Hát Chầu Văn | Tiếng địa Phương Wiki | Fandom

Về Trang Chính

Chầu văn

Hầu_Văn_Huế_Mẫu_Thoải_Cung

Hầu Văn Huế Mẫu Thoải Cung

HẦU_BÓNG_TRONG_TỤC_THỜ_MẪU_Ở_HUẾ

HẦU BÓNG TRONG TỤC THỜ MẪU Ở HUẾ

1._HẦU_ĐỒNG_HUẾ_-NHẤT_SƠN_ĐIỆN_TẠI_TPHCM_-_HẦU_NGÀI_ĐỆ_NHỊ_THƯỢNG_THIÊN_CHỨNG_ĐÀN

1. HẦU ĐỒNG HUẾ -NHẤT SƠN ĐIỆN TẠI TPHCM - HẦU NGÀI ĐỆ NHỊ THƯỢNG THIÊN CHỨNG ĐÀN

Lễ khai bàn tại Nhất Sơn Điện diễn ra vào ngày 21 tháng Giêng ÂL hằng năm có sự tham dự của đệ tử và bạn bè đồng đạo. Giá hầu Ngài Đệ Nhị Thượng Thiên do Thủ am Hoàng Ngọc Tuấn hầu, văn công Mr. Cường Văn

Hầu_Ông_Hoàng_Mười

Hầu Ông Hoàng Mười

Festival_Huế_2010_Hát_múa_-_Chầu_Văn_Huế_(Tình_Đất_Phương_Nam)_-_Vân_Khánh_-_Nghệ_sĩ_Linh_Nga_...

Festival Huế 2010 Hát múa - Chầu Văn Huế (Tình Đất Phương Nam) - Vân Khánh - Nghệ sĩ Linh Nga ...

Chầu văn lên sân khấu

Chầu_Văn_-_Huế

Chầu Văn - Huế

Chầu văn đời thường

Hầu_đồng_Huế(Cậu_Tôn_Thần_Đệ_Nhị).flv

Hầu đồng Huế(Cậu Tôn Thần Đệ Nhị).flv

Hầu tại Bằng Bạch Nhơn Am tháng 7 năm Canh Dần

Hầu_Đồng_Việt_Nam_Lăng_Cô

Hầu Đồng Việt Nam Lăng Cô

Huế_2013-_Xem_hầu_đồng_cầu_an_(1)

Huế 2013- Xem hầu đồng cầu an (1)

Chầu_Văn_Huế

Chầu Văn Huế

Hát_chầu_văn_Huế

Hát chầu văn Huế

Nghệ nhân Việt Hùng - Thu Thuỷ

Hát văn, còn gọi là chầu văn hay hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu những năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển. Các trung tâm của hát văn là Hà Nam, Nam Định và một số vùng thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chầu văn đang được quan tâm bảo tồn và lập hồ sơ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể[1]. Hiện tại, Nghi lễ chầu văn của người Việt ở Hà Nam, Nam Định đã được đưa vào danh sách 33 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam (đợt 1).

Mục lục

  • 1 Phân loại
  • 2 Trình bày
  • 3 Phần lời của chầu văn
  • 4 Âm nhạc
  • 5 Thứ tự trình diễn
  • 6 Các làn điệu và tiết tấu

Phân loại[]

Hát văn có nhiều hình thức biểu diễn bao gồm là hát thờ, hát thi, hát hầu (hát phục vụ hầu đồng, lên đồng), và hát văn nơi cửa đền:

  • Hát thờ: được hát vào các ngày lễ tiết, những ngày tiệc thánh (ngày thánh đản sinh, ngày thánh hóa...) và hát trước khi vào các giá văn lên đồng.
  • Hát hầu, trong hát hầu theo tín ngưỡng tứ phủ thì ba giá tam tòa Thánh Mẫu là bắt buộc và hầu tráng bóng chứ không tung khăn. Các giá tung khăn bắt đầu từ hàng Quan Lớn trở xuống. Trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, người ta có thể kết hợp hầu tứ phủ hoặc hầu riêng, nếu hầu kết hợp với tứ phủ thì thường thỉnh tam tòa Thánh Mẫu đầu tiên, còn nếu hầu riêng thì mới thỉnh đức Thánh Vương Trần Triều đầu tiên. Một số tác phẩm tiêu biểu như "Cô Đôi Thượng Ngàn",...
  • Hát văn nơi cửa đền: thường gặp tại các đền phủ trong những ngày đầu xuân, ngày lễ hội. Các cung văn hát chầu văn phục vụ khách hành hương đi lễ. Thường thì cung văn sẽ hát văn về vị thánh thờ tại đền, và hát theo yêu cầu của khách hành hương. Nhiều khi lời ca tiếng hát được coi như một bài văn khấn nguyện cầu các mong ước của khách hành hương. Một đoạn văn thường hát thí dụ như:
Con đi cầu lộc cầu tài. Cầu con cầu của gái trai đẹp lòng. Gia trung nước thuận một dòng. Thuyền xuôi một bến vợ chồng ấm êm. Độ cho cầu được ước nên. Đắc tài sai lộc ấm êm cửa nhà. Lộc gần cho chí lộc xa. Lộc tài lộc thọ lộc đà yên vui.

Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng bà Cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh. Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cuông (khai quang) cho thanh sạch.

Trình bày[]

Chầu văn là một thể hát do cung văn hát trong nghi thức hầu bóng lên đồng. Cung văn ngồi một bên mé trong khi người hầu bóng, gọi là đệ tử thánh, ngồi trước bàn thờ. Hai bên cung văn là nhạc công tấu nhạc cùng ban phụ họa hát theo. Hai bên đệ tử thánh thì có người phụ việc sửa soạn khăn áo để khi thánh nhập thì trang phục ăn khớp với giá đồng. Người phụ việc cũng lo các lễ vật dâng cúng cùng lộc thánh để phát cho các người đến cung nghinh.

Phần lời của chầu văn[]

Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ), hát nói…

Các thí dụ minh họa:

- Thể thất ngôn: (trích đoạn bỉ của văn

280px-Lien2

Động tác người lên đồng luôn phải ăn khớp với bài hát văn

công đồng)

森森鶴駕從空下

Sâm sâm hạc giá tòng không hạ

顯顯鸞輿滿坐前

Hiển hiển loan dư mãn tọa tiền

不舍威光敷神力

Bất xả uy quang phu thần lực

證明功德量無邊

Chứng minh công đức lượng vô biên

- Thể song thất lục bát: (Trích văn Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên) Chốn cung tiên mây lồng ánh nguyệt

Cảnh bầu trời gió quyện hương bay

Cửu trùng tọa chín tầng mây

Thiên Tiên Đệ Nhất ngự rày trung cung

Gió đông phong hây hây xạ nức

Bộ tiên nàng chầu chực hôm mai

Dập dìu nơi chốn trang đài

Chính cung Mẫu ngự trong ngoài sửa sang

- Thể lục bát: (Trích văn Chầu Đệ Nhị) Trên ngàn gió cuốn rung cây

Dưới khe cá lặn chim bay về ngàn

Canh khuya nguyệt lặn sao tàn

Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào

Gập ghềnh quán thấp lầu cao

Khi ra núi đỏ lúc nào ngàn xanh

Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh

Ngôi cao công chúa quyền hành núi non

- Thể song thất nhất bát (Trích văn Cô Bơ Thoải)

280px-Trang phục Mẫu Thoải

Phục trang của người hầu đồng Mẫu Thoải

Nhang thơm một triện,trống điểm ba hồi

Đệ tử con, dâng bản văn mời

Dẫn sự tích thoải cung công chúa

Tiền duyên sinh ở:thượng giới tiên cung

Biến hóa lên về Động Đình trung

Thác sinh xuống,con vua thoải tộc

Điềm trời giáng phúc,thoang thoảng đưa hương

Mãn nguyệt liền,hoa nở phi phương

Da tựa tuyết ánh hường tươi tốt

- Thể hát nói: (Trích văn Quan Đệ Nhị)

Nhác trông lên tòa vàng san sát,

Không đâu bằng Phố Cát, Đồi Ngang

Đá lô xô nước chảy làn làn

Điều một thú cỏ hoa như vẽ

Nhạn chiều hôm bay về lẻ tẻ,

Trên sườn non chim sẻ ríu ran.

nước dưới khe tung tính tiếng đàn,

Trên đỉnh núi tùng reo điểm trống

Ngần ngật Sòng Sơn kiêu dĩ lộng

Thanh thanh chi thủy chiếu trần tâm

Sơn chi cao hệ thủy chí thâm

Đây thực chốn non nhân nước trí

Âm nhạc[]

Hát văn là lễ nhạc hát chầu Thánh nên có vai trò quan trọng trong lễ hầu đồng. Lời ca, tiếng nhạc của cung văn nhằm mời gọi các vị Thánh về. Hát văn làm cho buổi lễ sống động. Những người hát văn vừa chơi nhạc cụ vừa thay nhau hát trong một vấn hầu thường kéo dài từ 4-8 tiếng[2]

Các nhạc cụ chính gồm đàn nguyệt, trống ban (trống con), phách, cảnh, thanh la, ngoài ra còn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như: trống cái, sáo, đàn thập lục, đàn nhị, kèn bầu, chuông, mõ, đàn bầu,...

Thứ tự trình diễn[]

  • Nghi lễ hát chầu văn lên đồng có thể chia thành bốn phần chính:
  1. Mời thánh nhập
  2. Kể sự tích và công đức
  3. Xin thánh phù hộ
  4. Đưa tiễn

Bài hát thường chấm dứt với câu: "Xa loan thánh giá hồi cung!"

