Hồ Xuân Hương - Vietnamese Typography

Bánh trôi nước

Thân em thời trắng phận em tròn, Bảy nổi ba chìm mấy nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son.

Bùn bắn lên đồ

Nê ninh thượng thức cao thâm xứ, Mạc quái anh hùng lưỡng thủ mô.

Cái giếng

Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông, Giếng tót thanh thơi rất lạ lùng. Cầu trắng phau phau hai ván ghép, Nước trong leo lẻo một dòng thông. Cỏ gà lún phún leo quanh mép, Cá diếc le te lội giữa dòng. Giếng ấy thanh tân ai đã biết, Đố ai dám thả nạ rồng rồng.

Cái quạt

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa, Duyên này tác hợp tự ngàn xưa. Chành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

Canh khuya

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan mấy nước non. Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, Đâm toạc chân mây đá mấy chòm. Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình son trẻ tí con con.

Cảnh thu

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa, Bút thần khôn vẽ cảnh tiêu sơ, Xanh om cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ. Bầu dốc giang sơn say chấp rượu, Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ, Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Chế sư

Chẳng phải Ngô chẳng phải ta, Đầu thì trọc lốc áo không tà. Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm, Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ, Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha. Tu lâu có nhẽ lên sư cụ, Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.

Chi chi chuyện ấy

Chi chi chuyện ấy đã đành lòng, Vó ký phen này quyết thẳng rong. Non nước chơi hoài non nước đó, Gió trăng nào phải gió trăng không. Mặt càng đối mặt tình ngao ngán, Tay chửa rời tay bước ngại ngùng. Lão Nguyệt nhẽ nào trêu quải mãi, Chén đồng xin hẹn khắc đêm đông.

Chơi hoa

Đã trót chơi hoa phải có trèo, Trèo lên chớ ngại mỏi xương nhèo. Cành la cành bổng vin co vít, Bông chín bông xanh để lộn phèo.

Chơi Khán Đài

Êm ái chiều xuân tới Khán Đài, Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai. Bốn mùa triêu mộ, chuông gầm sóng, Một vũng tang thương, nước lộn trời. Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn, Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi. Nào là cực lạc là đâu tá? Cực lạc là đây, chín rõ mười.

Chùa Hương Tích

Bày đặt vì ai khéo khéo vòm, Nứt ra một lỗ hổng hòm hom. Người quen cửa Phật chen chân xọc, Kẻ lạ bầu Tiên mỏi mắt dòm. Giọt nước hữu tình rơi thánh thót, Con thuyền vô trạo cúi lom khom. Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại, Rõ khéo trời già đến dở dom.

Chùa Sài Sơn

Khen thay con tạo khéo khôn phàm, Một đố giương ra biết mấy ngàm. Triền đá cỏ leo sờ rậm rạp, Lạch khe nước rỉ mó lam nham. Một sư đầu trọc ngồi khua mõ, Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am. Đến nơi mới biết rằng Thánh Hoá, Chồn chân mỏi gối hãy còn ham.

Con cua

Em có mai xanh, có yếm vàng, Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang. Xin theo ông Khổng về Ðông Lỗ, Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.

Dệt cửi đêm

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau, Con cò mấp máy suốt đêm thâu. Hai chân đạp xuống năng năng nhắc, Một suốt đâm ngang thích thích mau. Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả, Ngắn dài khuôn khổ vẫn như nhau. Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ, Chờ đến ba thu mới dãi màu.

Du cổ tự

Thầy tớ thong dong dạo cảnh chùa, Cầm thư lưng túi rượu lưng hồ. Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác, Chim núi nghe kinh cổ gật gù. Then cửa từ bi nêm chật cánh, Nén hương tế độ cắm đầy lò. Nhà sư ướm hỏi nhà sư tí, Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ.

