Héctor Bellerín – Wikipedia Tiếng Việt

Cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha (sinh 1995)Bản mẫu:SHORTDESC:Cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha (sinh 1995) Đối với bài viết này, tên họ thứ nhất hoặc họ cha họ là Bellerín và họ thứ hai hoặc họ mẹ là Moruno. Héctor Bellerín
Bellerín chơi cho Arsenal năm 2015
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Héctor Bellerín Moruno[1]
Ngày sinh 19 tháng 3, 1995 (29 tuổi)[2]
Nơi sinh Barcelona, Tây Ban Nha
Chiều cao 1,78 m (5 ft 10 in)[3]
Vị trí Hậu vệ cánh phải
Thông tin đội
Đội hiện nay Real Betis
Số áo 19
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2003–2011 Barcelona
2011–2013 Arsenal
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2013–2022 Arsenal 183 (8)
2013–2014 → Watford (mượn) 8 (0)
2021–2022 → Real Betis (mượn) 23 (0)
2022–2023 Barcelona 3 (0)
2023 Sporting CP 10 (1)
2023– Real Betis 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡
Năm Đội ST (BT)
2011 U-16 Tây Ban Nha 6 (1)
2012 U-17 Tây Ban Nha 6 (0)
2013–2014 U-19 Tây Ban Nha 9 (0)
2015 U-21 Tây Ban Nha 5 (0)
2016–2020 Tây Ban Nha 4 (0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 26 tháng 5 năm 2023‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 01:07, 12 tháng 11 năm 2020 (UTC)

Héctor Bellerín Moruno (sinh ngày 19 tháng 3 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện đang chơi bóng ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ Real Betis tại La Liga . Anh từng được cho mượn tại Watford mùa giải 2013–14. Bellerín thi đấu quốc tế cho Tây Ban Nha từ lứa U16 đến U21, có trận ra mắt chuyên nghiệp đầu tiên năm 2016 và được chọn vào đội hình tham dự UEFA Euro 2016.

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh ra tại Barcelona, Catalunya, Bellerín khởi nghiệp tại đội trẻ của câu lạc bộ Barcelona. Anh chuyển đến Arsenal vào mùa hè năm 2011[4] và ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ nước Anh vào tháng 7 năm 2013.[5] Bellerín có trận ra mắt trong cuộc làm khách trước West Bromwich Albion ở vòng ba của cúp Liên đoàn bóng đá Anh vào ngày 25 tháng 9 năm 2013; anh vào sân ở phút thứ 95 thay thế Mikel Arteta trong chiến thắng ở loạt sút lân lưu sau khi hòa 1-1.[6] Hai tháng sau Bellerín gia nhập đội bóng ở Championship Watford với bản hợp đồng cho mượn hai tháng; anh có trận ra mắt đối đầu Yeovil Town tám ngày sau khi ký hợp đồng.[7] Bản hợp đồng cho mượn tại Watford được gia hạn đến cuối mùa giải,[8] nhưng Arsenal đã gọi lại anh vào tháng 2 năm 2014.[9]

Bellerín giữ bóng trong trận gặp Leicester City vào tháng 2 năm 2015.

Sau những ca chấn thương của Mathieu Debuchy, Calum Chambers và Nacho Monreal, Bellerín có trận ra mắt Champions League vào ngày 16 tháng 2 năm 2014 trong thất bại sân khách 2-1 trước Borussia Dortmund.[10] Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Arsenal vào ngày 1 tháng 2 băn 2015, trong chiến thắng 5-0 trước Aston Villa,[11] và bàn thắng thứ hai vào ngày 4 tháng 4 khi mở ra thắng lợi 4-1 trước Liverpool mặc dù đã gây ra quả phạt đền bởi pha phạm lỗi với Raheem Sterling.[12]

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi lọt đến vòng bán kết của giải vô địch U19 Châu Âu cùng đội U19,[13] Bellerín có trận ra mắt trong đội U21 của Albert Celades vào ngày 30 tháng 3 năm 2015, chơi trọn vẹn 90 phút trong chiến thắng trận giao hữu 4-0 trước Belarus tại León.[14] Ngày 29 tháng 5 năm 2016, sau được điền tên vào danh sách đội hình sơ loại tham dự UEFA Euro 2016, Bellerín có trận ra mắt toàn đội bắt đầu bằng chiến thắng trận giao hữu 3-1 trước Bosna và Hercegovina tại AFG Arena ở St. Gallen, Thụy Sĩ.[15] Hai ngày sau anh được lựa chọn vào đội hình chính thức sau khi Dani Carvajal rút lui vì chấn thương.[16]

Phong cách chơi bóng

[sửa | sửa mã nguồn]

