Hồi ức Cầu Xe Lửa Dran - Nguyễn Tấn Đại

Quê tôi nằm dọc tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm-Đà Lạt, là một công trình độc đáo mà người Pháp đã xây dựng trong thời kì đô hộ Đông Dương. Tuyến đường sắt này có hai cây cầu vượt sông bằng sắt, một tại Tân Mỹ và một tại Dran. Chiếc cầu sắt Tân Mỹ được xây dựng trong giai đoạn đầu hình thành (1903-1913), kiến trúc thô kệch không có gì đặc sắc. Chiếc cầu sắt Dran có lẽ ra đời trong giai đoạn hoàn thành các chặng nối dài cho đến Đà Lạt, nhất là đoạn từ ga Eo Gió (đỉnh đèo Ngoạn Mục) đến ga Càn Rang (Lạc Thiện, Dran) những năm 1926-1927 [1]. Khác với Tân Mỹ, cầu sắt Dran là một công trình diễm lệ, với ba nhịp cầu uốn cong thanh thoát vắt qua dòng sông Đa Nhim khi ấy còn rất rộng, sau lưng là sườn núi vươn cao như một điểm tựa vững chãi.

Cận cảnh cầu xe lửa Dran.

Ảnh 1: Cận cảnh cầu xe lửa Dran. Tác phẩm đầu tay với chiếc máy ảnh compact, mùa xuân 1994.

Từ năm 1972, tuyến đường sắt đặc biệt này bị ngưng khai thác do chiến sự căng thẳng. Sau khi hoà bình lặp lại, việc khai thác trở lại cũng không mấy khả quan. Rồi một ngày “đẹp trời” nào đó, ngành đường sắt đã cho tháo gỡ các thanh ray của tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm-Đà Lạt để sửa chữa những đoạn đường sắt Bắc-Nam bị hư hỏng. Đến năm 1990, những chiếc đầu máy xe lửa hơi nước nằm im lìm trong các nhà ga hoang phế ở Krong Pha và Đà Lạt lại được bán cho người Thuỵ Sĩ với giá “đồng nát”. Nhà ga Eo Gió nơi đón đoàn tàu vượt đèo Ngoạn Mục qua ngàn mét núi cao trùng điệp trở thành chuồng bò kho chứa. Nhà ga Càn Rang nơi khách lên xuống chuẩn bị cho một hành trình vượt đèo Dran qua tiếp năm trăm mét núi cao mây trắng nắng tràn bị xâm lấn dần dần biến thành nhà ở của cư dân ven tuyến đường. Những tiếng còi tàu chỉ còn văng vẳng trong tiềm thức người già và trong trí tưởng tượng của một số người trẻ tuổi.

Toàn cảnh cầu xe lửa Dran. Bản cập nhật tháng 09/2025 có dùng Gemini xử lí vết ố.

Ảnh 2: Toàn cảnh cầu xe lửa Dran. Tháng 05/1996.

Trong cái trí tưởng tượng ấy, hình ảnh đoàn tàu phùn phụt hơi nước vượt qua ba nhịp cầu cong cong trên mặt nước lững lờ hẳn là giống một thiếu nữ phơi phới thanh tân đương thời xuân sắc. Tôi sinh ra và lớn lên trong cái “thung lũng mây” yêu dấu ấy, mỗi ngày đi qua lại một lần khắc sâu hình ảnh chiếc cầu sắt trầm mặc, im lìm bên “dòng sông nước mắt” lững lờ không trôi. Cứ như là một mệnh phụ phu nhân đài các lặng thầm mặc tưởng về một thuở xuân thì.

Cầu xe lửa Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên.

Ảnh 3: Cầu xe lửa Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên. Mùa xuân 2003.