Duyên kỳ ngộ

Nghìn dặm có duyên sự cũng thành, Xin đừng lo lắng hết xuân xanh. Tấc gang tay hoạ thơ không dứt, Gần gụi cung dương lá vẫn lành. Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện, Trống mang dùi cắp đã phanh phanh. Tuy không thả lá trôi dòng ngự, Chim tới vườn đào thế mới xinh.

Dữ Phạm tế tửu xướng họa, kỳ nhị

Kìa ai tỉnh, kìa ai say, Kìa ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày. Khoan khoan xin hãy dừng tay lại, Chớ mó hang hùm nữa mất tay.

Đá chẹt thi

Cục núi khen cho khéo bất tình, Thò ra đứng chẹt giữa đường Thanh. Hai bên khép lại hơi gần tí, Một dải thông qua chút đỉnh đinh. Thế lộ có đâu ngăn đón mặt, Nhân tình ai chịu cản ngang mình. Bấy nhiêu năm trước nghe còn chẹt, Mới mở mang ra đã rộng thênh.

Đá Ông Chồng, Bà Chồng

Khéo khéo bày trò tạo hoá công, Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng. Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc, Thớt dưới sương pha đượm má hồng. Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt, Khối tình cọ mãi với non sông. Đá kia còn biết xuân già giặn, Chả trách người ta lúc trẻ trung.

Đàn gảy

Đàn gảy đâu sinh túng tính tình, Sóng dây mà buộc khéo rằng xinh. Bóng gương tri kỷ soi thiên cổ, Tiếng trống chung tình gióng ngũ canh. Mấy dặm non sông chi dám ngại, Trăm năm vàng đá quyết cho đành. Trăng già có nhẽ trêu nhau mãi, Cầm sắt phen này quyết tấp tênh.

Đánh cờ

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc, Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người. Hẹn rằng đấu trí mà chơi, Cấm ngoại thuỷ không ai được biết. Nào tướng sĩ dàn ra cho hết, Ðể đôi ta quyết liệt một phen. Quân thiếp trắng, quân chàng đen, Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa. Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa, Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên. Hai xe hà, chàng gác hai bên, Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ. Chàng lừa thiếp đương khi bất ý, Ðem tốt đầu dú dí vô cung, Thiếp đang mắc nước xe lồng, Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu. Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu, Thua thì thua quyết níu lấy con. Khi vui nước nước non non, Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

Đánh đu

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, Người thì lên đánh kẻ ngồi trông, Trai co gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Chơi xuân đã biết xuân chăng tá. Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

Đề nhị mỹ nhân đồ

Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mình, Chị cũng xinh mà em cũng xinh. Trăm vẻ như in tờ giấy trắng, Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh. Phiếu mai chăng dám đường kia nọ, Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh. Có một thú vui sao chẳng vẽ, Trách người thợ ấy khéo vô tình.

Đi đái bùn nẩy

Quân tử anh hùng đâu vắng tá, Để cho nê thổ nảy chơi xuân.

Đọc cho Chiêu Hổ họa

Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, Nhắn nhe toan những sự gầm ghè. Gầm ghè nhưng vẫn còn chưa dám, Chưa dám cho nên phải rụt rè.

Đồng tiền hoẻn

Cũng lò cũng bễ cũng cùng than, Mở mặt vuông tròn với thế gian. Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn, Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan.

Đưa đò

Chú lái kia ơi, biết chú rồi, Qua sông rồi lại đấm ngay bòi! Chèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược, Đấm cọc ngay vào ngấn nước xuôi. Mới biết lên bờ đà vỗ đít, Nào khi giữa khúc đã co vòi. Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ? Sang nữa hay là một chuyến thôi?

Già kén kẹn hom

Bụng làm dạ chịu trách chi ai, Già kén kẹn hom ví chẳng sai. Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc, Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy. Miệng khôn trôn dại đừng than phận, Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời! Ðừng đứng núi này trông núi nọ, Ðói lòng nên mới phải ăn khoai.

