khủng hoảng kinh tế.

Thứ hai: Nếu mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn mức tiêu hao lao động mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán bị lỗ.

Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa làm cho sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển, vừa có khả năng khủng hoảng.

4. Lượng giá trị của hàng hóa

a. Thưc đo lượng giá tr ca hàng hóa

Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động, như ngày, giờ…

Song, trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hóa, nhưng với mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Do đó lượng giá trị của hàng hóa không phải do thời gian lao động cá biệt quy định (vì nếu như vậy thì người sản xuất ra hàng hóa càng lười, càng yếu kém bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của họ lại càng lớn bấy nhiêu). Mà lượng giá trị của hàng hóa được đo bởi “thời gian lao động xã hội cần thiết”.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, tức là với một mức trang bị kỹ thuật trung bình, trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình của xã hội.

Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của người cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.

Như vậy, thời gian lao động cá biệt chỉ quyết định giá trị cá biệt của hàng hóa mà thôi.

b. Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.

– Năng suất lao động:

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ tay nghề của người lao động, mức độ phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.

Năng suất lao động tăng lên thì khối lượng hàng hóa sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại, tức là giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

– Cường độ lao động:

Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, nặng nhọc của lao động. Tăng cường độ lao động tức là tăng mức độ khẩn trương, nặng nhọc của lao động.

Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra trong một thời gian tăng lên và mức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa không đổi.

– Mức độ phức tạp của lao động:

Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.

Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể thực hiện được. Lao động phức tạp, thực chất là lao động giản đơn được nhân bội lên.

Vì vậy, trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động giản đơn và phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình, cần thiết làm đơn vị trao đổi.

5/5 - (1 bình chọn)Bài viết liên quan:
  1. Chức năng và ý nghĩa nghiên cứu Kinh tế chính trị Mác – Lênin
  2. Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư
  3. Nền kinh tế nhiều thành phần là gì? Tính tất yếu khách quan
  4. Cơ chế thị trường là gì? Ưu điểm và Khuyết tật
Kinh tế chính trị Mác - Lênin

Từ khóa » Trình Bày 2 Thuộc Tính Của Hàng Hóa