Khái Niệm, Vai Trò, đặc điểm Của Quản Trị Nhà Nước
Có thể bạn quan tâm
(Quanlynhanuoc.vn) – Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về “Xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả”, với bản chất là xây dựng nền quản trị nhà nước hiện đại. Bài viết đề cập đến khái niệm, vai trò và đặc điểm của quản trị nhà nước.
Khái niệm quản trị, khoa học quản trị và quản trị nhà nước
Trong tiếng Anh các thuật ngữ: Administration (có nghĩa là: trông nom, điều khiển, quản lý, cai trị, kiểm soát…); Governance (cai trị, cai quản, quản lý, quản trị, điều khiển…); Management (điều khiển, sắp xếp, quản lý, quản trị…). Các thuật ngữ này có ngữ nghĩa tương đồng là: quản trị, cai trị, quản lý, chỉ huy, kiểm soát (có thể gọi chung là quản trị).
Ngày nay, thuật ngữ “quản trị” được mở rộng sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới như quản trị nhà nước (QTNN), quản trị doanh nghiệp, quản trị tổ chức, quản trị văn phòng, quản trị kinh doanh, quản trị các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội… Quản trị trở thành chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hoạt động; phát sinh từ sự phân công lao động xã hội, từ sự cần thiết phải phối hợp hành động và nâng cao hiệu quả hoạt động của cá nhân, các bộ phận trong tổ chức dưới sự điều khiển của các nhà quản trị nhằm thực hiện có hiệu quả cao mục tiêu chung của tổ chức. Quản trị trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng của con người.
Trong giáo trình “Những vấn đề cốt yếu của quản trị” của Harold Kootz, Cyril Odonnell, Heinz Weihrich nhận định rằng: có lẽ không có lĩnh vực hoạt động của con người quan trọng hơn là công việc quản trị, bởi vì mọi nhà quản trị ở mỗi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có một nhiệm vụ cơ bản là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định.
Còn đối với James H.D Donnelly, JR James L Gibson và John M. Ivancevich trong giáo trình “Quản trị học cơ bản” lại quan niệm: quản trị là một quá trình do một hay nhiều người thực hiện nhằm phối hợp các hoạt động của những người khác để đạt được những kết quả mà một người hoạt động riêng rẽ không thể nào đạt được.
Henry Fayol – nhà hành chính, nhà quản trị người Pháp cũng quan niệm: Quản trị là quá trình thực hiện các chức năng: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát nhằm đạt được mục tiêu xác định”. Phát triển quan niệm của Henry Fayol, J Stonner và S. Robbins nêu rõ hơn: quản trị là tiến trình bao gồm việc hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các hoạt động của các thành viên trong tổ chức và việc sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Từ các quan niệm trên có thể hiểu: “Quản trị là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản trị đến đối tượng quản trị thông qua các hoạt động: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra và sử dụng các nguồn lực của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra”.
Quản trị ngày nay đã phát triển ở mọi nơi trong hoạt động của con người. Nó trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng không thể thiếu của các tổ chức con người, xã hội và nhà nước. Từ thực tiễn hoạt động quản trị các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế – xã hội và nhà nước, các nhà quản trị, các nhà khoa học đã tổng kết, đúc rút được các kiến thức, kỹ năng, phương pháp, kinh nghiệm và hệ thống hóa thành một lĩnh vực khoa học gọi là khoa học quản trị hay quản trị học. Nếu quản trị được quan niệm, được xác định là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản trị đến đối tượng quản trị nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức thì khoa học quản trị nghiên cứu cách thức tác động của chủ thể quản trị đến các đối tương quản trị sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.
Khoa học quản trị là ngành, lĩnh vực khoa học nghiên cứu làm rõ các quy luật, nguyên tắc, phương pháp của các quá trình và quan hệ quản trị nhằm tìm ra cách thức quản trị có hiệu quả nhất để áp đụng cho các hệ thống quản trị trong đó có hệ thống quản trị công – QTNN. Quản trị là hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Tính khoa học của quản trị thể hiện ở các nội dung tôn trọng các quy luật khách quan; tuân thủ các nguyên tắc quản trị; sử dụng thành thạo các phương pháp quản trị. Tính nghệ thuật của quản trị xuất phát từ tính phức tạp của bản thân các hệ thống, quản trị là hệ thống con người trong mối quan hệ với các sự vật và quá trình tự nhiên kinh tế – xã hội.