Thời học cấp II, tôi mê sinh hoạt Đội. Vì vậy, dù được kết nạp đội trễ nhất (lớp 5) so với các bạn cùng lứa, tôi vẫn mau chóng trở thành “cán bộ Đội” cực kì năng nổ, tích cực, gọi là “máu”. Trong vòng 3 năm từ lớp 7 đến lớp 9, tôi trải qua đến 4 “đời” Tổng phụ trách Đội. Đó là giai đoạn phong trào Đoàn-Đội bắt đầu đi xuống dưới tác động của kinh tế thị trường thời kì mở cửa. Khi các anh chị nòng cốt ở các khoá trên lên cấp III rồi ra trường, tôi trở thành người lôi kéo, thúc giục, năn nỉ bạn bè và các khoá sau tham gia sinh hoạt Đội với một niềm tin hoàn toàn trong trẻo, ngây thơ. Đó cũng là những cơ duyên dẫn đến những bức ảnh lịch sử mà tôi có được về cây cầu sắt đặc biệt này.

Năm lớp 7, trong một lần đạp xe vào đồi thông Châu Sơn chơi, gặp thầy Lê Công Quý đeo máy ảnh hướng dẫn các anh chị khoá 1992 chụp ảnh, tôi đứng nhìn từ xa một cách vừa tò mò vừa ngưỡng mộ. Đến những năm lớp 9, lớp 10, khi hướng dẫn sinh hoạt cho các bạn khoá 1999, chúng tôi thường tụ tập tại nhà Nguyễn Hữu Tuấn con chú Nguyễn Hữu Đô. Chú Đô làm nghề chụp ảnh nên có nhiều tạp chí ảnh, tôi được xem ké và dần dần hình thành niềm yêu thích chụp ảnh, dù không có chút phương tiện nào để thực hành.

Khu trung tâm thị trấn Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên.

Ảnh 4: Khu trung tâm thị trấn Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên. Mùa xuân 2003.

Mùa thu năm 1993, tôi học lớp 10, thị trấn Dran hứng chịu một trận lũ lịch sử do mưa lớn, nước từ thượng nguồn đổ về ồ ạt, đập Đa Nhim buộc phải xả lũ cấp tốc cả 4 cửa khổ. Mới tờ mờ sáng, người dân khu vực Quảng Lạc đã thấy nước ngập đến tận chân giường. Đến sáng người dân trên phố thức dậy thì nước đã mấp mé mặt cầu xe hơi và gần ngập trụ đá cầu sắt. Thuở ấy các anh công an đập Đa Nhim có nuôi cá mè trong lòng hồ để “tăng gia sản xuất”; những chú cá mè to bằng cả bắp chân người bị nước dập tơi tả, phơi trắng bụng lềnh bềnh trong dòng nước đục ngầu. Nhiều người cầm vợt dài đứng mặt bên này cầu xe hơi tranh thủ vớt cá. Riêng chú Chín Khùng đứng mặt cầu bên kia, thấy con cá to “thoát” khỏi các tay “vợt thủ” bèn lao xuống ôm chầm lấy, rồi nương theo dòng nước đến trụ đá cầu sắt, bám vào trèo lên. Nhiều người dân Đường Mới phải chạy lũ dồn về khu đường ray xe lửa, đứng lô nhô trên nhịp cầu sắt, thấy cảnh đó chỉ có lắc đầu thè lưỡi.

Toàn cảnh thị trấn Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên.

Ảnh 5: Toàn cảnh thị trấn Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên. Mùa xuân 2003.

Cơn lũ qua đi để lại một bãi đá dài phía sau cầu xe hơi hướng về cầu xe lửa. Lâu ngày bãi đá biến thành bãi bồi, nhiều người tận dụng làm đất trồng trọt. Đó cũng có thể là nơi chăn bò, thả ngựa loanh quanh ăn cỏ bên bờ sông. Mùa xuân năm 1994, dịp Tết, tôi mượn được chiếc máy ảnh compact của ông anh rể. Thế là hí hoáy ráp phim, chạy xuống bãi đá này chụp hình chiếc cầu sắt. Sau rửa ra, tấm đầu tiên phim bị cháy do ở đầu cuộn, tấm thứ hai thành công, chính là bức ảnh số 1 của bài viết này. Tác phẩm nhiếp ảnh đầu tay của tôi ra đời như thế, và cho đến nay đó là một trong hai bức ảnh tôi ưng ý nhất về cây cầu sắt Dran, dù chỉ chụp bằng một chiếc máy ảnh compact rẻ tiền. Đến năm 1996, dịp tốt nghiệp ra trường, tôi cũng mượn được máy ảnh để chụp hình kỉ niệm và dĩ nhiên tôi không quên cây cầu sắt, dù thần thái bức ảnh (số 2) không được ưng ý như hai năm trước đó.

