Huyết Tương – Wikipedia Tiếng Việt

Một Lưu trữ 2020-09-29 tại Wayback Machine đơn vị huyết tương tươi được hiến

Huyết tương là một thành phần chất lỏng màu vàng của máu chứa các tế bào máu của máu toàn phần ở trạng thái huyền phù. Nó là phần chất lỏng của máu mang các tế bào và protein đi khắp cơ thể và chiếm khoảng 55% tổng lượng máu của cơ thể.[1] Huyết tương là phần chất lỏng nội mạch của chất lỏng ngoại bào (tất cả chất lỏng bên ngoài tế bào của cơ thể). Nó chủ yếu là nước (lên đến 92% thể tích), và chứa các protein hòa tan quan trọng (6–8%) (ví dụ: albumin huyết thanh, globulin và fibrinogen),[2] glucose, các yếu tố đông máu, chất điện giải (Na+, Ca2+, Mg2+, HCO3-, Cl-, v.v.), hormone, carbon dioxide (huyết tương là môi trường chính để vận chuyển sản phẩm bài tiết) và oxy. Nó đóng một vai trò quan trọng trong hiệu ứng thẩm thấu nội mạch giúp giữ cân bằng nồng độ điện giải và bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm trùng và các rối loạn máu khác.[3]

Huyết tương được tách ra khỏi máu bằng cách quay một ống máu tươi có chứa chất chống đông máu trong máy ly tâm cho đến khi các tế bào máu rơi xuống đáy ống. Huyết tương sau đó được đổ hoặc rút ra.[4] Đối với các ứng dụng xét nghiệm tại điểm chăm sóc, huyết tương có thể được chiết xuất từ máu toàn phần thông qua lọc [5] hoặc qua ngưng kết [6] để cho phép kiểm tra nhanh các dấu ấn sinh học cụ thể. Huyết tương có mật độ khoảng 1025 kg/m³ hoặc 1,025 g/ml.[7]

Huyết thanh là huyết tương không có yếu tố đông máu.[4]

Tách huyết tương là một liệu pháp y tế bao gồm chiết xuất, điều trị và sau đó là tái hòa nhập huyết tương.

Huyết tương tươi đông lạnh nằm trong Danh sách các thuốc thiết yếu của WHO, là loại thuốc quan trọng nhất cần thiết trong hệ thống y tế cơ bản.[8] Nó có tầm quan trọng thiết yếu trong việc điều trị nhiều loại chấn thương dẫn đến mất máu, và do đó được dự trữ phổ biến trong tất cả các cơ sở y tế có khả năng điều trị chấn thương (ví dụ: trung tâm chấn thương, bệnh viện và xe cứu thương) hoặc có nguy cơ bệnh nhân mất máu như các phương tiện trong phòng phẫu thuật.

Thành phần

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyết tương chứa 90% nước về thể tích, 10% còn lại là các chất tan như: protein huyết tương, các thành phần hữu cơ và muối vô cơ KMnO4 v.v.

Protein huyết tương

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyết tương chứa rất nhiều protein hòa tan chiếm 7% về thể tích, trong đó các protein quan trọng nhất là:

  • Albumin: Là loại protein huyết tương phổ biến nhất (3,5-5g/dL máu) và là yếu tố chính gây ra áp suất thẩm thấu (osmotic pressure) của máu. Các chất chỉ hòa tan một phần hoặc không hòa tan trong nước được vận chuyển trong huyết tương bằng cách liên kết với Albumin.
  • Globulin: Alpha, beta, gamma là những protein hình cầu hòa tan trong huyết tương. Gamma protein gồm có các kháng thể hay immonuglobulin được tổng hợp bởi tương bào.
  • Fibrinogen: Protein này được biến đổi thành fibrin bởi các enzyme liên kết với máu trong quá trình cầm máu. Fibrinogen được tổng hợp và chế tiết ở gan.

Các hợp chất hữu cơ khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Các hợp chất hữu cơ khác trong huyết tương gồm có các chất dinh dưỡng như: amino acid, glucose, vitamin và một số loại peptide điều hòa, steroid hormone và lipide.

  • Các muối khoáng: muối khoáng chiếm 0.9 g/o về thể tích bao gồm các muối điện ly như Na, K, Ca v.v.

Chức năng

[sửa | sửa mã nguồn]

Huyết tương có chức năng:

  • Có các chất dinh dưỡng hormone kháng thể chất thải nên tham gia vận chuyển các chất trong cơ thể.
  • Duy trì máu luôn ở trạng thái lỏng để lưu thông dễ dàng trong mạch.
  • Vận chuyển chất dinh dưỡng, muối khoáng, các chất cần thiết khác và các chất thải.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Dennis O'Neil (1999). “Blood Components”. Palomar College. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2013.
  2. ^ Tuskegee University (ngày 29 tháng 5 năm 2013). “Chapter 9 Blood”. tuskegee.edu. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2013.
  3. ^ “Ways to Keep Your Blood Plasma Healthy”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2011.
  4. ^ a b Maton, Anthea; Jean Hopkins; Charles William McLaughlin; Susan Johnson; Maryanna Quon Warner; David LaHart; Jill D. Wright (1993). Human Biology and Health. Englewood Cliffs, New Jersey, USA: Prentice Hall. ISBN 0-13-981176-1.
  5. ^ Tripathi S, Kumar V, Prabhakar A, Joshi S, Agrawal A (2015). “Passive blood plasma separation at the microscale: a review of design principles and microdevices”. J. Micromech. Microeng. 25 (8): 083001. Bibcode:2015JMiMi..25h3001T. doi:10.1088/0960-1317/25/8/083001.
  6. ^ Guo, Weijin; Hansson, Jonas; van der Wijngaart, Wouter (2020). “Synthetic Paper Separates Plasma from Whole Blood with Low Protein Loss”. Analytical Chemistry. 92 (9): 6194–6199. doi:10.1021/acs.analchem.0c01474. ISSN 0003-2700. PMID 32323979.
  7. ^ The Physics Factbook – Density of Blood
  8. ^ “19th WHO Model List of Essential Medicines (April 2015)” (PDF). WHO. tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Hình tượng sơ khai Bài viết liên quan đến y học này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BNF: cb119775231 (data)
  • GND: 4146082-0
  • LCCN: sh85015001
  • NKC: ph182388

Từ khóa » Nồng độ Protein Là Gì