Các nhà khoa học coi hệ thống quản trị là hệ thống có độ phức tạp cao nhất trong các hệ thống. Việc quản trị hệ thống con người đòi hỏi không những kiến thức, kỹ năng trong sử dụng các công cụ mang tính khoa học mà còn ở tài nghệ, sự khéo léo, linh hoạt, uyển chuyển trong xử lý các quan hệ liên quan đến con người và sự việc. Khoa học quản trị ngày nay trở thành lĩnh vực khoa học tổng hợp liên ngành có vai trò quan trọng cung cấp các luận cứ, cơ sở phương pháp luận khoa học, các quy luật, nguyên tắc, phương pháp, nghệ thuật để quản trị có hiệu quả, các lĩnh vực hoạt động của các tổ chức, con người, xã hội và nhà nước.
Quản trị các tổ chức cũng như QTNN đều có mục tiêu đạt hiệu quả cao thông qua việc thực hiện các chức năng chủ yếu của quản trị, như: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Sự khác nhau cơ bản giữa QTNN và quản trị các tổ chức khác xuất phát từ sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước với tổ chức khác về bản chất, vai trò, đặc điểm, đặc thù. Nhà nước trong quan niệm truyền thống là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản trị; đặc biệt nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp. Ngày nay, trong điều kiện phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường, của khoa học – công nghệ, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng thì quan niệm về nhà nước đã có sự thay đổi. Nhà nước trở thành tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, tổ chức đại diện chính thức cho nhân dân, cho toàn xã hội. Nhà nước có vai trò là chủ thể tổ chức, quản trị, duy trì và phát triển nền tảng kinh tế – xã hội của mình.
Đối với khu vực công – khu vực nhà nước, quá trình phát triển từ hành chính công (hành chính nhà nước) sang quản lý công (quản lý nhà nước), quản lý công mới và quản trị nhà nước tốt là quá trình phát triển nhận thức đầy đủ vai trò của quản trị, của khoa học quản trị và vận dụng sáng tạo các quy luật, nguyên tắc, phương pháp, nghệ thuật của khoa học quản trị vào hoạt động của hành chính công, quản lý công, quản lý công mới và QTNN tốt, Đồng thời là quá trình vận dụng một cách sáng tạo, có hiệu quả kinh nghiệm, phương pháp quản trị kinh tế và các hoạt động khác của khu vực ngoài nhà nước vào QTNN nhằm tăng cường hiệu quả vận hành của bộ máy QTNN, tạo điều kiện cho kinh tế xã hội phát triển và phục vụ người dân tốt hơn.
QTNN theo nghĩa rộng là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước đảm nhiệm nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội nhằm mục đích ổn định và phát triển xã hội. QTNN với nghĩa trực tiếp và cụ thể là hoạt động thực thi quyền hành pháp, do các cơ quan hành chính công quyền (đứng đầu là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và chính quyền địa phương các cấp) đảm nhiệm nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại, xây dựng, quản trị, trấn áp của nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển kinh tế – xã hội và các quy định của pháp luật, bảo đảm, duy trì sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước và phục vụ người dân.
QTNN dưới góc độ của khoa học quản trị “là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đến các quá trình, quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân, thông qua các hoạt động: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra và sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu của nhà nước, thực hiện có hiệu quả các chúc năng, nhiệm vụ của nhà nước, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và phục vụ đắc lực người dân”.
Vai trò của quản trị nhà nước
Nhà nước trong quan niệm hiện đại là tổ chức đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực hiện quyền lực, nhằm tổ chức và quản trị xã hội phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội. Nhà nước là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nhà nước sinh ra từ xã hội, xã hội là nền tảng, là cơ sở tồn tại và phát triển của nhà nước. Bất kỳ nhà nước nào ra đời, tồn tại và phát triển cũng đều có hai vai trò, chức năng cơ bản: chức năng quản trị và chức năng xã hội (hay chức năng phục vụ). Đồng thời, Nhà nước còn có vai trò là chủ thể quản trị xã hội, duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Như vậy, vai trò của QTNN là vai trò cố hữu, cơ bản, chủ yếu của nhà nước.