Bellerin trở nên nổi tiếng với tốc độ siêu việt của anh. Vào cuối mùa 2014-15, anh đã phá kỷ lục chạy nước rút 40 m của Theo Walcott tại Arsenal khi kém cầu thủ người Anh 1/100 giây, qua đó trở thành cầu thủ chạy nước rút nhanh nhất tại Arsenal.[17] Kỷ lục trên thậm chí còn vượt qua cả kỷ lục của vận động viên người Jamaica Usain Bolt ở cự ly 40m.[18][19]

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn] Tính đến 1 tháng 11 năm 2020[20]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu FA Cup League Cup Châu Âu Tổng cộng
Giải đấu Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Arsenal 2013–14 Premier League 0 0 0 0 1 0 0 0 1 0
Watford (mượn) 2013–14 Championship 8 0 0 0 0 0 0 0 8 0
Arsenal 2014–15 Premier League 20 2 3 0 1 0 4 0 28 2
2015–16 36 1 1 0 0 0 0 6 44 1
2016–17 33 1 4 0 0 0 5 0 42 1
2017–18 35 2 0 0 3 0 8 1 47 3
2018–19 19 0 0 0 0 0 0 0 19 0
2019–20 15 1 3 0 2 0 3 0 23 1
2020–21 7 0 0 0 1 0 1 0 10 0
Tổng cộng 165 7 11 0 8 0 27 1 214 8
Tổng cộng sự nghiệp 173 7 11 0 8 0 27 1 222 8

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Arsenal

[sửa | sửa mã nguồn]
  • FA Cup: 2014–15,[21] 2016–17,[22] 2019–20[23]
  • FA Community Shield: 2015,[24] 2017,[25] 2020[26]
  • EFL Cup á quân: 2017–18[27]

Real Betis

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Copa del Rey: 2021–22[28]

Barcelona

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Supercopa de España: 2022–23[29]

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

U21 Tây Ban Nha

[sửa | sửa mã nguồn]
  • UEFA European Under-21 Championship á quân: 2017[30][31]

Cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]
  • UEFA European Under-19 Championship Team of the Tournament: 2013[cần dẫn nguồn]
  • PFA Team of the Year: 2015–16 Premier League[32]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Héctor Bellerín Moruno”. BDFutbol. Truy cập 30 Tháng tám năm 2020.
  2. ^ Hugman, Barry J. biên tập (2015). The PFA Premier & Football League players' records 1946–2015. G2 Entertainment Ltd. tr. 72. ISBN 978-1-7828-1167-1.
  3. ^ “Héctor Bellerín”. FC Barcelona. Truy cập 7 Tháng Một năm 2022.
  4. ^ “Bellerin – I'm so happy I joined Arsenal”. Arsenal. ngày 29 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  5. ^ “Bellerin signs new long-term contract”. Arsenal. ngày 4 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  6. ^ “WBA 1 – 1 Arsenal”. Arsenal. ngày 25 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  7. ^ “Bellerin joins Watford on loan”. Arsenal. ngày 22 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2013.
  8. ^ “Wing-back returns to Vicarage Road for the remainder of the campaign”. Watford.com. ngày 3 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc 18 Tháng Một năm 2014. Truy cập 6 tháng Chín năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  9. ^ “Arsenal have recalled young defender Hector Bellerin from his loan with Watford”. Watford Observer. 18 tháng 2, 2014. Truy cập 18 tháng 2, 2014.
  10. ^ “Bor Dortmd 2–0 Arsenal”. BBC Sport. ngày 16 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2014.
  11. ^ Dawkes, Phil (ngày 1 tháng 2 năm 2015). “Arsenal 5–0 Aston Villa”. BBC Sport. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2015.
  12. ^ McNulty, Phil (ngày 4 tháng 4 năm 2015). “Arsenal 4–1 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2015.
  13. ^ “The Future is theirs: Héctor Bellerín, speed embodied in a footballer”. RFEF. ngày 16 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  14. ^ Muñoz, Antonio D. (ngày 30 tháng 3 năm 2015). “MATCH REPORT: Spain thrashes Belarus (4-0)”. RFEF. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  15. ^ “Arsenal's Hector Bellerin makes Spain debut as defending champions warm up for Euro 2016 with a win”. Daily Mirror. ngày 29 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  16. ^ “Euro 2016: Arsenal's Hector Bellerin in Spain squad after injury forces out Dani Carvajal”. BBC Sport. ngày 31 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2016.
  17. ^ “Bellerin - The secret to my speed”. Arsenal.com. 13 tháng 5, 2015. Truy cập 7 tháng Chín năm 2016.
  18. ^ Tâm Lê (ngày 15 tháng 4 năm 2015). “Hậu vệ Bellerin chạy nhanh hơn cả Usain Bolt: Hãy gọi anh là Bolt-lerin!”. Bongdaplus.
  19. ^ Tiểu Minh (ngày 9 tháng 4 năm 2015). “Cầu thủ Arsenal chạy nhanh hơn Usain Bolt”. Newzing.vn. Bản gốc lưu trữ 18 tháng Chín năm 2015. Truy cập 11 tháng Chín năm 2016.
  20. ^ Hector Bellerin tại Soccerbase
  21. ^ McNulty, Phil (30 tháng 5 năm 2015). “Arsenal 4–0 Aston Villa”. BBC Sport. Truy cập 24 Tháng tư năm 2019.
  22. ^ McNulty, Phil (27 tháng 5 năm 2017). “Arsenal 2–1 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập 24 Tháng tư năm 2019.
  23. ^ McNulty, Phil (1 tháng 8 năm 2020). “Arsenal 2–1 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập 1 Tháng tám năm 2020.
  24. ^ Cryer, Andy (2 tháng 8 năm 2015). “Arsenal 1–0 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập 24 Tháng tư năm 2019.
  25. ^ Rostance, Tom (6 tháng 8 năm 2017). “Arsenal 1–1 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập 24 Tháng tư năm 2019.
  26. ^ Sanders, Emma (29 tháng 8 năm 2020). “Arsenal 1–1 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập 30 Tháng tám năm 2020.
  27. ^ McNulty, Phil (25 tháng 2 năm 2018). “Arsenal 0–3 Manchester City”. BBC Sport. Truy cập 24 Tháng tư năm 2019.
  28. ^ “Real Betis won their first Copa del Rey since 2005 after beating Valencia on penalties in Seville”. BBC Sport. 23 tháng 4 năm 2022.
  29. ^ “Spanish Super Cup: Barcelona beat Real Madrid”. BBC Sport. 15 tháng 1 năm 2023. Bản gốc lưu trữ 25 Tháng Một năm 2023. Truy cập 18 Tháng Một năm 2023.
  30. ^ “Under-21 2017 – History – Spain”. UEFA. 29 tháng 8 năm 2017. Truy cập 1 Tháng tư năm 2020.
  31. ^ “Under-21 2017 – History – Matches”. UEFA. 29 tháng 8 năm 2017. Truy cập 1 Tháng tư năm 2020.
  32. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên pfa