Cầu xe lửa Dran: Tuổi thơ bên sông.

Ảnh 6: Tuổi thơ bên sông. Mùa xuân 2004.

Năm 2000, tôi đi du học Pháp sau khi tốt nghiệp đại học. Niềm vui chụp ảnh được thoả mãn vì có tiền dành dụm mua được bộ máy ảnh bán tự động, với đầy đủ phụ tùng, đèn flash, ống kính xa gần, chân máy các loại. Học xong về nước, chiếc cầu sắt vẫn lừng lững u buồn nằm đó cùng năm tháng nắng mưa. Mỗi dịp về Tết, tôi lại lang thang chụp ảnh với niềm mong mỏi một ngày nào đó lập một website chia sẻ hình ảnh quê hương với những người đồng hương đang rải rác khắp bốn phương tứ xứ. Internet những ngày ấy vẫn còn là một thứ gì xa xỉ ở Việt Nam, và Mark Zuckerberg vẫn còn chưa vào đại học để tạo nên đế chế Facebook mấy năm về sau. Chỉ khổ một nỗi, tiền mua phim và rửa hình rất tốn kém, mà kết quả chụp thì không thể thấy ngay như máy ảnh số, nên không phải lúc nào tôi cũng quay về đề tài cầu xe lửa. Lại càng không thể hình dung một ngày nào đó nó sẽ biến mất không còn tồn tại trên đời.

Cầu xe lửa Dran: Ngựa non (1).

Ảnh 7: Ngựa non (1). Mùa xuân 2004.

Dịp Tết 2003, tôi khệ nệ vác bộ máy ảnh leo lên sườn núi phía sau chùa Giác Nguyên, hướng nhìn ngược về thị trấn. Riêng hôm ấy tôi bấm có lẽ đến vài chục bức ảnh từ toàn cảnh đến cận cảnh, từ góc rộng đến tele. Vì chưa có máy ảnh số và công nghệ chụp panorama như bây giờ, tôi phải kéo zoom hết mức, rồi canh từng khuôn ảnh nhỏ để chụp sao cho thấy hết các chi tiết của thị trấn, với dự định sẽ rửa ra hết rồi ghép lại thành một bức toàn cảnh độ nét cao. Nhưng cách làm thủ công thô sơ ấy không thể đạt kết quả như ý, vì chỉ cần lệch góc một chút, ánh sáng khác một chút, rồi tiệm ảnh rửa nước màu khác một chút… thì sản phẩm lắp ghép không còn như kì vọng, mất hết nét đẹp thu được vào tầm mắt khi đứng nhìn từ trên cao. May mắn là trong loạt hình đó, có một tấm ghi lại được trọn vẹn hình ảnh chiếc cầu xe lửa bắt xéo qua sông, hướng về trung tâm thị trấn trước khi rẽ trái vào Lạc Thiện (số 3). Bức ảnh ghép duy nhất có thể thực hiện chính là từ tấm này và một tấm chụp nối sang chiếc cầu xe hơi, tạo thành một bức panorama cận cảnh toàn bộ khu trung tâm thị trấn với hai chiếc cầu hai bên (số 4). Từng mái nhà uốn quanh chân đồi hiện ra mồn một, là những chi tiết khó lòng thấy được với ảnh chụp toàn cảnh thị trấn bằng ống kính góc rộng (số 5).

Cầu xe lửa Dran: Ngựa non (2).

