Học Thuyết Về Con Người, Giải Phóng Và Phát Triển Con Người

Sinh ra và lớn lên khi phong trào giải phóng con người và xã hội đang phát triển và đòi hỏi cấp thiết là phải có một lý luận khoa học dẫn đường, đồng thời những tiền đề vật chất và tư tưởng nhất định cũng đã chín muồi cho một lý luận như vậy, với trí tuệ anh minh của một nhà bác học, với nhãn quan chính trị của một nhà cách mạng, C. Mác đã trở thành người khởi xướng và xây dựng nên học thuyết khoa học và cách mạng về con người, về sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng xã hội và phát triển con người toàn diện.

Học thuyết này của C. Mác không chỉ tạo ra bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người và bản chất con người, về mối quan hệ con người - tự nhiên - xã hội, vị trí và vai trò của con người trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại và sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại, phát triển con người toàn diện, mà còn làm nên sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay.

Chúng ta đều biết, trước C. Mác, trong triết học Hê-ghen, “những ý niệm tối cao”, “những tính quy định trừu tượng” được “hóa thành người một cách trực tiếp” và do vậy, “sự tồn tại tối cao của con người” đã bị hạ thấp xuống địa vị của cái chỉ giữ vai trò là sự thể hiện, sự khách quan hóa của “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”. Khác với Hê-ghen, C. Mác cho rằng, bản thân những trừu tượng tư biện, những “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” chỉ là sản phẩm, là sự thể hiện của những điều kiện sản xuất và giao tiếp nhất định của con người. Theo C. Mác, toàn bộ những lực lượng sản xuất, tư bản và “những hình thức xã hội của sự giao tiếp” là cơ sở hiện thực của cái mà các nhà triết học coi là “thực thể”, “bản chất con người”(1). Và, việc nhận thức bản chất con người, đời sống xã hội của con người cần phải được tiến hành trong đời sống xã hội hiện thực - cụ thể của con người. Con người - đó không phải là những “con người ở trong một tình trạng biệt lập và cố định tưởng tượng”, mà là những “con người trong quá trình phát triển - quá trình phát triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm - của họ dưới những điều kiện nhất định”(2). Coi tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người - đó là con người phải có khả năng sống rồi mới có thể “làm ra lịch sử”, C. Mác cho rằng, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là “sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”. Với quan niệm này, khi phê phán quan điểm duy tâm tư biện của Hê-ghen về con người, về sự tồn tại của con người, C. Mác đã coi con người là một thực thể sinh học - xã hội hiện thực và khẳng định “con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới”, mà “con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội”(3).

Với việc đặt ra theo một cách mới nhiệm vụ nhận thức đời sống xã hội hiện thực của con người, C. Mác cũng đã triệt để phê phán quan điểm của L. Phoi-ơ-bắc về con người. Và, khi phê phán L. Phoi-ơ-bắc đã “hòa tan thế giới tôn giáo vào cơ sở trần tục của nó”, “hòa tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người”, C. Mác đã khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”(4) (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T).

Đây là luận điểm hết sức nổi tiếng và tiêu biểu cho triết học Mác về bản chất con người. Luận điểm này đã trở thành nền tảng lý luận, cơ sở khoa học cho chủ nghĩa Mác và các khoa học khác khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề con người. Nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng đã thừa nhận rằng, chúng ta khó có thể tìm thấy trong lịch sử nhận thức khoa học của nhân loại một chân lý nào mà thoạt nhìn, tưởng như đơn giản và rõ ràng, nhưng về thực chất, lại có thể sâu sắc và căn bản hơn luận điểm của C. Mác về bản chất con người.