Hạ nhật tầm phu (Ngày hè tìm chồng)

Xa xôi chăng quản ngại đường đi, Nắng rực làm chi bấy những hè. Khắc khoải đã đau lòng cái quốc, Âu sầu thêm xót dạ con ve. Người nằm trướng gấm bồ hôi đượm, Kẻ hái rau tần nước bọt se. Nào khúc Nam huân sao chẳng gảy, Để cho bồ liễu phận le te.

Hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm, Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hom. Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn, Luồng gió thông reo vỗ phập phòm. Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm, Con đường vô ngạn tối om om. Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc, Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.

Hàng ư Thanh (Quán hàng ở xứ Thanh)

Đứng tréo trông ra cảnh hắt heo, Đường đi thiên thẹo quán cheo leo. Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác, Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo. Ba chạc cây xanh hình uốn éo, Một dòng nước biếc cỏ lèo tèo. Thú vui quên cả niềm lo cũ, Kìa cái diều ai gió lộn lèo.

Hỏi cô hàng sách

Cô hàng lấy sách cắp ra đây! Xem thử truyện nào thú lại say. Nữ tú có bao xin xếp cả, Phương hoa phỏng liệu có còn hay…? Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ, Chinh phụ thế nào bán lấy may. Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi, Gía tiền cả đó tính sao vay.

Hỏi trăng

Một trái trăng thu chín mõm mòm, Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom! Giữa in chiếc bích khuôn còn méo, Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm. Ghét mặt kẻ trần đua xói móc, Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom. Hỡi người bẻ quế rằng ai đó, Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.

Hữu cảm

Thảm hại chiều xuân chẳng nể nhau, Yêu hoa chi để với hoa sầu. Nửa sân phong nguyệt chưa chồi ngọc, Một bức thư tình lặng hạt châu. Hồn bướm năm canh bầu bạn thỏ, Cầu ô muôn kiếp vợ chồng Ngâu. Tương tư biết thuở nào khuây khoả, Giọt nước duềnh Tương đã đến đâu.

Khấp Vĩnh Tường quan

Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi, Cái nợ phù sinh có thế thôi. Chôn chặt văn chương ba thước đất, Ném tung hồ thỉ bốn phương trời. Nắm xương dưới đất chau mày khóc, Hòn máu trên tay mỉm miệng cười. Đã thế thời thôi cho mát mẻ, Trăm năm quan phủ Vĩnh Tường ôi.

Khóc chồng làm thuốc

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì, Thương chồng nên phải khóc tì ti. Ngọt ngào thiếp nhớ mùi cam thảo, Cay đắng chàng ôi vị quế chi. Thạch nhũ trần bì sao để lại, Quy thân liên nhục tẩm đem đi. Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ, Sinh ký chàng ôi tử tắc quy.

Khóc Tổng Cóc

Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi, Thiếp bén duyên chàng có thế thôi. Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Không chồng mà chửa

Cả nể cho nên hoá dở dang, Sự này có thấu hỡi chăng chàng. Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu sao mà nảy nét ngang. Cái tội trăm năm chàng chịu cả, Chữ tình một khối thiếp xin mang. Quản chi miệng thế lời chênh lệch, Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan.

Ký tao nương Mộng Lan (Gửi nữ sĩ Mộng Lan)

Gió thổi hơi Lan đã mát lừng, Tự nhiên gặp gỡ cũng vì chưng. Câu thơ vịnh tuyết còn văng vẳng, Chén rượu chờ trăng vẫn ngấn lưng. Cờ muốn thi gan xe pháo mã, Đàn còn lựa gảy tính tình tưng. Nhắn ai mơ kẻ tri âm đó, Xin ngỏ lời ra chớ ngập ngừng.

Lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ, Một tháng đôi lần có cũng không. Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng, Cầm bằng làm mướn mướn không công. Nỗi này ví biết dường này nhỉ, Thời trước thôi đành ở vậy xong.