Ảnh 8: Ngựa non (2). Mùa xuân 2004.

Một năm sau, lượng hình ảnh và tư liệu tích cóp vẫn chưa được như ý, dịp Tết 2004 tôi lại về Đơn Dương tiếp tục vác máy lang thang săn ảnh. Như một định mệnh, khi đi ngang qua cầu xe hơi, tôi bắt gặp một cảnh đầy ấn tượng: một cậu bé mặc đồng phục học sinh quần xanh áo trắng, vừa chăn bò vừa tranh thủ học bài bên bờ sông. Xung quanh còn có vài chú ngựa cả già lẫn non được ai thả lang thang gặm cỏ. Một khung cảnh đầy an nhiên tự tại. Tôi lập tức dừng xe giữa cầu, bấm ngay một pô ảnh có thể nói là để đời về cây cầu sắt Dran (số 6), vì sau dịp đó không còn ai có bất cứ cơ hội nào khác nữa. Tấm này về sau lập diễn đàn Đa Nhim tôi đã đăng tải và đặt tên “tuổi thơ bên sông”. Sau đó, tôi chạy xe xuống hẳn dưới bờ sông để chụp thêm một loạt ảnh khác. Một chú ngựa non lang thang ăn cỏ bên sông với hậu cảnh là nhịp cầu sắt cong cong trở thành chủ đề cho các bức ảnh số 7 và số 8. Trong bụng nghĩ rằng, hồi xưa mới “vào nghề” bằng chiếc máy ảnh compact mà còn chụp được tác phẩm ưng ý đến vậy, nên với bộ “đồ nghề” chuyên nghiệp trên tay hôm ấy, ắt phải có thêm nhiều “tuyệt phẩm”. Nhưng thực sự tôi đã nhầm. Trong loạt ảnh chụp này, các bức từ xa (số 9) đến gần (số 10), từ dọc (số 11) đến ngang với các bụi cây làm tiền cảnh (số 12) hết thảy đều không có được cái thần thái đã thu được trong bức ảnh đầu tay năm xưa.

Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (1).

Ảnh 9: Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (1). Mùa xuân 2004.

Rời Dran mùa xuân năm ấy, tôi không ngờ rằng chỉ vài tháng sau, chiếc cầu sắt đã đột ngột biến thành đống sắt vụn. Thời điểm đó, anh trai tôi đang làm phó chủ tịch thị trấn. Sau về nhà hỏi chuyện, anh bảo việc đó do ngành đường sắt đơn phương quyết định, chính quyền địa phương không hay biết và cũng không kịp can thiệp. Bây giờ anh đã mất, những lãnh đạo chính quyền khi ấy giờ cũng đã nghỉ hưu cả, chẳng còn ai để đối chứng, kiểm tra, làm rõ. Mà có thì cũng chẳng biết giải quyết được việc gì không. Hơn mười lăm năm trôi qua, để thấy hết nguồn cơn cái quyết định ấu trĩ ngày ấy của ngành đường sắt thì cần nhìn lại câu chuyện theo chiều dài lịch sử, gắn với cả những câu chuyện tháo ray đường sắt răng cưa sửa ray đường sắt Bắc-Nam hay bán “đồng nát” những chiếc đầu máy xe lửa hơi nước thuộc loại độc nhất vô nhị trên thế giới cũng theo chu kì 15-20 năm trước đó. Hay cả cái sự loay hoay bế tắc với hệ thống đường sắt quốc gia ngày hôm nay không khá hơn được chút nào so với những gì người Pháp đã tạo dựng và để lại từ gần một thế kỉ trước.

Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (2).

Ảnh 10: Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (2). Mùa xuân 2004.