Với luận điểm cho rằng, “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”, “thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại” và cả đời sống thể xác lẫn đời sống tinh thần của con người đều luôn gắn liền với giới tự nhiên, C. Mác đã đi đến khẳng định: “Con người là một bộ phận của giới tự nhiên”(5). Song, hoạt động sinh sống của con người, theo C. Mác, là “hoạt động sinh sống có ý thức” và do vậy, bằng hoạt động lao động của mình, con người đã làm biến đổi bản chất tự nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình. Rằng, con người không chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống trong môi trường xã hội, nên tự nhiên và xã hội trong mỗi con người gắn bó khăng khít với nhau; yếu tố sinh học trong mỗi con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội, mà chúng hòa quyện với nhau và tồn tại trong yếu tố xã hội; do vậy, bản tính tự nhiên được chuyển vào bản tính xã hội và được cải biến ở trong đó. Và, chỉ có trong xã hội, con người mới có thể thể hiện được bản chất tự nhiên và xã hội của mình; do đó, tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người, làm cho con người trở thành một chỉnh thể tồn tại với cả hai mặt tự nhiên và xã hội, hình thành nên mối quan hệ khăng khít: Con người - Tự nhiên - Xã hội.

Khẳng định “bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”, C. Mác không chỉ luận giải mối quan hệ con người - tự nhiên - xã hội, mà còn tiến hành phân tích vị thế chủ thể, vai trò sáng tạo lịch sử của con người.

Xem xét vị thế của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, C. Mác đi đến quan niệm rằng, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử nhân loại được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất - “kết quả của nghị lực thực tiễn của con người”. Hoạt động thực tiễn này, đến lượt nó, lại bị quy định bởi những điều kiện sinh tồn của con người, bởi “một hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có những lực lượng sản xuất ấy”. Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng nhận được những lực lượng sản xuất ấy do thế hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao lực lượng sản xuất này mà con người đã “hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản xuất và do đó, cả quan hệ sản xuất - quan hệ xã hội của con người, ngày càng phát triển thì “lịch sử đó càng trở thành lịch sử loài người”. Với quan niệm này, C. Mác kết luận: “Xã hội... là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” và “lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”(6).

Kết luận này cho thấy, trong quan niệm của C. Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, mà còn là chủ thể của hoạt động lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Bằng hoạt động thực tiễn, con người đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, cải tạo đời sống xã hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện chính bản thân mình. Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử; con người làm nên lịch sử của chính mình và do vậy, lịch sử là lịch sử của con người, do con người và vì con người.

Khẳng định bản chất xã hội của con người và vị thế chủ thể sáng tạo lịch sử của con người, C. Mác còn đi đến quan niệm rằng, trình độ giải phóng xã hội luôn được thể hiện ra ở sự tự do của xã hội; giải phóng cá nhân tạo ra động lực cho sự giải phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự giải phóng cá nhân; con người tự giải phóng mình và qua đó, giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Rằng, con người được giải phóng và được tự do phát triển toàn diện - đó là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà giai cấp vô sản - giai cấp công nhân hiện đại và các chính đảng của nó có sứ mệnh phải xây dựng.

Với cách đặt vấn đề như vậy, C. Mác đã coi giải phóng con người, phát triển con người toàn diện, “phát triển sự phong phú của bản chất con người” là “mục đích tự thân” của sự phát triển và tiến bộ xã hội(7). Giải phóng con người, phát triển con người toàn diện cùng với phát triển lực lượng sản xuất, phát triển “nền sản xuất xã hội” vì sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội và cho cả cộng đồng xã hội là “phương hướng duy nhất” để không chỉ “làm tăng thêm nền sản xuất xã hội”, mà còn để “sản xuất ra những con người phát triển toàn diện” và hơn nữa, còn là “một trong những biện pháp mạnh nhất” để cải biến xã hội hiện tồn, đưa cả cộng đồng nhân loại đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội(8).

