Hạt Nhân Nguyên Tử – Wikipedia Tiếng Việt

 
Mẫu hình học của nguyên tử hạt nhân. Được tạo thành từ hai nucleon : Proton (màu đỏ), neutron (màu xanh). Trong mô tả này, proton và neutron trông như những quả banh nhỏ kết dính vào nhau. Nhưng theo định dạng vật lý hạt nhân hiện đại, chỉ có thể giải thích bằng vật lý lượng tử. Trong một nucleus sẽ có độ năng lượng nhất định (ví dụ: trạng thái cơ bản), mỗi nucleon sẽ có khoảng cách nhất định.

Được phát hiện vào năm 1911 bởi nhà khoa học đạt giải Nobel Hóa Học Ernest Rutherford bằng phương pháp thí nghiệm lá vàng Geiger–Marsden để thử nghiệm áp dụng plum pudding model của nhà khoa học J.J Thomson lên nguyên tử. Sử dụng góc chiếu xoay chiều của chùm tia hạt alpha (helium nuclei) rồi áp dụng trực tiếp lên một miếng kim loại dát mỏng.

Sau khi tìm ra được neutron vào năm 1932, các mẫu hình của một hạt nhân nguyên tử (nucleus) được hình thành từ các proton và neutron được phát triển trong các công trình nghiên cứu của nhà khoa học Dmitri Ivanenko và nhà khoa học Werner Heisenberg. Trong phương trình, một nguyên tử là tổng hợp của các nucleus mang điện tích dương, với những đám mây electron mang điện tích âm che phủ xung quanh nó, chúng sẽ tương tác với nhau bằng lực tĩnh điện. Gần như khối lượng của nguyên tử đều ở trong nucleus, thêm một phần cộng hưởng nhỏ đến từ đám mây điện tích.

Đường kính của một hạt nhân nguyên tử (nucleus) sẽ từ khoảng 1.70 fm (1.70×10−15 m) cho nguyên tố hydrogen (đường kính của một proton) cho đến 11.7 fm với nguyên tố uranium. Những kiểu mẫu hình học này sẽ nhỏ hơn đường kính thật của nguyên tử (tổng nucleus + mây electron) bởi hệ số là 26,634. Ví dụ: bán kính hạt nhân nguyên tử uranium là khoảng 156 pm (156×10−12 m) lên đến tầm 60,250 (bán kính Bohr của Hydrogen là khoảng 52,92 pm).

Nghiên cứu về hạt nhân nguyên tử là một nhánh trong vật lý hạt nhân để lưu trữ và tìm hiểu thêm về cấu trúc và các lực kết nối tạo thành chúng.

Từ khóa » Khối Lượng Hạt Nhân Con