Vai trò của QTNN thể hiện ở chỗ nó quyết định sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Quản trị giỏi đồng nghĩa với cầm quyền trị nước giỏi. QTNN, năng lực QTNN quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, dân tộc. Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia, dân tộc đều liên quan chặt chẽ đến các hoạt động quản trị của nhà nước. Không phải ngẫu nhiên Peter Drucker – một nhà khoa học nổi tiếng về quản trị đã khẳng định: Quản trị, năng lực quản trị, tính nhất quán của quản trị và việc thực hiện quản trị có ý nghĩa quyết định đối với cả nước Mỹ và các nước khác trong các thập niên tới.
Thực tiễn cho thấy, các nước phát triển như: Mỹ, Đức, Pháp, Nhật Bản, Xinh-ga-po đều là các nước có hệ thống QTNN tiên tiến và hiện đại.
Ngày nay, trong các yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh quốc gia, như: nguồn lực tài nguyên thiên nhiên (đất đai, khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, dưới đáy biển, trên không trung…), nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; nguồn lực khoa học và công nghệ (nhất là công nghệ thông tin và QTNN) thì yếu tố QTNN là yếu tố quan trọng nhất, chi phối các yếu tố khác và là yếu tố chủ yếu quyết định mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt trong điều kiện phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, yếu tố con người và trí thức trở thành yếu tố chủ yếu của năng lực cạnh tranh quốc gia thì QTNN có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết (vì chủ thể QTNN là những con người những nhà quản trị có đủ năng lực quản trị điều hành đất nước). Đó là vai trò chung, vai trò chủ yếu của QTNN. Ngoài ra, QTNN cũng như quản trị nói chung còn có các vai trò cụ thể sau:
(1) QTNN có vai trò định hướng, dẫn đường cho các hoạt động kinh tế – xã hội, phát triển nhanh và bền vững, vai trò này thể hiện ở chức năng hoạch định, xây dựng, ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, thể chế, chính sách – các công cụ cần thiết, quan trọng và hữu dụng của QTNN.
(2) QTNN có vai trò tổ chức, vai trò này thể hiện rõ ở chức năng tổ chức của QTNN. Chức năng tổ chức là chức năng cơ bản, chức năng quan trọng của QTNN. Vai trò tổ chức của QTNN thể hiện ở chỗ nó có sứ mệnh thiết lập bộ máy quản trị tối ưu và tuyển dụng, quản trị sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực làm việc trong bộ máy QTNN và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, thể chế, chính sách vào thực tiễn cuộc sống.
(3) QTNN có vai trò lãnh đạo, điều hành phối hợp các hoạt động trong QTNN và khích lệ, động viên truyền cảm hứng, tạo động lực làm việc cho các chủ thể, các cá nhân tổ chức tham gia quản trị và các đối tượng QTNN. Năng lực, khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành là chìa khóa quyết định sự thành công của QTNN
(4) Vai trò của QTNN trong giám sát kiểm tra các hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước. Vai trò này thể hiện cụ thể ở chức năng kiểm tra của QTNN, thể hiện quyền uy của chủ thể QTNN. Quản trị nói chung QTNN nói riêng không có giám sát, kiểm tra coi như không có quản trị. QTNN cần có sự giám sát kiểm tra các hoạt động của các cá nhân, tổ chức tham gia quản trị và các đối tượng của QTNN để giữ gìn trật tự công, lợi ích công, lợi ích của người dân và kịp thời phát hiện các sai sót, vi phạm trong QTNN, giúp QTNN đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Đặc điểm, tính chất của quản trị nhà nước
QTNN là chức năng, nhiệm vụ chủ yếu đặc biệt quan trọng của Nhà nước. Đặc điểm, tính chất của QTNN bị chi phối bởi bản chất, vai trò của nhà nước. Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực xã hội, cội nguồn của nó là quyền lực của nhân dân, là tổ chức đại diện chính thức cho nhân dân và toàn xã hội. Nhà nước là chủ thể thay mặt nhân dân quản trị xã hội, nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, duy trì sự tồn tại, phát triển của nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế – xã hội phát triển và phục vụ đắc lực người dân. QTNN có các đặc điểm, tính chất chủ yếu sau:
(1) Mục tiêu, mục đích của QTNN là duy trì trật tự công, phục vụ lợi ích công, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân(người dân). QTNN không vì mục tiêu lợi nhuận (phi lợi nhuận).