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Héctor Bellerín.
  • Tiểu sử Héctor Bellerín tại Arsenal.com
  • Tiểu sử Héctor Bellerín Lưu trữ 2014-11-22 tại Wayback Machine tại Premier League website
  • Héctor Bellerín tại Soccerbase
  • x
  • t
  • s
FC Barcelona – đội hình hiện tại
  • Ter Stegen
  • Cubarsí
  • Balde
  • Araújo
  • Martínez
  • Gavi
  • Ferran
  • Pedri
  • Lewandowski
  • 10 Fati
  • 11 Raphinha
  • 13 Peña
  • 14 Torre
  • 15 Christensen
  • 16 Fermín
  • 17 Casadó
  • 18 Víctor
  • 19 Yamal
  • 20 Olmo
  • 21 De Jong
  • 23 Koundé
  • 24 García
  • Huấn luyện viên trưởng: Flick
  • x
  • t
  • s
Đội hình Tây Ban NhaGiải vô địch bóng đá châu Âu 2016
  • Casillas (c)
  • Azpilicueta
  • Piqué
  • Bartra
  • Busquets
  • Iniesta
  • Morata
  • Koke
  • Lucas V.
  • 10 Fàbregas
  • 11 Pedro
  • 12 Bellerín
  • 13 De Gea
  • 14 Thiago
  • 15 Ramos
  • 16 Juanfran
  • 17 San José
  • 18 Alba
  • 19 Bruno
  • 20 Aduriz
  • 21 Silva
  • 22 Nolito
  • 23 Rico
  • Huấn luyện viên: Del Bosque
Tây Ban Nha
  • x
  • t
  • s
Đội hình giải Ngoại hạng Anh PFA của năm mùa 2015-16
  • TM: David de Gea
  • HV: Héctor Bellerín
  • HV: Wes Morgan
  • HV: Toby Alderweireld
  • HV: Danny Rose
  • TV: N'Golo Kanté
  • TV: Dele Alli
  • TV: Dimitri Payet
  • TV: Riyad Mahrez
  • TĐ: Jamie Vardy
  • TĐ: Harry Kane

Từ khóa » Hậu Vệ Cánh Trái Của Arsenal