Hệ Thống Sông, Rạch Miền Tây
Có thể bạn quan tâm
TMO - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) gồm địa phận 13 tỉnh thành phố (Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau), có tổng diện tích tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, chiếm 79% diện tích toàn châu thổ và bằng 5% diện tích lưu vực sông Mekong.
Vùng ĐBSCL có hệ thống sông ngòi, kênh rạch khá phong phú, bao gồm hệ thống sông thiên nhiên và kênh đào. Trong đó, sông Tiền và sông Hậu là hai sông chính chi phối mạnh mẽ sự phát triển của vùng này. Sông Tiền đóng vai trò quan trọng ngay sau khi phân lưu từ dòng chính Mekong do có lưu lượng nước lớn hơn sông Hậu (86%/14%). Sau khi sông Tiền chia bớt nước sang sông Hậu qua Vàm Nao, hai sông mới tạo lập được thế cân bằng (49%/51%). Sau Mỹ Thuận, sông Tiền lần lượt có các phân lưu lớn kế tiếp nhau là sông Cổ Chiên, sông Hàm Luông, sông Ba Lai, sông Cửa Đại và Cửa Tiểu. Sông Hậu chỉ chia 2 trước khi đổ ra biển chừng 30 km qua cửa Định An và Trần Đề.
Đối với hệ thống sông Vàm Cỏ, sông Vàm Cỏ bao gồm 2 nhánh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, đều bắt nguồn từ Campuchia, chảy qua vùng phía Đông ĐBSCL, đến Cầu Nổi nhập lại để cùng chảy ra hạ lưu sông Đồng Nai (sông Nhà Bè) trước khi ra biển qua cửa Cần Giờ. Sông Vàm Cỏ Đông có nguồn sinh thủy độc lập, gắn với miền Đông Nam bộ, sông Vàm Cỏ Tây gắn liền với ĐBSCL khi nhận nước từ sông Mekong sang trong cả mùa nước nổi và mùa khô.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có 13 tỉnh, thành phố với dân số (2019) khoảng trên 17 triệu người.
Hệ thống sông Cái Lớn-Cái Bé, đây là các sông vùng chịu ảnh hưởng triều, xuất phát từ trung tâm Bán đảo Cà Mau và đổ ra biển qua cửa Cái Lớn. Do nối với sông Hậu bởi nhiều kênh đào lớn nên chế độ dòng chảy của hệ thống sông Cái Lớn-Cái Bé cũng chịu ảnh hưởng chế độ dòng chảy từ sông Hậu. Sông Giang Thành: Sông Giang Thành có nguồn một sông nhỏ xuất phát từ vùng núi phía Tây-Nam Campuchia, sau đó chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia và đổ ra biển qua đầm Đồng Hồ tại thị xã Hà Tiên.
Ngoài ra, vùng ĐBSCL còn nhiều nhánh sông, rạch khác chạy theo sông Tiền và sông Hậu, tuy ít nhiều đã bị biến dạng và dần mất đi tính tự nhiên do hoạt động của con người, nhưng vẫn còn mang những nét thiên nhiên vốn có, như rạch Hồng Ngự, rạch Cần Lố, rạch Ruộng…
Đối với kênh đào, kênh đào vùng ĐBSCL được phát triển chủ yếu trong vòng hơn 1 thế kỷ nay, với mục đích chính là phát triển nông nghiệp và giao thông thủy. Đến nay, hệ thống kênh đào đã được đan dày ở cả 3 cấp là kênh trục, kênh cấp I, kênh cấp II, kênh cấp III nội đồng. Hệ thống kênh trục phát triển nối sông Hậu với biển Tây (vùng Tứ giác Long Xuyên và Bán đảo Cà Mau), sông Tiền với sông Vàm Cỏ Tây (vùng Tây sông Hậu) và sông Tiền với sông Hậu (Giữa sông Tiền và sông Hậu), đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn nước trực tiếp từ sông chính vào đồng. Hệ thống kênh cấp II được mở rộng trên nhiều vùng ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là các vùng thâm canh lúa dọc sông Tiền và Hậu, nối các kênh trục với nhau, có nhiệm vụ phân phối nước tưới và tiêu nước thừa cho từng khu vực trong nội đồng. Kênh cấp III (hay còn gọi là kênh nội đồng) là cấp kênh nhỏ nhất nhưng lại rất quan trọng, vì đây là hệ thống kênh trực tiếp dẫn nước tưới đến và tiêu nước thừa đi cho từng thửa ruộng. Các cấp kênh trên đây hợp thành một hệ thống kênh mương khá dày, với mật độ 8-10 m/ha.
Sản xuất nông nghiệp là trụ cột kinh tế của vùng.
Vùng ĐBSCL có lượng mưa trung bình khoảng 1.600-1.800 mm, ven biển Tây từ 2.000-2.400 mm và ven biển Đông từ 1.400-1.600 mm. Mưa được phân thành 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 9 năm sau.
Tháng 8 đến tháng 10 là các tháng có lượng mưa lớn nhất trong năm, thường đạt từ 250-300 mm mỗi tháng. Tháng 1 đến tháng 3 là các tháng có lượng mưa ít nhất trong năm, thường là không mưa hoặc mưa không đáng kể. Số ngày mưa trong năm đạt từ 100-140 ngày mưa, chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, với 15-20 ngày mỗi tháng. Lượng mưa trung bình mùa mưa chiếm khoảng 90-92% tổng lượng mưa năm, còn lượng mưa trung bình mùa khô chỉ có 8-10%.