Sáng sớm ngày 24/06/2004, báo Tuổi Trẻ đăng bài “Cái chết của một cây cầu trăm tuổi” với hình ảnh chiếc cầu sắt lịch sử đổ sụm bên dòng Đa Nhim, như một vết dao cứa lòng những người con Đơn Dương xa xứ. Đó cũng là một trong những tác nhân thôi thúc mạnh mẽ hơn ý tưởng lập website của tôi. Ngày 06/11/2005, Quỹ Thông Xanh ra đời với sự góp sức của nhiều thành viên các khoá từ 1992 đến 1996. Đúng một tháng rưỡi sau, “DaNhim.net: Điểm hẹn Đơn Dương” ra mắt qua sự hợp tác giữa tôi với một người bạn cùng khoá là Võ Ngọc Minh Quang và một chị khoá 1994 là Hồ Ưng Bình. Năm năm tiếp theo là giai đoạn “vàng son” của các hoạt động cộng đồng người Đơn Dương. Diễn đàn Đa Nhim thu hút được đến gần 3.000 thành viên, đăng tải hơn 2.000 đề tài thảo luận với trên 20.000 bài viết. Tôi muốn sử dụng các tư liệu, hình ảnh cá nhân mình tích góp được như một tài sản chung của cộng đồng, nên đã chia sẻ các album của website và diễn đàn mà hoàn toàn không ghi tên tác giả.

Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (3).

Ảnh 11: Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (3). Mùa xuân 2004.

Trong số đó, bốn bức ảnh cây cầu sắt Dran của tôi (số 1, 3, 5 và 6) cùng nhiều một số ảnh của vài thành viên khác đã được một tổ chức người Việt ở nước ngoài tên là VNAF MAMN đưa vào một trang tư liệu về tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm-Đà Lạt, nhưng “hô biến” bản quyền thành của mình. Từ đó, các bức ảnh này được lưu truyền khắp nơi trên mạng, cho đến một ngày “đẹp trời” khác giữa tháng 09/2009, một bạn trẻ người Đơn Dương có bài viết về quê hương đăng trên VietNamNet, chia sẻ thông tin trên diễn đàn Đa Nhim (mà tôi làm quản trị), dẫn 2 bức ảnh của tôi mà ghi nguồn của VNAF MAMN. Một mặt tôi giải thích cho tác giả bài viết biết nguồn gốc 2 bức ảnh này, mặt khác sau đó tôi viết thư cho VNAF MAMN đề nghị họ sửa lại chú dẫn tác quyền các bức ảnh lấy trên DaNhim.net. Kết quả chỉ có 3 bức số 1, 5 và 6 được sửa. Tôi không muốn dây dưa phiền toái nhiều nên cũng im lặng bỏ qua.

Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (4).

Ảnh 12: Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (4). Mùa xuân 2004.

Từ khoảng 2010 trở đi, mạng xã hội phát triển, các diễn đàn thảo luận trực tuyến đi vào thoái trào, dù là những cộng đồng một thời đình đám nhất cộng đồng mạng. Các bức ảnh sai nguồn nói trên vẫn cứ mãi lưu lạc, lan truyền, chia sẻ, cho tới một ngày “đẹp trời” nào đó nữa lại quay về trước mặt chính tác giả, không qua người này thì người khác (kể cả những người thân quen và... người nhà). Đính chính mãi mệt quá, thôi thì hôm nay viết luôn loạt hồi ức này, xem như một công nhiều việc: vừa xác lập bản quyền, vừa kể rõ gốc gác, vừa chia sẻ thêm những bức ảnh chưa từng công bố về cây cầu xe lửa lịch sử xứ Dran.

Sài Gòn, 12/07/2020

Cận cảnh cầu xe lửa Dran. Toàn cảnh cầu xe lửa Dran. Bản cập nhật tháng 09/2025 có dùng Gemini xử lí vết ố. Cầu xe lửa Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên. Khu trung tâm thị trấn Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên. Toàn cảnh thị trấn Dran nhìn từ chùa Giác Nguyên. Cầu xe lửa Dran: Tuổi thơ bên sông. Cầu xe lửa Dran: Ngựa non (1). Cầu xe lửa Dran: Ngựa non (2). Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (1). Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (2). Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (3). Cầu xe lửa Dran những tháng ngày cuối cùng (4).

Từ khóa » Cầu đường Sắt Xe Lửa