Lỡm học trò

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ, Lại đây chị dạy lối làm thơ. Bướm non ngứa lợi châm hoa rữa, Dê bé buồn sừng húc giậu thưa.

Miếu Sầm thái thú

Ghé mắt trông lên thấy bảng treo, Kìa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Mời ăn trầu

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, Này của Xuân Hương mới quệt rồi. Có phải duyên nhau thì thắm lại, Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Mời khách ăn trầu

Thân này ví xẻ làm hai được, Nửa để trong nhà, nửa đệ ra.

Ngại ngùng

Ngại ngùng chưng những lúc phân kỳ, Vó ký dùng dằng bước chẳng đi. Lưu giản đôi câu sa giọt ngọc, Tương tư nửa gánh nặng vai chì. Cầm thông sầu gảy năm cung biệt, Rượu cúc say nghiêng một chén ly. Tưởng nước non này trăng gió ấy, Thấu tình chăng nhẽ khách tương tri.

Nguyệt hỡi đê mê

Nguyệt hỡi đê mê mấy buổi nay, Vắng tình đây những ngẩn ngơ thay. Trà pha liên tử mà không chuộng, Rượu chuốc bồ đào cũng chẳng say. Giấc bướm mơ màng hơi trống điểm, Hồn mai phảng phất tiếng sênh bay. Tình chung ai có hay chăng tá, Con tạo ghen chi những quấy rầy.

Nhĩ Hà tức cảnh

Thấp thoáng đầu ghềnh lún phún mưa, Đố ai vẽ được cảnh tiêu sơ. Xanh om cổ thụ tròn như tán, Trắng xoá tràng giang phẳng ngỡ tờ. Còi mục thét trăng miền khoáng dã, Lưới ngư chăng gió bãi bình sa. Chuông ai đứt nối bên kia tá, Lầm lỡ chung tình một túi thơ.

Núi Ba Đèo

Một đèo một đèo lại một đèo, Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo. Cửa son tía ngắt lơ thơ móc, Đường đá xanh rì lún phún rêu. Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc, Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương gieo. Hiền nhân quân tử ai là chẳng, Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.

Núi Kẽm Trống

Hai bên thời núi giữa thời sông, Có phải đây là Kẽm Trống không. Gió vật sườn non kêu lắc rắc, Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.

Nước Đằng

Ðằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen, Lại còn Tề Sở ép hai bên. Ngảnh mặt sang Tề e Sở giận, Quay đầu về Sở sợ Tề ghen.

Ốc nhồi

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi, Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi. Quân tử có thương thì bóc yếm, Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

Phiếm chu ngoạn nguyệt (Giong thuyền chơi trăng)

Hà đông một dải nước trong veo, Lãng đãng thuyền tình chở nặng chèo. Gợn sóng nhấp nhô tăm cá lội, In dòng chấp chới mảnh trăng gieo. Muốn trôi thơ lá mà than thở, Phải mượn tin băng để dập dìu. Cây cỏ thêm buồn lòng nước cũ, Ái ân lạnh lẽo biết bao nhiêu.

Quả mít

Thân em như quả mít trên cây, Da nó xù xì múi nó dày. Quân tử có yêu xin đóng cọc, Đừng mân mó nữa nhựa ra tay.

Quá Nghệ An hoài giai nhân, hựu thể

Quấy quả chi nhau những những điều, Của ai xem đã đã nên chiều. Trời đem tài sắc cho trông thấy, Người có phong tình mới dám yêu. Buổi lạ có đâu sàm sỡ mãi, Lòng riêng nghe những ngậm ngùi nhiều. Lời này xin nhớ cho ta mấy, Lẩn thẩn đừng màng dạ thấp cao.

Quan Hậu sợ vợ

Tình cảnh ấy nước non này, Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây. Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn, Thứu Lĩnh đen trùm một thứ mây. Lấp ló đầu non vầng nguyệt chếch, Phất phơ sườn núi lá thu lay. Hỡi người quân tử đi đâu đó, Đến cảnh sao mà đứng lượm tay.

