KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Nghiên cứu trao đổi TÌNH HÌNH BAN HÀNH, THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI DÂN, DOANH NGHIỆP ỨNG PHÓ VỚI DỊCH COVID-19 CỦA VIỆT NAM – KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 01/12/2021 Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google TÌNH HÌNH BAN HÀNH, THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI DÂN, DOANH NGHIỆP ỨNG PHÓ VỚI DỊCH COVID-19 CỦA VIỆT NAM – KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT1. Tình hình dịch bệnh COVID-19 trên thế giới và tại Việt Nam 1.1. Trên thế giới, tính đến ngày 21/11/2021, đại dịch COVID-19 đã lây lan đến 223 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, với trên 257 triệu ca mắc và 4,9 triệu ca tử vong. Đến nay, Châu Mỹ là khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của dịch bệnh, tiếp theo là Châu Á và Châu Âu. Mỹ, Ấn Độ, Brazil là 3 quốc gia có số mắc và tử vong cao nhất. Sau gần 2 năm xuất hiện, dịch COVID-19 vẫn diễn biến hết sức phức tạp, khó lường trên phạm vi toàn cầu, với sự xuất hiện liên tục của các biến chủng mới. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện có 4 biến thể SARS-CoV-2 được xếp vào nhóm đáng lo ngại bao gồm: Alpha, Beta, Gama và Delta được phát hiện lần đầu tiên tại Anh, Nam Phi, Brazil và Ấn Độ. Trong đó, biến thể Delta được coi là nguy hiểm nhất, là chủng lây nhiễm chủ đạo trên toàn cầu, nhất là tại khu vực Châu Á và ngay cả tại các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng cao, biến chủng này lây lan nhanh, mạnh và tăng nặng, nhất là ở những người trẻ tuổi. Nhằm giải quyết những vấn đề do tác động của COVID-19, với tình trạng dịch bệnh kéo dài, một số nước đã phải đưa ra nhiều giải pháp thực hiện, trong đó có cả những giải pháp vừa áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế, kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh; vừa đảm bảo hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa phòng, chống dịch với phát triển các hoạt động trong nước (kinh nghiệm một số nước theo Phụ lục số 3, 4 và 5 kèm theo).  1.2. Tại Việt Nam, từ đầu năm 2020 đến nay, Việt Nam đã trải qua 4 đợt dịch. Quy mô, địa bàn và mức độ lây lan qua mỗi đợt đều có xu hướng phức tạp hơn. Đến ngày 18/11/2021, đã ghi nhận 1.065.469 ca mắc, trong đó riêng đợt dịch thứ 4 ghi nhận 858.000 ca mắc và 21.000 ca tử vong. Năm tỉnh, thành phố có số mắc cao là TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An, Đồng Nai, Bắc Giang... Đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục diễn biến rất phức tạp, lan rộng tại nhiều tỉnh, thành phố lớn, tập trung đông dân và có những cơ sở sản xuất quan trọng của cả nước, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất – kinh doanh và cuộc sống của người dân. Đã có nhiều biện pháp đưa ra nhằm vừa hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, vừa duy trì hoạt động sản xuất như giãn cách xã hội, ba tại chỗ, một cung đường hai điểm đến, bốn xanh... nhưng số ca nhiễm COVID-19 vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Dịch bệnh COVID-19 thời gian qua đã tác động lớn đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, bao gồm cả ngành nông nghiệp, khu vực ít chịu ảnh hưởng bởi các đợt bùng phát dịch bệnh trước đây. Chuỗi lưu thông hàng hóa, cung ứng sản xuất, tiêu dùng bị gián đoạn; nhập siêu gia tăng; giải ngân vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước chưa đạt yêu cầu; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục suy giảm; tình hình doanh nghiệp nhiều khó khăn. Lao động, việc làm và đời sống người dân, nhất lại tại các khu vực bị cách ly, phong tỏa, giãn cách xã hội chịu ảnh hưởng ngày càng nặng nề bởi dịch bệnh. Niềm tin của người dân, cộng đồng doanh nghiệp có dấu hiệu suy giảm. Nền kinh tế nước ta hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức để thúc đẩy tăng trưởng, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.2. Tình hình ban hành các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp ứng phó với đại dịch COVID-19 Cụ thể: Ngay từ khi xuất hiện đại dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng các cấp, các ngành đã ngay lập tức vào cuộc, triển khai nhiều biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt với phương châm chỉ đạo "chống dịch như chống giặc" nhằm kịp thời kiểm soát, khống chế đại dịch. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/3/2020, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện ngay 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, hướng tới các đối tượng là các doanh nghiệp, người lao động bị mất việc làm có hoàn cảnh khó khăn, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, đại dịch diễn biến phức tạp, khó lường trên phạm vi toàn thế giới, không chỉ gây ra cuộc khủng hoảng về y tế, xã hội mà còn khiến kinh tế thế giới suy giảm sâu rộng. Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ... đã đưa ra quan điểm chỉ đạo thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2020-2021, Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp với tổng thể các biện pháp, chủ yếu mang tính ngắn hạn, ứng phó với dịch bệnh, thảo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ người dân và các đối tượng gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. 2.1. Về nhóm chính sách phòng, chống dịch bệnh.          Thời gian qua, để ứng phó với dịch COVID-19, Chính phủ đã chủ động, linh hoạt áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 thông qua việc kịp thời trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành về một số nội dung khác luật hoặc luật chưa quy định hoặc vượt thẩm quyền theo Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 cho phép Chính phủ quyết định một số cơ chế đặc biệt, đặc thù, đặc cách để kịp thời áp dụng các biện pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu cấp bách phòng, chống dịch. Ngoài ra, Chính phủ, các Bộ, ngành đã chủ động, khẩn trương, kịp thời ban hành nhiều văn bản với các hình thức khác nhau như nghị quyết, chỉ thị, công điện, công văn... để đáp ứng yêu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch với mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tính mạng của Nhân dân lên trên hết. Đặc biệt, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 cho phép Chính phủ quyết định một số cơ chế đặc biệt, đặc thù, đặc cách để kịp thời áp dụng các biện pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu cấp bách phòng, chống dịch. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 268/NQ-UBTVQH15 ngày về việc cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết có một số nội dung khác với quy định của luật để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 03/2021/UBTVQH15 ngày 24/9/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Nghị quyết số 393/NQ-UBTVQH15 ngày 30/9/2021 về bổ sung dự phòng ngân sách trung ương từ nguồn cắt giảm, tiết kiệm chi của ngân sách trung ương năm 2021 để chi cho công tác phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày 19/10/2021 về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản về cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19, như: Nghị quyết số 37/NQ-CP ngày 29/3/2020 của Chính phủ về một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết 16/NQ-CP ngày 08/02/2021 của Chính phủ về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 08/6/2021 của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2021; Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV; Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” với mục tiêu bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, đưa cả nước chuyển sang trạng thái bình thường mới sớm nhất có thể, phấn đấu trong năm 2021; Nghị quyết 145/NQ-CP 19/11/2021 của Chính phủ về việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số chế độ, chính sách phòng, chống COVID-19… Chính phủ đang xây dựng Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 khác Luật, chưa được luật quy định như về thanh toán bảo hiểm y tế; việc chuyển đổi mục đích sử dụng các nguyên liệu làm thuốc đã được cấp phép nhập....Bên cạnh đó, Chính phủ đang xây dựng Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 khác Luật, chưa được luật quy định như về thanh toán bảo hiểm y tế; việc chuyển đổi mục đích sử dụng các nguyên liệu làm thuốc đã được cấp phép nhập.... 2.2. Về nhóm chính sách bảo đảm an sinh xã hội Các văn bản này đã đưa ra các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc giảm nghĩa vụ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; tăng cường khả năng tiếp cận nguồn tín dụng qua Ngân hàng Chính sách Xã hội để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất. Đáng chú ý, Nghị quyết số 68/NQ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP) đã đưa ra chính sách cứu trợ đối với nhiều đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 thông qua hình thức phát tiền trực tiếp cho người dân. So với gói hỗ trợ đợt 1 năm 2020 (theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ), các chính sách của Nghị quyết số 68/NQ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP) đã bao phủ được phạm vi người thụ hưởng chính sách rộng hơn, hưởng đến những người lao động bị ngừng việc, mất việc, giảm việc làm; những người phải điều trị nhiễm COVID-19 và bị cách ly y tế; trẻ em và người lao động nữ mang thai; người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật..33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021)Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 7/7/2021 về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số  quy định về thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng COVID-19. Về phía người lao động, đối tượng áp dụng là những người đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp (tại thời điểm 30/9/2021) hoặc đã tham gia và dừng trong thời điểm từ tháng 1/2020 đến 9/2021. Những lao động trên sẽ nhận được hỗ trợ bằng tiền với các mức từ 1,8 triệu đồng/người đến 3,3 triệu đồng/người tùy theo thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp. Ước tính gói hỗ trợ tiền mặt có trị giá 30.000 tỷ đồng. Về phía người sử dụng lao động, đối tượng là những người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp trước 1/10/2021, được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 1% xuống 0% quỹ tiền lương trong 12 tháng từ 10/2021 đến tháng 9/2022.Quyết định 28/2021/QĐ-TTgTrong bối cảnh giãn cách kéo dài, các doanh nghiệp ngưng trệ sản xuất, ảnh hưởng lớn đến việc làm, đời sống, thu nhập của người lao động, ngày 24/9/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban Nghị quyết số 03/2021/UBTVQH15 và Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 116/NQ-CP về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp và ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành  Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 296/NQ-UBTVQH15 ngày 7/9/2021 về việc bổ sung kinh phí mua bù gạo dự trữ quốc gia đã xuất cấp để viện trợ, cứu trợ và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch bệnh COVID-19. Theo đó, Nghị quyết đã cho phép sử dụng 2.199 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2021 để mua bù 172.889,47 tấn gạo dự trữ quốc gia đưa vào dự trữ quốc gia theo đề xuất của Chính phủ. Chính phủ ban hành Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 31/7/2021 về phương án hỗ trợ giảm tiền điện, giảm giá điện (đợt 4) cho các khách hàng cá nhân sử dụng điện cho mục đích sinh hoạt tại các địa phương tại thời điểm ngày 30/7/2021 đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg; các cơ sở cách ly y tế tập trung phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 có thu một phần chi phí của người cách ly. Chính phủ cũng yêu cầu các địa phương xem xét, thực hiện điều chỉnh giảm giá nước sạch sinh hoạt, tiển sử dụng nước sạch sinh hoạt hỗ trợ cho người dân và các đối tượng sử dụng nước sạch sinh hoạt bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Ngày 18/8/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1409/QĐ-TTg về việc xuất cấp 4.117.800 kg gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho 3 tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bình Phước để hỗ trợ cho 274.520 người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 thiếu lương thực và có nguy cơ thiếu đói. Ngày 20/8/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1415/QĐ-TTg (Quyết định 1415/QĐ-TTg) về việc xuất cấp 130.175.670 kg gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho 24 tỉnh, thành phố để hỗ trợ cho 8.678.378 người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 thiếu lương thực và có nguy cơ thiếu đói. Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng chủ động triển khai các giải pháp hỗ trợ trên địa bàn, sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ các nhóm yếu thế, người lao động. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành 2 gói hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng bởi COVID-19. Thành phố Hà Nội đã ban hành Nghị quyết quy định các chính sách đặc thù của thành phố đối với 10 nhóm đối tượng bị ảnh hưởng, gặp khó khăn do dịch bệnh COVID-19 chưa được quy định tại Nghị quyết số 68/NQ-CP, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg. Ngoài ra, UBND Thành phố Hà Nội cũng bổ sung 500 tỷ đồng ủy thác qua Ngân hàng chính sách xã hội Thành phố Hà Nội để người lao động và người sử dụng lao động được vay vốn phục hồi kinh tế sau thời gian giãn cách xã hội…  2.3. Về nhóm chính sách hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh Ngày 01/01/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, với quan điểm chỉ đạo điều hành theo hướng tiếp tục thực hiện "mục tiêu kép" hỗ trợ nhằm hồi phục và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái "bình thường mới". Chính phủ ban hành Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022 với quan điểm định hướng giữa việc phòng dịch với phát triển kinh tế - xã hội là "bảo đảm hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa phòng, chống dịch và sản xuất kinh doanh", "chống dịch để sản xuất và sản xuất để chống dịch"; Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/9/2021 của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19... Hiện nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh COVID-19. Về hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh, có thể kể đến một số chính sách nổi bật: (i) Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ với thời hạn đến ngày 31/12/2021. Sau 5 tháng kể từ khi ban hành Thông tư số 03/2021/TT-NHNN, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục ban hành Thông tư số 14/2021/TT-NHNN ngày 07/9/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN. Trong đó, sửa đổi các mốc giới hạn thời gian khoản nợ được cơ cấu lại, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ để phù hợp với diễn biến phức tạp của dịch bệnh đang diễn ra, như mở rộng phạm vi khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ phát sinh từ trước ngày 01/8/2021, kéo dài thời gian áp dụng đối với khoản nợ phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian từ ngày 23/01/2020 đến ngày 30/6/2022. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện giải ngân tái cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc cho người lao động. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 68/NQ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP), ngày 21/7/2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 10/2021/TT-NHNN quy định về tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội theo Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ với số tiền 7.500 tỷ đồng, lãi suất 0%, không có tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 04/2021/TT-NHNN ngày 05/4/2021 về cơ chế cho vay tái cấp vốn tháo gỡ khó khăn cho Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (VNA). Theo đó quy định việc tái cấp vốn cho TCTD sau khi TCTD cho VNA vay, tổng số tiền tái cấp vốn tối đa là 4.000 tỷ đồng, lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm, thời hạn tái cấp vốn tối đa bằng thời hạn cho vay của khoản cho vay VNA, khoản tái cấp vốn được gia hạn tự động 02 (hai) lần, tổng thời gian tái cấp vốn và gia hạn tái cấp vốn không vượt quá 03 năm. (ii) Trong lĩnh vực thuế, phí, lệ phí    Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021. Thực chất đây là Nghị định kéo dài đến hết năm 2021 đối với các quy định tại Nghị định sổ 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 của Chính phủ; Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 11/9/2021 Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 11/9/2021 về chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để tài trợ phục vụ phòng, chống dịch COVID-19; Quyết định số 27/2021/QĐ-TTg ngày 25/9/2021 quyết định về việc giảm tiền thuê đất của năm 2021 đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19…; các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch COVID-19vềLiên quan đến miễn giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, trong năm 2021, nhiều chính sách mới được tiếp tục ban hành, cụ thể: Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19; Nghị định số 92/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19; Nghị định số 44/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 về hướng dẫn thực hiện về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19. Đây là Nghị định hướng dẫn thực hiện một trong những nhiệm vụ, giải pháp đã nêu tại Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ (iii) Trong lĩnh vực dữ trữ Trước tình hình dịch bệnh Covid - 19 đang diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nguồn vật tư, thiết bị y tế dự trữ thường xuyên tại các cơ sở y tế không đủ đáp ứng; để chủ động trong công tác phòng, chống dịch bệnh cũng như chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, khẩn cấp về y tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn và các tình huống quốc phòng, an ninh xảy ra trong tương lai. Ủy ban Thường vụ của Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1024/2020/UBTVQH14 ngày 9/10/2020 về việc bổ sung danh mục hàng dự trữ quốc gia; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2021/NĐ-CP ngày 31/5/2021 quy định chi tiết Nghị quyết số 1024/2020/UBTVQH14 về việc bổ sung danh mục hàng dự trữ quốc gia. Nghị định là căn cứ pháp lý để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch Dự trữ quốc gia và thực hiện mua sắm vật tư, thiết bị y tế đưa vào dự trữ, đáp ứng nhu cầu đột xuất, cấp bách về trang thiết bị y tế để chăm sóc, cứu chữa sức khỏe cho người, góp phần giảm thiểu tác động của dịch bệnh COVID-19 đến nền kinh tế… 3. Khó khăn, vướng mắc và kiến nghị, đề xuất giải pháp 3.1. Khó khăn, vướng mắc Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đã triển khai vẫn còn một số vấn đề hạn chế, bất cập như: a) Trong thời gian đầu của đợt dịch thứ 4 với biến chủng Delta, công tác chỉ đạo điều hành ở các cấp có nơi, có lúc còn lúng túng, chưa thống nhất, bị động; chỉ đạo thực hiện một số biện pháp cụ thể có lúc nóng vội, thiếu nhất quán, chưa kịp thời điều chỉnh khi tình hình thay đổi; bộc lộ nhiều điểm yếu của hệ thống quản lý, năng lực quản lý các cấp. Công tác dự báo có lúc chưa sát với thực tiễn. Việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số biện pháp do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành còn chậm. Các quy định của pháp luật hiện hành chưa bao quát được hết các tình huống ứng phó với bùng phát của dịch bệnh; nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành; một số văn bản chưa sát thực tiễn, thiếu khả thi. Khi ban hành văn bản có phạm vi ảnh hưởng lớn đến nhiều đối tượng, một số nơi chưa làm tốt việc đánh giá tác động, công tác truyền thông nên khó thực hiện; một số quy định mâu thuẫn, thay đổi nhanh, gây bức xúc trong xã hội (như quy định về giấy đi đường, lưu thông hàng hóa, hàng hóa thiết yếu...). b) Qui mô hỗ trợ còn nhỏ: trong khi các quốc gia láng giềng có các gói hỗ trợ ở mức 4-5% GDP, các gói hỗ trợ của Việt Nam còn ở mức thấp. Các gói hỗ trợ năm 2020 và năm 2021 chỉ ở mức xấp xỉ 1% GDP của năm tương ứng. Đối tượng hỗ trợ rộng, thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, yêu cầu trong thời gian ngắn cần phải ban hành chính sách, nên quá trình đánh giá tác động và lấy ý kiến góp ý chưa đầy đủ, chưa sát với thực tiễn dẫn đến dự báo chưa chính xác phạm vi và mức độ tác động; nguồn lực hạn chế nên khi thiết kế cho mức hỗ trợ còn khá thấp; yêu cầu về trình tự thủ tục còn phức tạp, điều kiện được hỗ trợ khá chặt chẽ. c) Quá trình tổ chức thực hiện, do giãn cách, địa phương gặp khó khăn trong xác định đối tượng và thực hiện chi trả...