Đồng bằng sông Cửu Long lấy nước ngọt từ sông Mekong và nước mưa. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Trong những năm gần đây, lượng nước bình quân của sông Mekong chảy vào khoảng 410 tỷ m3. Khoảng 17% tổng lưu lượng nước chảy qua sông Hậu tại Châu Đốc và 83% qua sông Tiền tại Tân Châu. Càng về phía hạ lưu, phân bổ lượng nước này càng tiến gần đến tỷ lệ phân đều 50:50 vì một phần nước từ sông Tiền chảy ra sông Hậu qua sông Vàm Nao. Với một hệ thống sông kênh rạch lớn nhỏ đan xen, nên rất thuận lợi cung cấp nước ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, sông Mekong là nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa lũ, thường xảy ra vào tháng 9, nước sông lớn gây ngập lụt.
Lúa là cây trồng chính chiếm khoảng 93% so với tổng diện tích đất cây hàng năm. Tổng diện tích gieo trồng lúa hàng năm khoảng 4,2 triệu ha, trong đó vụ Đông Xuân là 1,6 triệu ha (chiếm 38%); vụ Hè Thu: 1,7 triệu ha (chiếm 40%); vụ Thu Đông là 0,7 triệu ha (chiếm 17%) và vụ Mùa: 0,2 triệu ha (chiếm 5%). Tổng nhu cầu nước cho ngành nông nghiệp ước tính khoảng 17,91 tỷ m3. Nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL trong thời gian qua đã có sự tăng trưởng cả về diện tích, sản lượng; từng bước phát triển thành một nghề sản xuất quy mô hàng hóa, có tính cạnh tranh cao, trong đó diện tích nuôi trồng thủy sản mặn lợ dao động ở mức 691 ngàn ha và diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 106 ngàn ha tổng diện tích nuôi trồng thủy sản hàng năm, tổng nhu cầu nước cho thủy sản ước tính khoảng 21,06 tỷ m3.
Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng trên 17,3 triệu người, tăng 1 triệu người so với năm 2009, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi ở Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 22% và nhóm dân số từ 65 tuổi trở chiếm 8,4%. Điều này có nghĩa là Đồng bằng sông Cửu Long đang trong thời kỳ dân số vàng. Năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn đóng góp trên 12% cho Tổng sản phẩm nội địa cả nước. Riêng nông nghiệp của vùng chiếm 34,6% Tổng sản phẩm nội địa toàn ngành nông nghiệp, đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 60% lượng trái cây của cả nước. Tổng sản phẩm nội địa bình quân đầu người năm 2019 đạt 51,3 triệu đồng, thấp hơn 18% so với trung bình cả nước là 62,7 triệu đồng.
Do bản chất thuần nông của nền kinh tế vùng, tỷ trọng của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong cơ cấu Tổng sản phẩm nội địa ở mức cao 31,5%. Ngành công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm dưới 25,3% tổng sản phẩm của Đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2019. Ngành dịch vụ chiếm 41,2% Tổng sản phẩm nội địa của Đồng bằng sông Cửu Long, tương đương với mức bình quân cả nước.
Việt Nam nằm ở hạ lưu sông Mekong cũng đồng nghĩa đang phải chịu tác động mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế-xã hội, ổn định dân cư. Đây đang là thách thức không nhỏ, đòi hỏi phải có chiến lược tổng thể, lâu dài để thích ứng. Theo các chuyên gia, để phát triển bền vững vùng ĐBSCL cần tinh toán và đảm bảo hài hòa 3 mặt (kinh tế - xã hội - môi trường). Những tính toán này phải được dựa trên cơ sở thực tiễn, khoa học và nhận thức về vai trò tối quan trọng của nguồn nước đối với vùng ĐBSCL.
Khả Văn – Thanh Huệ
Từ khóa » Hệ Thống Kênh Rạch Miền Tây
-
Hệ Thống Kênh Rạch Miền Tây Nam Bộ - Tài Liệu Text - 123doc
-
[PDF] Sông Nước Kênh Rạch Miền Tây
-
Kênh đào ở Nam Bộ Từ Thời Nguyễn đến Thời Thuộc Pháp
-
Tìm Hiểu Kênh Rạch Nam Bộ - Khô Cá
-
Nhiều Sông Rạch Là Lợi Thế Giúp Miền Tây Phát Triển - VnExpress
-
Huyền Thoại Những Dòng Kênh Trăm Tuổi - Báo Đại Đoàn Kết
-
Cuộn Chảy Cùng Những Dòng Sông Miền Tây
-
Những Dòng Kênh Mở Cõi ở Phương Nam
-
Kênh đào Thời Nguyễn ở Nam Bộ
-
Hạ Tầng Nâng Cấp, Miền Tây Hưởng Lợi - Nhà đất
-
HẠ TẦNG NÂNG CẤP - MIỀN TÂY HƯỞNG LỢI - Báo Bạc Liêu
-
Đồng Bằng Sông Cửu Long – Wikipedia Tiếng Việt
-
HẠ TẦNG NÂNG CẤP – MIỀN TÂY HƯỞNG LỢI - Báo Hậu Giang