Quan niệm của C. Mác về định hướng phát triển xã hội lấy giải phóng con người và phát triển con người toàn diện làm mục tiêu, làm phương tiện và động lực phát triển đã được thực tiễn lịch sử nhân loại khẳng định. Bởi lẽ, trong thời đại ngày nay, dù xã hội phát triển theo hướng nào thì mọi định hướng phát triển của nó vẫn phải hướng tới việc xây dựng một xã hội hài hòa, gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, hướng tới giá trị nhân đạo và ý nghĩa nhân văn là giải phóng và phát triển con người và lấy đó làm cơ sở, làm nền tảng cho một sự phát triển bền vững - phát triển không chỉ vì thế hệ chúng ta hôm nay, mà còn vì sự sinh tồn và cơ hội phát triển cho các thế hệ mai sau.

Như vậy, có thể khẳng định, học thuyết Mác về con người và giải phóng con người, giải phóng nhân loại chính là cái đã cùng với luận điểm của chính C. Mác về sứ mệnh cao cả của triết học - không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn phải “cải tạo thế giới” bằng cách mạng và quan niệm duy vật về lịch sử với nội dung cốt lõi là lý luận hình thái kinh tế - xã hội mà ông là người đầu tiên phát hiện ra đã làm nên một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và mang lại cho triết học Mác vinh quang tột đỉnh của một học thuyết cách mạng triệt để và khoa học thật sự. Chính vì lẽ đó mà V.I. Lê-nin khẳng định: Học thuyết của C. Mác là “học thuyết vạn năng”, “học thuyết chính xác”, “học thuyết hoàn bị và chặt chẽ”, đã cung cấp cho chúng ta “một thế giới quan hoàn chỉnh” để nhận thức và cải tạo thế giới; rằng, “triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật” và quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác là “thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Trong thời đại ngày nay - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, học thuyết của C. Mác là học thuyết cách mạng nhất, khoa học nhất, và với tư cách đó, nó cung cấp cho nhân loại tiến bộ và nhất là cho giai cấp công nhân toàn thế giới một công cụ nhận thức vĩ đại để cải tạo và xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.

Vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về con người và giải phóng con người, phát triển con người toàn diện, ngay từ những ngày đầu tiến hành sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định “con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất”. Chăm lo cho hạnh phúc của mọi người, mọi nhà đã được Đảng đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu phát triển con người, vì cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã khẳng định: “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”(9).

Cho đến nay, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam mới chỉ vượt ra khỏi tình trạng của một nước kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Do vậy, với Việt Nam hiện nay, không có con đường nào khác ngoài con đường “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó không chỉ là con đường tất yếu, là phương thức tối ưu để đi đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” - cách mạng con người, vì con người và do con người. Bởi lẽ, khi nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội, chúng ta khẳng định những ưu việt ấy không thể do ai đưa đến cho chúng ta, cũng không thể tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân, với những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm và lối sống cao đẹp.

Định hướng phát triển xã hội theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam được Đảng ta coi là bước rất quan trọng trong thời kỳ phát triển mới - giai đoạn từ nay đến năm 2020. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải tập trung rất nhiều trí tuệ, sức người, sức của, tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát của Chiến lược phát triển đất nước 5 năm 2016 - 2020 mà Đảng đã thông qua tại Đại hội XII là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người ngày một gia tăng, vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ được phát huy; kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước...(10).

Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát đó cho thấy, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, khi chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có học thuyết Mác về con người, về sự nghiệp giải phóng và phát triển con người, được xác định là cơ sở lý luận nền tảng, là kim chỉ nam cho hành động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phát triển con người Việt Nam - “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” - vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Phát triển con người Việt Nam - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân văn, là nền tảng, cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng đang lãnh đạo nhân dân Việt Nam từng bước thực hiện.