đặc biệt là đối tượng lao động tự do do địa phương tự xác định. Quy trình thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg đã được rút ngắn tuy nhiên vẫn còn những rào cản tiếp cận chính sách. Các địa phương còn chưa chủ động trong kinh phí hỗ trợ; cơ chế phân bổ ngân sách giữa trung ương và địa phương đã cải thiện nhưng vẫn sẽ tạo gánh nặng cho địa phương trong quá trình thực hiện, đặc biệt đối với các tỉnh nghèo. d) Công tác an sinh xã hội nhiều nơi chưa được kịp thời bảo đảm, nhất là tại các địa phương thực hiện giãn cách xã hội và tăng cường giãn cách xã hội. Việc thực hiện một số chính sách còn hạn chế về hiệu quả, tỷ lệ giải ngân thấp do: (i) Giai đoạn đầu áp dụng, điều kiện, tiêu chuẩn còn quá cao, quy trình, thủ tục rườm rà, thiếu linh hoạt, thông tin, hướng dẫn chưa được cung cấp kịp thời dẫn đến doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hợp tác xã khó tiếp cận; chưa phù hợp nhu cầu của doanh nghiệp; (ii) Tình hình thực tế diễn biến của dịch bệnh phức tạp và kéo dài hơn so với dự báo. đ) Một số quy định về phí, giá được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm phá luật nên cần có thời gian để điều chỉnh giảm giá, phí hỗ trợ doanh nghiệp. Một số chính sách giảm thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế có tỷ lệ giải ngân thấp hơn dự kiến do nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch bệnh, phải tạm ngừng sản xuất, kinh doanh hoặc không có lợi nhuận để nộp thuế nên không được hưởng lợi từ các chính sách trên. Việc các doanh nghiệp tiếp cận các chính sách về giảm lãi suất và giãn thời gian khoản vay còn khó khăn, đặc biệt là đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã nông nghiệp không dễ dàng để có khả năng phục hồi sản xuất và xuất khẩu nhanh khi dịch bệnh được kiểm soát và suy giảm. Chính sách giảm lãi suất cho vay trực tiếp và gián tiếp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa không đạt hiệu quả như dự kiến do doanh nghiệp thận trọng cũng như không có nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh. Một số văn bản quy định chính sách hỗ trợ không quy định rõ đối tượng thụ hưởng là hợp tác xã, người lao động trong hợp tác xã, cho nên gây khó khăn cho việc triển khai. e) Nhiều khó khăn tích tụ đến nay đã vượt tầm của doanh nghiệp mà trở thành vấn đề của ngành, lĩnh vực. Các chính sách hiện nay chỉ mang tính ứng phó trước mắt, có thời hạn áp dụng hạn chế, tối đa đến tháng 6/2022, tuy nhiên sau thời điểm này, hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa thể phục hồi do tình hình dịch bệnh dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp. Các chính sách dài hạn, tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội đã có sự cân nhắc, bổ sung trên cơ sở đánh giá tình hình, diễn biến mới của dịch bệnh nhưng còn thiếu những chính sách tập trung cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể có quy mô lớn, có tính chất dài hạn theo hướng phục hồi hơn là giải cứu ngắn hạn. 3.2. Kiến nghị, đề xuất a) Thực hiện hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp; tạm khoanh các khoản nợ của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi COVID-19, hạn chế tối đa phá sản và tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi trong dịch và sau dịch. Khuyến khích phát triển mạnh các ngành nghề có triển vọng phát triển tốt trong bối cảnh đại dịch để cơ cấu lại nền kinh tế. Có các giải pháp hỗ trợ phù hợp với các nhóm doanh nghiệp khác nhau (theo ngành nghề, quy mô, v.v.). Đẩy nhanh tháo gỡ vướng mắc về thể chế, chính sách để triển khai thực hiện các dự án đầu tư, góp vốn của các doanh nghiệp, nhất là với các Tập đoàn, Tổng công ty; tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong đó, tập trung rà soát, sửa đổi: Luật Đất đai, Luật Quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Phá sản doanh nghiệp. Thực hiện các chính sách hỗ trợ thực chất về tài chính và tín dụng cho doanh nghiệp sản xuất và các chuỗi cung ứng liên quan theo hướng nới lỏng quy định về thuế, phí liên quan; tăng thời gian ân hạn, đáo hạn, giãn, hoãn, khoanh nợ, giảm tỉ lệ lãi suất, hỗ trợ bù lãi suất, tăng hạn mức tín dụng cần thiết, giãn, giảm nộp phí bảo hiểm, v.v. để cải thiện dòng tiền và ổn định tình hình tài chính doanh nghiệp. b) Kiên trì, quyết liệt tháo bỏ các rào cản môi trường đầu tư kinh doanh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển. Thực hiện nghiêm các quy định về ban hành điều kiện kinh doanh gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành quản lý chuyên ngành, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, có lộ trình phù hợp, loại bỏ các giấy phép con bất hợp lý, tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp. Đơn giản hóa khâu tiền kiểm, chuyển mạnh sang hậu kiểm gắn với quản trị rủi ro, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân trong kiểm tra chuyên ngành. Các bộ, cơ quan quản lý chuyên ngành khẩn trương xây dựng Danh mục sản phẩm, hàng hóa chuyển từ kiểm tra tiền kiểm sang hậu kiểm giai đoạn 2022-2025, áp dụng từ năm 2022. c) Quán triệt chủ trương tạo thuận lợi cho vận chuyến hàng hóa trong tình hình dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Chuẩn hóa, thống nhất quy định từ Trung ương tới địa phương trong lĩnh vực logistic, vận tải lưu thông hàng hóa giữa các tỉnh. Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng mọi văn bản của địa phương trái với các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và các Bộ, ngành thì đều bị vô hiệu. Các địa phương phải rà soát các văn bản đã ban hành, đảm bảo không đặt ra bất kỳ điều kiện nào của riêng mình làm cản trở lưu thông vật tư, hàng hóa, nguyên liệu sản xuất và các hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Tuân thủ và thực hiện thống nhất, xuyên suốt theo đúng các chỉ đạo của Chính phủ. Rà soát, mở rộng tiến tới xóa bỏ khái niệm hàng hóa thiết yếu phục vụ chống dịch khi dịch diễn ra trong thời gian dài, trên phạm vi rộng. d) Phát triển thương mại điện tử trở thành hình thức thương mại chủ đạo. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối hàng hóa. Có chính sách nhất quán, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giao hàng (shipper) cho hoạt động mua bán lẻ trực tuyến. đ) Thực hiện quyết liệt chính sách xã hội hoá công tác phòng, chống dịch COVID-19 theo hướng khuyến khích và có cơ chế ưu tiên phù hợp cho doanh nghiệp tự chịu chi phí liên quan đến cách ly, xét nghiệm và tiêm vaccine cho người lao động và được hạch toán vào chi phí hợp lý, hợp lệ. Doanh nghiệp chủ động quản lý an toàn dịch bệnh cho người lao động phù hợp với quy định chung, thực hiện xác nhận cung đường và địa điểm cho người lao động và cam kết chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp để xảy ra việc lây lan dịch bệnh. Thống nhất mã số theo dõi quá trình phòng, chống dịch COVID-19 của từng người lao động; ứng dụng các giải pháp công nghệ thông tin thống nhất, đồng bộ để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi lại có kiểm soát, an toàn. e) Xây dựng khung đánh giá, phân loại, quy định đối với các nhà máy, cơ sở sản xuất, dịch vụ và các chuỗi cung ứng liên quan về bảo đảm an toàn, phòng, chống dịch COVID-19 theo các cấp độ nhằm áp dụng cơ chế cho phép sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hoá, dịch vụ linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế. Trên cơ sở Bộ tiêu chí chung vẽ sản xuất, lưu thông hàng hoa thời kỳ dịch bệnh, khuyến khích các địa phương, doanh nghiệp đề xuất các mô hình thí điểm phù hợp với chiến lược sống chung với COVID-19 và tình hình thực tiễn. g) Đối các ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh như ngành vận tải hàng không, du lịch, lưu trú, ăn uống, v.v... cần có các cơ chế, chính sách riêng để hạn chế tình trạng phá sản doanh nghiệp. Sớm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong triển khai Kết luận của Bộ Chính trị về việc hỗ trợ đối với một số doanh nghiệp Nhà nước chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19./.  