(2) QTNN là một dạng quản trị xã hội mang tính quyền lực, sử dựng quyền lực nhà nước để diều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của người dân, phù hợp với các quy luật khách quan và theo mục tiêu, ý chí của chủ thể QTNN. Thực chất, bản chất của QTNN là hoạt động mang tính chấp hành và điều hành của chính quyền hành pháp, hành chính nhà nước. Cụ thể, đó là quyền chấp hành, thực thi pháp luật và quyền quản trị tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, nhà nước, các lĩnh vực đối nội và đối ngoại của nhà nước.
(3) Chủ thể QTNN là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, trong đó cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền trực tiếp QTNN là cơ quan hành pháp, đứng đầu là chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các cấp.
(4) Đối tượng hay khách thể QTNN rộng lớn và phức tạp, gồm những người dân, cộng đồng dân cư và các tổ chức sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, các quá trình, quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của người dân, các lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế – xã hội và Nhà nước.
(5) QTNN bằng ý chí quyền lực và sức mạnh của Nhà nước thể hiện trong các công cụ đặc thù như: thể chế – pháp luật, chính sách của nhà nước và sử dụng các nguồn lực của nhà nước, bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn lực tài nguyên, thiên nhiên, nguồn lực kinh tế – tài chinh, nguồn lực khoa học – công nghệ và các nguồn lực khác.
(6) QTNN đối với bất kỳ quốc gia nào đều mang tính chính trị, phục vụ chính trị. Bởi vì nhà nước là tổ chức quyền lực mang tính chính trị, thể hiện ý chí của đảng chính trị, đảng cầm quyền. Ý chí đó được các cơ quan trong bộ máy quản trị nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật pháp, chính sách để đưa vào cuộc sống. QTNN mang tính chính trị, phục vụ chính trị, nhưng cũng có tính độc lập tương đối ở tính khoa học, tính chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, yếu tố bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cao của QTNN.
(7) QTNN mang tính dân chủ. QTNN ngày nay không phải là cai trị, không mang tính chất độc đoán chuyên quyền, mệnh lệnh hành chính đơn phương mà là quản trị một cách dân chủ theo tinh thần nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền của người dân tham gia vào QTNN, thông qua các hình thức dân chủ tập trung, dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, bằng các phương pháp, kỹ năng, kỹ thuật – công nghệ hiện đại, mở rộng và phát huy dân chủ, thu hút mạnh mẽ người dân và các tổ chức xã hội vào QTNN, vào việc tư vấn phản biện cho thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của QTNN, tạo ra đồng thuận cao trong xã hội; quản trị một cách công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình của các chủ thể QTNN trước người dân và công luận.
(8) QTNN mang tính định hướng, chủ động và sáng tạo thông qua hoạt động hoạch định, xây dựng, ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, phương pháp và các nguồn lực cụ thể.
(9) QTNN mang tính tổ chức trực tiếp của chủ thể QTNN trên mọi lĩnh vực, mọi ngành, mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội và nhà nước thông qua tổ chức bộ máy quản trị và nguồn nhân lực QTNN (đội ngũ công chức chuyên trách là QTNN).
(10) QTNN có tính chất tổng hợp, đa dạng, toàn diện. Quản trị tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội và nhà nước với quy mô rộng lớn trên toàn lãnh thổ đất nước.
(11) QTNN mang tính khoa học, tính chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật. Đặc tính này yêu cầu QTNN phải căn cứ, phải dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học nhất định, phải nắm bắt được các quy luật phát triển kinh tế – xã hội và sự tác động của chúng vào QTNN, để vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các quy luật đó nhằm nâng cao hiệu quả QTNN. Đây là đặc tính mang tính khách quan, nó loại trừ bảo thủ, trì trệ, chủ quan duy ý chí trong quản trị nà nước. Tính chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật yêu cầu thực hiện, giải quyết các chức năng, nhiệm vụ của QTNN đòi hỏi các chủ thể QTNN phải có kiến thức, kỹ năng và phương pháp, nghệ thuật quản trị nhất định. Nói cách khác đặc điểm, tính chất này yêu cầu QTNN phải dựa trên cơ sở và vận dụng sáng tạo các quy luật, các nguyên tắc, các phương pháp của các chuyên ngành khoa học: Quản trị, hành chính, tổ chức, pháp lý, chính sách công, tâm lý học, xã hội học và điều khiển học… Trong đó, khoa học quản trị hay quản trị học đóng vai trò chủ yếu và quyết định.