Thực tiễn ngày càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của C. Mác về vị trí và vai trò không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bên cạnh Việt Nam, nhiều nước trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới đã cho thấy thành công của họ trong chiến lược nâng cao chất lượng con người, coi con người là nguồn tài nguyên vô giá và đầu tư lớn cho việc nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên vô giá ấy, lấy đó làm đòn bẩy phát triển kinh tế, hiện đại hóa xã hội. Trong các Nghị quyết Đại hội X, XI và XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam, phát triển con người Việt Nam toàn diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Với thực tiễn Việt Nam hiện nay, với bối cảnh quốc tế hiện thời, để phát triển con người Việt Nam, để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, phát huy nguồn lực con người, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với tư cách là yếu tố cơ bản cho sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, Việt Nam cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm từng bước hiện đại hóa đất nước và đời sống xã hội. Và, Việt Nam chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo thực sự trở thành “quốc sách hàng đầu”, trở thành nền tảng và động lực; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; đặc biệt là khi quá trình hiện đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số và kế hoạch hóa gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Chính vì thế mà mọi kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối liên hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Trung thành với học thuyết Mác về con người, giải phóng và phát triển con người, giải phóng và phát triển cả cộng đồng nhân loại, trong suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy việc chăm lo cho hạnh phúc của con người làm mục tiêu phấn đấu cao nhất. Luận điểm được coi là then chốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh - “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh” - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp hoạt động của Đảng. Với tư cách là đảng cầm quyền, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(11). Liên tục trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, điều kiện và giải pháp thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sự nghiệp chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội gắn với phát triển kinh tế tri thức cũng là vì sự nghiệp cao cả đó.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức lấy học thuyết Mác về phát triển con người làm nền tảng không có nghĩa là đặt phát triển kinh tế sau phát triển con người, mà là ở chỗ “tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Một nước đang phát triển có thu nhập trung bình như Việt Nam, để nhanh chóng thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” đó, trước hết cần ưu tiên cho phát triển kinh tế. Trước đây, với căn bệnh chủ quan, duy ý chí, Việt Nam đã làm như vậy và đã phạm sai lầm. Ngày nay, để tránh mắc lại sai lầm đó, phát triển kinh tế không thể không xuất phát từ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, từ tinh thần nhân văn sâu sắc và gắn liền với hiện đại hóa đời sống xã hội. Bởi lẽ, một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế chính là ở chỗ tạo ra sự cân đối, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường xã hội an toàn, lành mạnh.

Phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta không thể không lưu ý tới lời cảnh tỉnh của C. Mác về nguy cơ “tha hóa” của con người trong nền kinh tế hàng hóa. C. Mác nhắc nhở chúng ta trong phát triển kinh tế phải gắn “sự nghiệp giải phóng con người” với cuộc “đấu tranh chống lại biểu hiện thực tiễn cực đoan của sự tha hóa của con người”(12). Ngày nay, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải gắn liền với cội nguồn dân tộc, với những giá trị truyền thống. Chỉ có thế chúng ta mới tránh khỏi “nguy cơ tha hóa”, làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình. Chiến lược phát triển con người toàn diện, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng phải được hoạch định theo hướng đó. Thêm vào đó, nó cần được xuất phát từ quan niệm của C. Mác về tính thiết yếu của việc kết hợp hài hòa sự phát triển tự do của cá nhân với thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Bởi lẽ, “chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới có những phương tiện để có thể phát triển toàn diện năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân” và chỉ “trong điều kiện có cộng đồng thật sự, các cá nhân có được tự do khi họ liên hợp lại và nhờ sự liên hợp ấy”(13). Và, cũng chỉ có trong một cộng đồng như vậy, “sự phát triển tự do của mỗi người” mới trở thành “điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(14)./.

----------------------------------------------------

(1), (2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 55, 38

(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 569

(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 11

(5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 42, tr. 135

(6) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 27, tr. 657, 658

(7) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 26, phần II, tr. 168

(8) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 88

(9) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 13

(10) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 76 - 79

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 79

(12) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 561

(13) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 108

(14) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 628

PGS.TS. Đặng Hữu Toàn

Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Từ khóa » Từ Dĩ Nhiên Là Gì