Hình Thức Sở Hữu Là Gì? Các Hình Thức Sở Hữu Theo Bộ Luật Dân Sự?

Mục lục bài viết

  • 1 1. Hình thức sở hữu là gì?
  • 2 2. Quy định về hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự:
    • 2.1 2.1. Quyền sở hữu toàn dân:
    • 2.2 2.2. Hình thức sở hữu riêng:
    • 2.3 2.3. Hình thức sở hữu chung:

1. Hình thức sở hữu là gì?

Trong chế độ sở hữu có thể có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu có những chủ sở hữu nhất định. Mỗi hình thức sở hữu có những đặc trưng riêng, nên pháp luật cũng có những quy định riêng thích hợp với mỗi loại hình thức sở hữu cụ thể.

Pháp luật dân sự Việt Nam quy định mỗi hình thức sở hữu, chủ sở hữu có những cách thức thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong những giới hạn và phạm vi khác nhau.

Theo đó, hình thức sở hữu được hiểu là cách thức chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong một chế độ sở hữu.

Và theo quy định tại Điều 158 của Bộ luật dân sự cũng quy định quyền sở hữu được xác định như sau:

“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”.

2. Quy định về hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự:

Căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự quy định hình thức sở hữu sẽ bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu chung, sở hữu riêng.

2.1. Quyền sở hữu toàn dân:

Sở hữu toàn dân được hiểu là những loại tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhân dân được nhà nước đại diện quản lý, là tài sản thuộc sở hữu chung của toàn dân, toàn dân ủy quyền cho nhà nước quản lý tài sản của họ, nhà nước quản lý tài sản theo nguyện vọng, lợi ích của toàn dân. Nhưng việc thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những loại tài sản đó phải tuân theo quy định của pháp luật. Các loại tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai; tài nguyên nước, khoáng sản; nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời; tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nội dung của hình thức sở hữu toàn dân được quy định như sau:

Một, quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân

– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện, thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, đại diện nhân dân quản lý bằng công cụ pháp luật.

– Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân.

Hai, quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân sẽ được thực hiện trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định về những loại tài sản nào được đưa ra để sử dụng như những tài sản công cộng, bệnh viện, khu vui chơi,…

Ba, thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân

– Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó.

– Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân thực hiện việc quản lý, sử dụng đúng mục đích, theo quy định của pháp luật đối với tài sản được Nhà nước giao.

Những loại tài sản này được nhà nước đưa vào sử dụng, phục vụ cho những mục đích chung của xã hội như xây dựng bãi tập, huấn luyện cho bộ đội, xe mô tô, xe cứu hỏa, xe cứu thương, những thiết bị, vũ khí trang bị cho bộ đội…

Tư, quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Những loại tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân sẽ được nhà nước cho phép sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thủy sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác, nhưng phải đúng với mục đích ban đầu đặt ra, có hiệu quả và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Trường hợp tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà chưa được giao cho cá nhân, pháp nhân quản lý thì Chính phủ tổ chức thực hiện việc bảo vệ, điều tra, khảo sát và lập quy hoạch đưa vào khai thác.

Như vậy, hình thức sở hữu toàn dân là một hình thức đặc biệt nhất so với các loại hình thức khác. Nó mang tính sở hữu chung, những loại tài sản này thuộc quyền sử dụng của nhân dân và được sử dụng để phục vụ cho lợi ích của cộng đồng.

2.2. Hình thức sở hữu riêng:

Sở hữu riêng được hiểu là một loại hình thức mà những tài sản thuộc quyền sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân. Và quyền sở hữu riêng này có giá trị đối với những loại tài sản hợp pháp thuộc quyền sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng và giá trị. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không trái với quy định pháp luật. Việc thực hiện quyền đối với tài sản thuộc sở hữu riêng không được ảnh hưởng hoặc gây hại đến lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, dân tộc, quốc gia…

Nội dung của hình thức sở hữu này được quy định tại điều 205 và điều 206 Bộ luật dân sự. Theo đó, chủ sở hữu có quyền hưởng các quyền của sở hữu về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với những loại tài sản thuộc quyền sở hữu của mình và không có bất kỳ chủ thể hay tổ chức nào quyền can thiệp, trừ trường hợp trái với quy định của pháp luật, gây hậu quả cho xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của cộng đồng. Chủ sở hữu có quyền sử dụng, chiếm hữu và định đoạt những loại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không trái với pháp luật. Không được gây ra những thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

2.3. Hình thức sở hữu chung:

Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản, bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Quyền sở hữu chung được các chủ thể xác lập theo sự thỏa thuận và tuân theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán. Đối với sở hữu chung theo phần thì mỗi chủ sở hữu chỉ có quyền và nghĩa vụ tương ứng với số tài sản của mình trong số tài sản chung nếu không có thỏa thuận gì khác. Đối với tài sản chung hợp nhất thì quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của các chủ sở hữu đều ngang nhau. Quyền sở hữu chung được xác lập dựa theo sự thỏa thuận giữa các bên, theo quy định của pháp luật hoặc tập quán.

Nội dung của hình thức sở hữu chung được quy định từ Điều 207 đến Điều 220 tại Bộ luật dân sự, bao gồm các nội dung như sau:

Một, các loại hình thức sở hữu chung hiện nay được pháp luật quy định và bảo vệ:

– Sở hữu chung theo phần, đây là hình thức sở hữu chung mà trong đó quyền sỡ hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung, có thể chia theo tỷ lệ, giá trị, diện tích, lợi ích…Và tương ứng với phần tài sản được sở hữu thì sẽ có quyền, nghĩa vụ tương ứng theo, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận mức quyền và nghĩa vụ khác.

– Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Và bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Vì sở hữu chung hợp nhất nên quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cũng sẽ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung.

– Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng. Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Và tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.

Ngoài ra còn có sở hữu chung của các thành viên gia đình, sở hữu chung của vợ chồng, sở hữu chung trong nhà chung cư và sở hữu chung hỗn hợp.

Hai, giống như những hình thức sở hữu khác, hình thức sở hữu chun cũng sẽ có các quyền về quản lý tài sản chung, định đoạt và chia tài sản thuộc sở hữu chung.

Việc quản lý tài sản chung sẽ do các chủ thể cũng nhau quản lý theo nguyên tắc nhất trí, trừ hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật quy định khác.

Còn quyền định đoạt và chia tài sản là quyền mà các chủ quyền được yêu cầu và tương ứng với tỷ lệ sở hữu của mình mà có quyền định đoạt và chia tài sản tương ứng.

Tuy nhiên, việc chia tài sản chỉ có thể thực hiện khi loại tài sản sở hữu chung có thể phân chia được. Nếu không thể chia phân quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Ba, chấm dứt sở hữu chung

Sở hữu chung chấm dứt trong trường hợp sau đây:

– Tài sản chung đã được chia hết tương ứng với tỷ lệ sở hữu tài sản chung.

– Một trong số các chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung. Trường hợp này xảy ra khi có căn cứ cho rằng việc sở hữu chung này sai với quy định, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của chủ thể khác, hoặc khi các chủ sở hữu thống nhất giao tài sản chung này cho một chủ sở hữu sở hữu toàn bộ.

– Tài sản chung không còn, tức là loại tài sản này bị nhà nước thu hồi vì trái với quy định của nhà nước, hoặc để thực hiện nghĩa vụ tài chính cho nhà nước, hoặc do thiên tai, bão lụt gây ảnh hưởng…

– Trường hợp khác theo quy định của luật.

Các văn bản pháp luật có liên quan : Bộ luật dân sự năm 2015;

Từ khóa » Hình Hữu Là Gì