(12) QTNN có đặc điểm khác một cách căn bản với quản trị các tổ chức tư ở chỗ QTNN sử dụng các công cụ đặc thù như: quyền lực công, thể chế, chính sách công, các nguồn lực công. Các công cụ đặc thù này chỉ có chủ thể QTNN mới có. Ngoài ra, sự khác nhau ở chỗ mục đích của QTNN là phục vụ lợi ích công, lợi ích của người dân và toàn xã hội, còn quản trị các tổ chức tư sử dụng quyền lực tư, nguồn lực tư, phục vụ lợi ích của chủ thể quản trị tư. QTNN mang tính phi lợi nhuận, còn quản trị các tổ chức tư vì mục tiêu lợi nhuận. Sở dĩ QTNN, hoạt động QTNN mang tính phi lợi nhuận vì QTNN sử dụng các công cụ đặc thù như: quyền lực công – quyền lực nhà nước và tài chính công. Nhưng quyền lực công – quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, còn tài chính công lại chủ yếu do thuế và công sức của nhân dân đong góp mà có. Nên QTNN không thể chạy theo lợi nhuận.
Tài liệu tham khảo: 1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021. 2. Học viện Hành chính Quốc gia. Giáo trình Quản lý học đại cương. H. NXB Khoa học kỹ thuật, 2010. 3. Bộ Nội vụ. Giáo trình Quản lý công. H. NXB Bách khoa Hà Nội, 2015. 4. Nguyễn Hữu Tri. Quản trị học. H. NXB Khoa học xã hội, 2013. 5. Đoàn Thị Thu Hà – Nguyễn Thị Ngọc Huyền. Giáo trình Quản trị học. NXB Tài chính, 2013. 6. Harold Koontz, Cyril O”Donnell và Heinz Weihrich. Những vấn đề cốt yếu của Quản trị. H. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2004. 7. James H Donnelly, JR, James L.Gibson, John M.Ivancevich (người dịch Vũ Trọng Hùng). Quản trị học căn bản. NXB Thống kê, 2000. 8.Văn Tất Thu. Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công. Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 2/2018. 9. Văn Tất Thu. Quản trị – yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của trường Đại học. Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ, số 13/2021. 10. Văn Tất Thu. Năng lực cạnh tranh quốc gia và các thách thức cần vượt qua. Tạp chí Quản lý nhà nước, số 302 (tháng 3/2021).
PGS.TS. Văn Tất Thu Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ
Từ khóa » Tổ Chức Là Một Thực Thể Xã Hội Phức Tạp
-
Môn Tổ Chức Bộ Máy Nhà Nước - Prezi
-
Những Khái Niệm Cơ Bản Về Tổ Chức, Tổ Chức Chính Trị- Xã Hội
-
Tài Liệu CÂU HỎI ÔN TẬP QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ...
-
Tổ Chức Xã Hội – Wikipedia Tiếng Việt
-
Mrbig244_tlieu_HCHINH - Wattpad
-
Khái Niệm, Phân Loại Và Các đặc Trưng Cơ Bản Của Tổ Chức Từ Giác độ ...
-
Vai Trò Của Khoa Học Tổ Chức đối Với Tổ Chức Bộ Máy Nhà Nước ở Việt ...
-
Quyền Về Thực Thể Tự Nhiên Và Thực Thể Xã Hội Của Con Người
-
[DOC] QUẢN Lí VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
-
Thiết Chế Xã Hội Là Gì? Chức Năng, Vai Trò Của Thể Chế Xã Hội?
-
Về Hệ Thống Khái Niệm Cơ Bản Trong Nghiên Cứu Biến đổi Cơ Cấu Xã ...
-
HOẠT ĐỘNG VÀ NHÂN CÁCH - Health Việt Nam
-
[PDF] Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội: - Nguyên Tắc, Phương Pháp Và Thực Hành
-
Tìm Hiểu Về Chiến Lược, Hoạch định Chiến Lược - Ngân Hàng Nhà Nước
-
[PDF] BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN VÀ QUẢN TRỊ DỰ ÁN - Topica
-
Tinh Gọn Tổ Chức, Nâng Cao Chất Lượng, Hiệu Quả Hoạt động Của Hệ ...
-
Cơ Chế Tác động Của Nhà Nước đối Với Các Thực Thể Trong Nền Kinh ...
-
Đơn Vị Tổ Chức Nâng Cao | Microsoft Docs
-
[PDF] GT Học Phần Triết Học MLN (K) Tr 230-Tr274.pdf