Quán Sứ tự

Quán Sứ chùa xưa cảnh vắng teo, Thương ôi sư đã hoá ra mèo. Sáng banh vắng kẻ khua dùi mõ, Trưa trật không người quét kẽ rêu. Chí chát chày kình im lại đấm, Lầm rầm tràng hạt đếm cùng đeo. Buồm từ cũng rắp sang Tây Trúc, Gió vật cho nên phải lộn lèo.

Sài Sơn thiên thị (Chợ trời núi Thầy)

Hoá công xây đắp biết bao đời, Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời. Buổi sớm gió tuôn trưa nắng dãi, Ban chiều mây họp tối trăng soi. Bày hàng hoa quả quanh năm đủ, Dãi thẻ giang sơn bốn mặt ngồi. Bán lợi mua danh nào những kẻ, Thử lên mặc cả một hai lời.

Sư hoạnh dâm

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo, Làm chi một chút tẻo tèo teo. Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc, Trái gió cho nên phải lộn lèo.

Tát nước

Đang cơn nắng cực chửa mưa tè, Rủ chị em ra tát nước khe. Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm, Lênh đênh một ruộng bốn bờ be. Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa, Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve. Mải việc làm ăn quên cả mệt, Dạng hang một lúc đã đầy phè.

Tặng tình nhân

Rắp hỏi chơi đây những thẹn thùng, Chữ tình ai nỡ dứt cho xong. Những người trong cuộc nhiều người lạ, Là của trên đời vốn của chung. Duyên phận ngán thay thân yểu điệu, Tài hoa gầy cả mặt anh hùng. Này thơ ai tặng ai ai đó, Gặp gỡ rồi ra hoạ có không.

Thân phận người đàn bà

Hỡi chị em ơi có biết không, Một bên con khóc một bên chồng. Bố cu lổm ngồm bò trên bụng, Thằng bé hu hơ khóc dưới hông. Tất cả những là thu với vén, Vội vàng nào những bống cùng bông. Chồng con cái nợ là như thế, Hỡi chị em ơi có biết không?

Thị Đểu thi

Kén chọn làm chi thế ối anh, Lấy ai khuynh quốc lại khuynh thành. Vô duyên nên nỗi người chê Đểu, Có đẹp chăng thời gái ở tranh. Ghét mặt cục vàng ra cục đất, Tắt đèn nhà ngói bẵng nhà gianh. Thay lời mượn bút đem thư gửi, Nghĩ lại sao cho để được đành.

Thơ tự tình

Tiếng gà xao xác gáy trên vòm, Oán hận trông ra khắp mọi chòm. Mõ thảm không khua mà cũng cốc, Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om. Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ, Sau hận vì duyên để mõm mòm. Tài tử văn nhân ai đó tá, Thân này đâu đã chịu già tom.

Thương

Há dám thương đâu kẻ có chồng, Thương vì một nỗi hãy còn không. Thương con cuốc rũ kêu mùa hạ, Thương cái bèo non giạt bể đông. Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới, Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông. Ấy thương quân tử thương là thế, Há dám thương đâu kẻ có chồng.

Thương ôi phận gái

Thương ôi phận gái cũng là chồng, Ghét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ông. Rồng tắm ao tù từng phận tủi, Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong. Xót thân hoa nở song lầm cát, Thẹn mặt trần ai đứng giữa vòng. Âu hẳn tiền nhân sao đấy tá, Thôi đành một kiếp thế cho xong.

Thương thay phận gái

Thương thay phận gái cũng là người, Nỡ bỏ xuân xanh quá nửa đời. Ông Nguyệt nỡ nào trêu quải mãi, Chị Hằng khéo nhẽ éo le thôi. Hoa còn phong nhuỵ ong ve vãy, Gió đã phai hương bướm tả tơi. Quá ngán thợ trời ghê gớm bấy, Xuân xanh được mấy chút thương ôi.