Các làn điệu và tiết tấu[]

Về tiết tấu, hát văn thường sử dụng nhịp ngoại (đảo phách). Loại nhịp này mang đến một cảm giác không ổn định trong tâm trí người nghe, đưa người nghe vào trạng thái mông lung, huyền ảo.

Hát chầu văn sử dụng nhiều làn điệu (hay còn gọi là lối hát, cách hát). Người xưa còn gọi làn điệu là cách 格. Thí dụ như điệu bỉ thì gọi là bỉ cách, điệu dọc thì gọi là dọc cách…

Các làn điệu hát văn cơ bản gồm: Bỉ, Miễu, Thổng, Phú Bình, Phú Chênh, Phú Nói, Phú rầu (phú dầu), Đưa Thơ, Vãn, Dọc, Cờn Xá, Kiều Dương, Hãm, Dồn, điệu kiều thỉnh, Hát Sai (Hành Sai), ngâm thơ. Ngoài ra còn sử dụng nhiều làn điệu khác như hát nói trong ca trù, hát then, hò Huế, hồ quảng, hát canh …..

  • Bỉ mang sắc thái trịnh trọng, được dùng để mở đầu cho hình thức hát văn thờ. Thông thường điệu Bỉ được hát trên thể thơ thất ngôn tứ cú (bốn câu mỗi câu bảy chữ) hoặc thất ngôn bát cú (tám câu mỗi câu bảy chữ) nhưng cũng có khi điệu này có thể hát trên các thể thơ khác như song thất lục bát, lục bát, song thất nhất bát. Trong các bản sự tích chư thánh được hát thờ thì đoạn bỉ thường là đoạn giới thiệu tóm tắt nội dung chính của cả bản văn. Các đoạn bỉ cũng thường sử dụng nhiều câu đối nhau (biền ngẫu). Một điều đặc biệt nữa đó là điệu bỉ chỉ có trong hát văn thờ mà tuyệt nhiên không có trong hát văn hầu đồng. Bỉ được lấy theo dây lệch, nhịp theo lối dồn phách.
  • Miễu là lối hát rất nghiêm trang, đĩnh đạc, chỉ được dùng trong hát thi và hát thờ, tuyệt nhiên không bao giờ được dùng trong Hầu Bóng. Miễu được lấy theo dây lệch, nhịp đôi.
  • Thổng chỉ dành riêng cho văn thờ và văn thi, được lấy theo dây bằng, nhịp ba.
  • Phú Bình dành riêng cho hát văn thờ, rất đĩnh đạc, và dùng để hát ca ngợi các nam thần. Phú Bình được lấy theo dây lệch, nhịp 3.
  • Phú Chênh là lối hát buồn, thường dùng để hát trong những cảnh chia ly. Được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
  • Phú nói thường dùng để mô tả cảnh hai người gặp gỡ, nói chuyện với nhau. Dùng trong hát văn thờ, văn thi và cả trong hầu bóng. Lấy theo dây bằng, nhịp ba hoặc không có nhịp mà chỉ dồn phách.
  • Phú rầu là lối hát rất buồn, được lấy theo dây bằng nhưng hát theo nhịp đôi.
  • Đưa thơ được lấy theo dây bằng, nhịp 3 và dồn phách, nhưng chủ yếu là dồn phách.
  • Vãn lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất lục bát, hát theo lối vay trả (vay của câu trước thì trả lại trong câu sau).
  • Dọc lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất - lục bát và hát theo nguyên tắc vay trả. Nếu hát từng câu thì gọi là nhất cú. Nếu hát liền hai câu song thất - lục bát thì gọi là "Dọc gối hạc" hay "Dọc nhị cú".
  • Cờn dùng để ca ngợi sắc đẹp các vị nữ thần. Cờn được lấy theo dây lệch, nhịp đôi. Có thể hát theo dây bằng, nhưng hầu hết là hát kiểu dây lệch (biến hóa).
  • Hãm lấy theo dây bằng, nhịp đôi, đây là lối hát rất khó vì phải hát liền song thất lục bát. Trong lối hát này có một tuyệt chiêu là Hạ Tứ Tự, có nghĩa là mượn bốn chữ của trổ sau, khi sang một trổ mới thì lại trả lại bốn chữ ấy.
  • Dồn được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
  • Xá là một trong những điệu hát quan trọng nhất khi hát văn hầu bóng (cùng với Cờn, Dọc, Phú nói). Điệu Xá đặc trưng cho các giá nữ thần miền thượng.

Ngoài ra hát chầu văn còn có thể mượn các làn điệu nhạc cổ truyền khác như ca trù, quan họ, hò Huế và cả những điệu hát của dân thiểu số[3]

Xen kẽ những đoạn hát là đoạn nhạc không lời, gọi là lưu không.

Về Trang Chính

Từ khóa » Cậu đệ Nhị Tôn Thần