1. Tình hình dịch bệnh COVID-19 trên thế giới và tại Việt Nam 1.1. Trên thế giới, tính đến ngày 21/11/2021, đại dịch COVID-19 đã lây lan đến 223 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, với trên 257 triệu ca mắc và 4,9 triệu ca tử vong. Đến nay, Châu Mỹ là khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của dịch bệnh, tiếp theo là Châu Á và Châu Âu. Mỹ, Ấn Độ, Brazil là 3 quốc gia có số mắc và tử vong cao nhất. Sau gần 2 năm xuất hiện, dịch COVID-19 vẫn diễn biến hết sức phức tạp, khó lường trên phạm vi toàn cầu, với sự xuất hiện liên tục của các biến chủng mới. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện có 4 biến thể SARS-CoV-2 được xếp vào nhóm đáng lo ngại bao gồm: Alpha, Beta, Gama và Delta được phát hiện lần đầu tiên tại Anh, Nam Phi, Brazil và Ấn Độ. Trong đó, biến thể Delta được coi là nguy hiểm nhất, là chủng lây nhiễm chủ đạo trên toàn cầu, nhất là tại khu vực Châu Á và ngay cả tại các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng cao, biến chủng này lây lan nhanh, mạnh và tăng nặng, nhất là ở những người trẻ tuổi. Nhằm giải quyết những vấn đề do tác động của COVID-19, với tình trạng dịch bệnh kéo dài, một số nước đã phải đưa ra nhiều giải pháp thực hiện, trong đó có cả những giải pháp vừa áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế, kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh; vừa đảm bảo hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa phòng, chống dịch với phát triển các hoạt động trong nước (kinh nghiệm một số nước theo Phụ lục số 3, 4 và 5 kèm theo).  1.2. Tại Việt Nam, từ đầu năm 2020 đến nay, Việt Nam đã trải qua 4 đợt dịch. Quy mô, địa bàn và mức độ lây lan qua mỗi đợt đều có xu hướng phức tạp hơn. Đến ngày 18/11/2021, đã ghi nhận 1.065.469 ca mắc, trong đó riêng đợt dịch thứ 4 ghi nhận 858.000 ca mắc và 21.000 ca tử vong. Năm tỉnh, thành phố có số mắc cao là TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An, Đồng Nai, Bắc Giang... Đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục diễn biến rất phức tạp, lan rộng tại nhiều tỉnh, thành phố lớn, tập trung đông dân và có những cơ sở sản xuất quan trọng của cả nước, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất – kinh doanh và cuộc sống của người dân. Đã có nhiều biện pháp đưa ra nhằm vừa hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, vừa duy trì hoạt động sản xuất như giãn cách xã hội, ba tại chỗ, một cung đường hai điểm đến, bốn xanh... nhưng số ca nhiễm COVID-19 vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Dịch bệnh COVID-19 thời gian qua đã tác động lớn đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, bao gồm cả ngành nông nghiệp, khu vực ít chịu ảnh hưởng bởi các đợt bùng phát dịch bệnh trước đây. Chuỗi lưu thông hàng hóa, cung ứng sản xuất, tiêu dùng bị gián đoạn; nhập siêu gia tăng; giải ngân vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước chưa đạt yêu cầu; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục suy giảm; tình hình doanh nghiệp nhiều khó khăn. Lao động, việc làm và đời sống người dân, nhất lại tại các khu vực bị cách ly, phong tỏa, giãn cách xã hội chịu ảnh hưởng ngày càng nặng nề bởi dịch bệnh. Niềm tin của người dân, cộng đồng doanh nghiệp có dấu hiệu suy giảm. Nền kinh tế nước ta hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức để thúc đẩy tăng trưởng, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.2. Tình hình ban hành các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp ứng phó với đại dịch COVID-19 Cụ thể: Ngay từ khi xuất hiện đại dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng các cấp, các ngành đã ngay lập tức vào cuộc, triển khai nhiều biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt với phương châm chỉ đạo "chống dịch như chống giặc" nhằm kịp thời kiểm soát, khống chế đại dịch. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/3/2020, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện ngay 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, hướng tới các đối tượng là các doanh nghiệp, người lao động bị mất việc làm có hoàn cảnh khó khăn, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, đại dịch diễn biến phức tạp, khó lường trên phạm vi toàn thế giới, không chỉ gây ra cuộc khủng hoảng về y tế, xã hội mà còn khiến kinh tế thế giới suy giảm sâu rộng. Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ... đã đưa ra quan điểm chỉ đạo thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2020-2021, Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp với tổng thể các biện pháp, chủ yếu mang tính ngắn hạn, ứng phó với dịch bệnh, thảo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ người dân và các đối tượng gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. 2.1. Về nhóm chính sách phòng, chống dịch bệnh.          Thời gian qua, để ứng phó với dịch COVID-19, Chính phủ đã chủ động, linh hoạt áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 thông qua việc kịp thời trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành về một số nội dung khác luật hoặc luật chưa quy định hoặc vượt thẩm quyền theo Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 cho phép Chính phủ quyết định một số cơ chế đặc biệt, đặc thù, đặc cách để kịp thời áp dụng các biện pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu cấp bách phòng, chống dịch. Ngoài ra, Chính phủ, các Bộ, ngành đã chủ động, khẩn trương, kịp thời ban hành nhiều văn bản với các hình thức khác nhau như nghị quyết, chỉ thị, công điện, công văn... để đáp ứng yêu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch với mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tính mạng của Nhân dân lên trên hết. Đặc biệt, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 cho phép Chính phủ quyết định một số cơ chế đặc biệt, đặc thù, đặc cách để kịp thời áp dụng các biện pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu cấp bách phòng, chống dịch. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 268/NQ-UBTVQH15 ngày về việc cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết có một số nội dung khác với quy định của luật để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 03/2021/UBTVQH15 ngày 24/9/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Nghị quyết số 393/NQ-UBTVQH15 ngày 30/9/2021 về bổ sung dự phòng ngân sách trung ương từ nguồn cắt giảm, tiết kiệm chi của ngân sách trung ương năm 2021 để chi cho công tác phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày 19/10/2021 về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản về cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19, như: Nghị quyết số 37/NQ-CP ngày 29/3/2020 của Chính phủ về một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết 16/NQ-CP ngày 08/02/2021 của Chính phủ về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 08/6/2021 của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2021; Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV; Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” với mục tiêu bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, đưa cả nước chuyển sang trạng thái bình thường mới sớm nhất có thể, phấn đấu trong năm 2021; Nghị quyết 145/NQ-CP 19/11/2021 của Chính phủ về việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số chế độ, chính sách phòng, chống COVID-19… Chính phủ đang xây dựng Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 khác Luật, chưa được luật quy định như về thanh toán bảo hiểm y tế; việc chuyển đổi mục đích sử dụng các nguyên liệu làm thuốc đã được cấp phép nhập....Bên cạnh đó, Chính phủ đang xây dựng Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch COVID-19 khác Luật, chưa được luật quy định như về thanh toán bảo hiểm y tế; việc chuyển đổi mục đích sử dụng các nguyên liệu làm thuốc đã được cấp phép nhập.... 2.2. Về nhóm chính sách bảo đảm an sinh xã hội Các văn bản này đã đưa ra các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc giảm nghĩa vụ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; tăng cường khả năng tiếp cận nguồn tín dụng qua Ngân hàng Chính sách Xã hội để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất. Đáng chú ý, Nghị quyết số 68/NQ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP) đã đưa ra chính sách cứu trợ đối với nhiều đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 thông qua hình thức phát tiền trực tiếp cho người dân. So với gói hỗ trợ đợt 1 năm 2020 (theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ), các chính sách của Nghị quyết số 68/NQ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP) đã bao phủ được phạm vi người thụ hưởng chính sách rộng hơn, hưởng đến những người lao động bị ngừng việc, mất việc, giảm việc làm; những người phải điều trị nhiễm COVID-19 và bị cách ly y tế; trẻ em và người lao động nữ mang thai; người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật..33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021)Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 7/7/2021 về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số  quy định về thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng COVID-19. Về phía người lao động, đối tượng áp dụng là những người đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp (tại thời điểm 30/9/2021) hoặc đã tham gia và dừng trong thời điểm từ tháng 1/2020 đến 9/2021. Những lao động trên sẽ nhận được hỗ trợ bằng tiền với các mức từ 1,8 triệu đồng/người đến 3,3 triệu đồng/người tùy theo thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp. Ước tính gói hỗ trợ tiền mặt có trị giá 30.000 tỷ đồng. Về phía người sử dụng lao động, đối tượng là những người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp trước 1/10/2021, được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 1% xuống 0% quỹ tiền lương trong 12 tháng từ 10/2021 đến tháng 9/2022.Quyết định 28/2021/QĐ-TTgTrong bối cảnh giãn cách kéo dài, các doanh nghiệp ngưng trệ sản xuất, ảnh hưởng lớn đến việc làm, đời sống, thu nhập của người lao động, ngày 24/9/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban Nghị quyết số 03/2021/UBTVQH15 và Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 116/NQ-CP về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp và ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành  Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 296/NQ-UBTVQH15 ngày 7/9/2021 về việc bổ sung kinh phí mua bù gạo dự trữ quốc gia đã xuất cấp để viện trợ, cứu trợ và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch bệnh COVID-19. Theo đó, Nghị quyết đã cho phép sử dụng 2.199 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2021 để mua bù 172.889,47 tấn gạo dự trữ quốc gia đưa vào dự trữ quốc gia theo đề xuất của Chính phủ. Chính phủ ban hành Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 31/7/2021 về phương án hỗ trợ giảm tiền điện, giảm giá điện (đợt 4) cho các khách hàng cá nhân sử dụng điện cho mục đích sinh hoạt tại các địa phương tại thời điểm ngày 30/7/2021 đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg; các cơ sở cách ly y tế tập trung phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 có thu một phần chi phí của người cách ly. Chính phủ cũng yêu cầu các địa phương xem xét, thực hiện điều chỉnh giảm giá nước sạch sinh hoạt, tiển sử dụng nước sạch sinh hoạt hỗ trợ cho người dân và các đối tượng sử dụng nước sạch sinh hoạt bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Ngày 18/8/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1409/QĐ-TTg về việc xuất cấp 4.117.800 kg gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho 3 tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bình Phước để hỗ trợ cho 274.520 người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 thiếu lương thực và có nguy cơ thiếu đói. Ngày 20/8/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1415/QĐ-TTg (Quyết định 1415/QĐ-TTg) về việc xuất cấp 130.175.670 kg gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho 24 tỉnh, thành phố để hỗ trợ cho 8.678.378 người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 thiếu lương thực và có nguy cơ thiếu đói. Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng chủ động triển khai các giải pháp hỗ trợ trên địa bàn, sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ các nhóm yếu thế, người lao động. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành 2 gói hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng bởi COVID-19. Thành phố Hà Nội đã ban hành Nghị quyết quy định các chính sách đặc thù của thành phố đối với 10 nhóm đối tượng bị ảnh hưởng, gặp khó khăn do dịch bệnh COVID-19 chưa được quy định tại Nghị quyết số 68/NQ-CP, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg. Ngoài ra, UBND Thành phố Hà Nội cũng bổ sung 500 tỷ đồng ủy thác qua Ngân hàng chính sách xã hội Thành phố Hà Nội để người lao động và người sử dụng lao động được vay vốn phục hồi kinh tế sau thời gian giãn cách xã hội…  2.3. Về nhóm chính sách hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh Ngày 01/01/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, với quan điểm chỉ đạo điều hành theo hướng tiếp tục thực hiện "mục tiêu kép" hỗ trợ nhằm hồi phục và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái "bình thường mới". Chính phủ ban hành Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022 với quan điểm định hướng giữa việc phòng dịch với phát triển kinh tế - xã hội là "bảo đảm hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa phòng, chống dịch và sản xuất kinh doanh", "chống dịch để sản xuất và sản xuất để chống dịch"; Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/9/2021 của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19... Hiện nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh COVID-19. Về hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh, có thể kể đến một số chính sách nổi bật: (i) Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ với thời hạn đến ngày 31/12/2021. Sau 5 tháng kể từ khi ban hành Thông tư số 03/2021/TT-NHNN, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục ban hành Thông tư số 14/2021/TT-NHNN ngày 07/9/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN. Trong đó, sửa đổi các mốc giới hạn thời gian khoản nợ được cơ cấu lại, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ để phù hợp với diễn biến phức tạp của dịch bệnh đang diễn ra, như mở rộng phạm vi khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ phát sinh từ trước ngày 01/8/2021, kéo dài thời gian áp dụng đối với khoản nợ phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian từ ngày 23/01/2020 đến ngày 30/6/2022. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 và Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện giải ngân tái cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc cho người lao động. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 68/NQ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 126/NQ-CP), ngày 21/7/2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 10/2021/TT-NHNN quy định về tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội theo Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ với số tiền 7.500 tỷ đồng, lãi suất 0%, không có tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 04/2021/TT-NHNN ngày 05/4/2021 về cơ chế cho vay tái cấp vốn tháo gỡ khó khăn cho Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (VNA). Theo đó quy định việc tái cấp vốn cho TCTD sau khi TCTD cho VNA vay, tổng số tiền tái cấp vốn tối đa là 4.000 tỷ đồng, lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm, thời hạn tái cấp vốn tối đa bằng thời hạn cho vay của khoản cho vay VNA, khoản tái cấp vốn được gia hạn tự động 02 (hai) lần, tổng thời gian tái cấp vốn và gia hạn tái cấp vốn không vượt quá 03 năm. (ii) Trong lĩnh vực thuế, phí, lệ phí    Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021. Thực chất đây là Nghị định kéo dài đến hết năm 2021 đối với các quy định tại Nghị định sổ 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 của Chính phủ; Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 11/9/2021 Nghị quyết số 106/NQ-CP ngày 11/9/2021 về chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để tài trợ phục vụ phòng, chống dịch COVID-19; Quyết định số 27/2021/QĐ-TTg ngày 25/9/2021 quyết định về việc giảm tiền thuê đất của năm 2021 đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19…; các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch COVID-19vềLiên quan đến miễn giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, trong năm 2021, nhiều chính sách mới được tiếp tục ban hành, cụ thể: Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19; Nghị định số 92/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19; Nghị định số 44/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 về hướng dẫn thực hiện về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19. Đây là Nghị định hướng dẫn thực hiện một trong những nhiệm vụ, giải pháp đã nêu tại Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ (iii) Trong lĩnh vực dữ trữ Trước tình hình dịch bệnh Covid - 19 đang diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nguồn vật tư, thiết bị y tế dự trữ thường xuyên tại các cơ sở y tế không đủ đáp ứng; để chủ động trong công tác phòng, chống dịch bệnh cũng như chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, khẩn cấp về y tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn và các tình huống quốc phòng, an ninh xảy ra trong tương lai. Ủy ban Thường vụ của Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1024/2020/UBTVQH14 ngày 9/10/2020 về việc bổ sung danh mục hàng dự trữ quốc gia; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2021/NĐ-CP ngày 31/5/2021 quy định chi tiết Nghị quyết số 1024/2020/UBTVQH14 về việc bổ sung danh mục hàng dự trữ quốc gia. Nghị định là căn cứ pháp lý để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch Dự trữ quốc gia và thực hiện mua sắm vật tư, thiết bị y tế đưa vào dự trữ, đáp ứng nhu cầu đột xuất, cấp bách về trang thiết bị y tế để chăm sóc, cứu chữa sức khỏe cho người, góp phần giảm thiểu tác động của dịch bệnh COVID-19 đến nền kinh tế… 3. Khó khăn, vướng mắc và kiến nghị, đề xuất giải pháp 3.1. Khó khăn, vướng mắc Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đã triển khai vẫn còn một số vấn đề hạn chế, bất cập như: a) Trong thời gian đầu của đợt dịch thứ 4 với biến chủng Delta, công tác chỉ đạo điều hành ở các cấp có nơi, có lúc còn lúng túng, chưa thống nhất, bị động; chỉ đạo thực hiện một số biện pháp cụ thể có lúc nóng vội, thiếu nhất quán, chưa kịp thời điều chỉnh khi tình hình thay đổi; bộc lộ nhiều điểm yếu của hệ thống quản lý, năng lực quản lý các cấp. Công tác dự báo có lúc chưa sát với thực tiễn. Việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số biện pháp do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành còn chậm. Các quy định của pháp luật hiện hành chưa bao quát được hết các tình huống ứng phó với bùng phát của dịch bệnh; nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành; một số văn bản chưa sát thực tiễn, thiếu khả thi. Khi ban hành văn bản có phạm vi ảnh hưởng lớn đến nhiều đối tượng, một số nơi chưa làm tốt việc đánh giá tác động, công tác truyền thông nên khó thực hiện; một số quy định mâu thuẫn, thay đổi nhanh, gây bức xúc trong xã hội (như quy định về giấy đi đường, lưu thông hàng hóa, hàng hóa thiết yếu...). b) Qui mô hỗ trợ còn nhỏ: trong khi các quốc gia láng giềng có các gói hỗ trợ ở mức 4-5% GDP, các gói hỗ trợ của Việt Nam còn ở mức thấp. Các gói hỗ trợ năm 2020 và năm 2021 chỉ ở mức xấp xỉ 1% GDP của năm tương ứng. Đối tượng hỗ trợ rộng, thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, yêu cầu trong thời gian ngắn cần phải ban hành chính sách, nên quá trình đánh giá tác động và lấy ý kiến góp ý chưa đầy đủ, chưa sát với thực tiễn dẫn đến dự báo chưa chính xác phạm vi và mức độ tác động; nguồn lực hạn chế nên khi thiết kế cho mức hỗ trợ còn khá thấp; yêu cầu về trình tự thủ tục còn phức tạp, điều kiện được hỗ trợ khá chặt chẽ. c) Quá trình tổ chức thực hiện, do giãn cách, địa phương gặp khó khăn trong xác định đối tượng và thực hiện chi trả...