Tiễn người làm thơ

Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền, Cũng đòi học nói nói không nên. Ai về nhắn nhủ phường lòi tói, Muốn sống đem vôi quét trả đền.

Tình có theo ai

Tình có theo ai nhớ lấy lời, Những lời vàng đá phải lời chơi. Đường tuy nửa bước xa ngàn dặm, Duyên chửa trăm năm cũng một đời. Tần Tấn đã đành duyên gặp gỡ, Ngô Lào chi quản chuyện xa xôi. Trăng thề muôn kiếp trơ trơ đó, Tình có theo ai nhớ lấy lời.

Trách Chiêu Hổ

Sao nói rằng năm lại có ba? Trách người quân tử hẹn sai ra. Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt, Nhớ hái cho xin nắm lá đa.

Trào tăng

Nào nón tu lờ nào mũ thâm,? Đi đâu chẳng đội để ong châm.? Đầu sư há phải gì bà cốt,? Bá ngọ con ong bé cái nhầm.

Trúc Bạch hồ

Một chiếc thuyền nan một mái chèo, Đáy hồ đứng lặng nước trong veo. Quanh co thành cỏ đường lai láng, Chen chóc nhà thôn vẻ gấm thêu. Ngũ Xá cầu dài đường khách thẳng, Châu Long thềm rộng mái chùa cao. Đồn rằng Trúc Bạch vui hơn trước, Nay mới hay rằng lắm thú yêu.

Tức sự

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng, Nín đi kẻo thẹn mấy non sông. Ai về nhắn nhủ đàn em nhé, Xấu máu thời khem miếng đỉnh chung.

Vấn nguyệt

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi? Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con? Đêm tối cớ sao soi gác tía? Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn. Năm canh lơ lửng chờ ai đó? Hay có tình riêng mấy nước non?

Vịnh bách chu – tức sương nữ

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh, Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh. Lưng khoang tình nghĩa mong đầy đặn, Nửa mạn phong ba luống bập bềnh. Chèo lái mặc ai lăm đỗ bến, Buồm lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh. Ấy ai thăm ván cam lòng vậy, Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Vịnh cái quạt

Mười bảy hay là mười tám đây, Cho ta yêu dấu chẳng dời tay. Mỏng dày chừng ấy chành ba góc, Rộng hẹp ngần nao cắm một cay. Càng nực bao nhiêu thời càng mát, Yêu đêm chẳng chán lại yêu ngày. Hồng hồng má phấn duyên vì cậy, Chúa dấu vua yêu một cái này.

Vịnh chung

Năm ba thằng ngọng đứng xem chuông, Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.

Vịnh dạy con trẻ

Buổi học xong rồi cảnh vắng teo, Đứng lên nằm xuống lại nằm mèo. Miệng thèm sờ rượu be hôi rích, Giọng khát tìm chè lọ mốc meo. Trầu một vài tuần nhai bỏm bẻm, Thuốc năm ba điếu hút phì phèo. Ai về nhắn nhủ cô bay biết, Cũng chẳng phong lưu cũng chẳng nghèo.

Vịnh đời người

Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày, Dẫu có ngàn vàng khó đổi thay. Trong núi ngàn năm cây vẫn có, Dưới trần trăm tuổi dễ không ai. Nghĩ đường danh lợi lòng thêm chán, Thấy kẻ gian ngoan bụng lại đầy. Đắng xót ghê thay mùi tục luỵ, Bực mình theo Cuội tới cung mây

Vịnh Hằng Nga

Hỡi chị Hằng Nga náu Quảng Hàn, Bốn mùa trăng gió mấy giang san. Áo tiên tuy nhuộm màu Vương Mẫu, Hương tục còn nồng lửa Hậu Lang. Mắt phượng nhớ say mùi ngọc thố, Cung Nghê sao thẹn khúc cầm loan. Nẻo không duyên nợ người cùng thế, Xin chớ dầm mình nước hợp hoan.

Vịnh hoa cúc

Chấp cả hàn phong xiết cả sương, Trước rào xum họp tấm bao vàng. Yêu vì vãn tuyết hương càng lạ, Lẫn với phàm hoa sắc cũng thường. Đào lệnh nòi xưa nghe chửa hết, Tây Thi giống trước hãy còn ương. Yêu hoa nên hoạ người say tỉnh, Rượu chén hoàng hoa ngẫu hứng thương.

Vịnh nằm ngủ

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, Tiên nữ nằm chơi quá giấc nồng. Lược trúc chải cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long. Ðôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm, Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông. Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt, Ði thì cũng dở ở sao xong.

Vịnh nhàn cư

Mặc ai xe ngựa, mặc ai hèo, Ngồi tựa hiên mai, vắt tréo kheo. Bầu rót rượu tiên mời bạn cũ, Tay nâng thuốc thánh chữa dân nghèo. Thơ ngâm “Lương phủ” người ngoại núi, Đàn gảy “Cao sơn” khách ngọn đèo. Mấy thuở thái bình nay lại gặp, Vỗ tay đua nhịp tính tình cao.

Vịnh ni sư

Xuất thế hồng nhan kể cũng nhiều, Lộn vòng phu phụ mấy là kiêu. Gậy thần Địa Tạng khi chèo chống, Tràng hạt Di Đà để đếm đeo. Muốn dựng cột buồm sang bến giác, Sợ cơn sóng cả lộn dây lèo. Ví ai quả phúc mà tu được, Cũng giốc một lòng để có theo.

Vịnh ông cắng đánh nhau

Sự này căn cớ bởi vì đâu? Cái cắng sao mà bỗng đánh nhau. Vác gậy bà dằn phang dưới gối, Vớ đùi ông huýnh giáng lên đầu. Cha căng mất vía bon lên trước, Chú kiết kinh hồn lẩn lại sau. Một chốc may mà mưa lại tạnh, Vì rằng đi chữa có bồ câu.

Vịnh Thăng Long hoài cổ

Ngân ngất tầng mây một dải cờ, Kinh thành ngày trước tỉnh bây giờ. Tượng đồng Trấn Vũ hương còn ngát, Bia đá Khuê Văn chữ chửa mờ. Bảo tháp lơ thơ chòm cỏ mới, Hồ sông lai láng bóng trăng xưa. Nào ai cố lão ra đây hỏi, Chốn cũ phồn hoa đã phải chưa.

Vịnh xuyên cổ (Vịnh trống thủng)

Của tôi bưng bít vẫn ngùi ngùi, Nó thủng vì chưng cũng nặng dùi. Ngày vắng trên lầu dăm bảy lúc, Đêm thanh dưới gác một đôi hồi. Khi khoan chưa chán thời khi nhặt, Đánh đứng không thôi lại đánh ngồi. Nhắn nhủ ai về thương đến mấy, Thịt da ai cũng thế mà thôi.

Vọng Tây Hồ hoài hữu

Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa, Người đồng châu trước biết bao xa. Nhật Tân đê lở nhưng còn lối, Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ. Nọ vực Trâu Vàng trăng nhạt bóng, Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ. Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy, So dạ hoài nhân chửa dễ vừa.

Vô âm nữ

Mười hai bà mụ ghét gì nhau, Đem cái xuân tình cắm ở đâu. Rúc rích thây cha con chuột nhắt, Vo ve mặc mẹ cái ong bầu. Nào ai biết được vông hay chóc, Nọ kẻ chia ra cuống mấy đầu. Thôi thế thời thôi thôi cũng rảnh, Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu.

Từ khóa » Dệt Vải Hồ Xuân Hương