đặc biệt là đối tượng lao động tự do do địa phương tự xác định. Quy trình thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg đã được rút ngắn tuy nhiên vẫn còn những rào cản tiếp cận chính sách. Các địa phương còn chưa chủ động trong kinh phí hỗ trợ; cơ chế phân bổ ngân sách giữa trung ương và địa phương đã cải thiện nhưng vẫn sẽ tạo gánh nặng cho địa phương trong quá trình thực hiện, đặc biệt đối với các tỉnh nghèo. d) Công tác an sinh xã hội nhiều nơi chưa được kịp thời bảo đảm, nhất là tại các địa phương thực hiện giãn cách xã hội và tăng cường giãn cách xã hội. Việc thực hiện một số chính sách còn hạn chế về hiệu quả, tỷ lệ giải ngân thấp do: (i) Giai đoạn đầu áp dụng, điều kiện, tiêu chuẩn còn quá cao, quy trình, thủ tục rườm rà, thiếu linh hoạt, thông tin, hướng dẫn chưa được cung cấp kịp thời dẫn đến doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hợp tác xã khó tiếp cận; chưa phù hợp nhu cầu của doanh nghiệp; (ii) Tình hình thực tế diễn biến của dịch bệnh phức tạp và kéo dài hơn so với dự báo. đ) Một số quy định về phí, giá được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm phá luật nên cần có thời gian để điều chỉnh giảm giá, phí hỗ trợ doanh nghiệp. Một số chính sách giảm thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế có tỷ lệ giải ngân thấp hơn dự kiến do nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch bệnh, phải tạm ngừng sản xuất, kinh doanh hoặc không có lợi nhuận để nộp thuế nên không được hưởng lợi từ các chính sách trên. Việc các doanh nghiệp tiếp cận các chính sách về giảm lãi suất và giãn thời gian khoản vay còn khó khăn, đặc biệt là đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã nông nghiệp không dễ dàng để có khả năng phục hồi sản xuất và xuất khẩu nhanh khi dịch bệnh được kiểm soát và suy giảm. Chính sách giảm lãi suất cho vay trực tiếp và gián tiếp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa không đạt hiệu quả như dự kiến do doanh nghiệp thận trọng cũng như không có nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh. Một số văn bản quy định chính sách hỗ trợ không quy định rõ đối tượng thụ hưởng là hợp tác xã, người lao động trong hợp tác xã, cho nên gây khó khăn cho việc triển khai. e) Nhiều khó khăn tích tụ đến nay đã vượt tầm của doanh nghiệp mà trở thành vấn đề của ngành, lĩnh vực. Các chính sách hiện nay chỉ mang tính ứng phó trước mắt, có thời hạn áp dụng hạn chế, tối đa đến tháng 6/2022, tuy nhiên sau thời điểm này, hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa thể phục hồi do tình hình dịch bệnh dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp. Các chính sách dài hạn, tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội đã có sự cân nhắc, bổ sung trên cơ sở đánh giá tình hình, diễn biến mới của dịch bệnh nhưng còn thiếu những chính sách tập trung cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể có quy mô lớn, có tính chất dài hạn theo hướng phục hồi hơn là giải cứu ngắn hạn. 3.2. Kiến nghị, đề xuất a) Thực hiện hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp; tạm khoanh các khoản nợ của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi COVID-19, hạn chế tối đa phá sản và tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi trong dịch và sau dịch. Khuyến khích phát triển mạnh các ngành nghề có triển vọng phát triển tốt trong bối cảnh đại dịch để cơ cấu lại nền kinh tế. Có các giải pháp hỗ trợ phù hợp với các nhóm doanh nghiệp khác nhau (theo ngành nghề, quy mô, v.v.). Đẩy nhanh tháo gỡ vướng mắc về thể chế, chính sách để triển khai thực hiện các dự án đầu tư, góp vốn của các doanh nghiệp, nhất là với các Tập đoàn, Tổng công ty; tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong đó, tập trung rà soát, sửa đổi: Luật Đất đai, Luật Quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Phá sản doanh nghiệp. Thực hiện các chính sách hỗ trợ thực chất về tài chính và tín dụng cho doanh nghiệp sản xuất và các chuỗi cung ứng liên quan theo hướng nới lỏng quy định về thuế, phí liên quan; tăng thời gian ân hạn, đáo hạn, giãn, hoãn, khoanh nợ, giảm tỉ lệ lãi suất, hỗ trợ bù lãi suất, tăng hạn mức tín dụng cần thiết, giãn, giảm nộp phí bảo hiểm, v.v. để cải thiện dòng tiền và ổn định tình hình tài chính doanh nghiệp. b) Kiên trì, quyết liệt tháo bỏ các rào cản môi trường đầu tư kinh doanh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển. Thực hiện nghiêm các quy định về ban hành điều kiện kinh doanh gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành quản lý chuyên ngành, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, có lộ trình phù hợp, loại bỏ các giấy phép con bất hợp lý, tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp. Đơn giản hóa khâu tiền kiểm, chuyển mạnh sang hậu kiểm gắn với quản trị rủi ro, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân trong kiểm tra chuyên ngành. Các bộ, cơ quan quản lý chuyên ngành khẩn trương xây dựng Danh mục sản phẩm, hàng hóa chuyển từ kiểm tra tiền kiểm sang hậu kiểm giai đoạn 2022-2025, áp dụng từ năm 2022. c) Quán triệt chủ trương tạo thuận lợi cho vận chuyến hàng hóa trong tình hình dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Chuẩn hóa, thống nhất quy định từ Trung ương tới địa phương trong lĩnh vực logistic, vận tải lưu thông hàng hóa giữa các tỉnh. Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng mọi văn bản của địa phương trái với các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và các Bộ, ngành thì đều bị vô hiệu. Các địa phương phải rà soát các văn bản đã ban hành, đảm bảo không đặt ra bất kỳ điều kiện nào của riêng mình làm cản trở lưu thông vật tư, hàng hóa, nguyên liệu sản xuất và các hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Tuân thủ và thực hiện thống nhất, xuyên suốt theo đúng các chỉ đạo của Chính phủ. Rà soát, mở rộng tiến tới xóa bỏ khái niệm hàng hóa thiết yếu phục vụ chống dịch khi dịch diễn ra trong thời gian dài, trên phạm vi rộng. d) Phát triển thương mại điện tử trở thành hình thức thương mại chủ đạo. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối hàng hóa. Có chính sách nhất quán, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giao hàng (shipper) cho hoạt động mua bán lẻ trực tuyến. đ) Thực hiện quyết liệt chính sách xã hội hoá công tác phòng, chống dịch COVID-19 theo hướng khuyến khích và có cơ chế ưu tiên phù hợp cho doanh nghiệp tự chịu chi phí liên quan đến cách ly, xét nghiệm và tiêm vaccine cho người lao động và được hạch toán vào chi phí hợp lý, hợp lệ. Doanh nghiệp chủ động quản lý an toàn dịch bệnh cho người lao động phù hợp với quy định chung, thực hiện xác nhận cung đường và địa điểm cho người lao động và cam kết chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp để xảy ra việc lây lan dịch bệnh. Thống nhất mã số theo dõi quá trình phòng, chống dịch COVID-19 của từng người lao động; ứng dụng các giải pháp công nghệ thông tin thống nhất, đồng bộ để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi lại có kiểm soát, an toàn. e) Xây dựng khung đánh giá, phân loại, quy định đối với các nhà máy, cơ sở sản xuất, dịch vụ và các chuỗi cung ứng liên quan về bảo đảm an toàn, phòng, chống dịch COVID-19 theo các cấp độ nhằm áp dụng cơ chế cho phép sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hoá, dịch vụ linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế. Trên cơ sở Bộ tiêu chí chung vẽ sản xuất, lưu thông hàng hoa thời kỳ dịch bệnh, khuyến khích các địa phương, doanh nghiệp đề xuất các mô hình thí điểm phù hợp với chiến lược sống chung với COVID-19 và tình hình thực tiễn. g) Đối các ngành bị ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh như ngành vận tải hàng không, du lịch, lưu trú, ăn uống, v.v... cần có các cơ chế, chính sách riêng để hạn chế tình trạng phá sản doanh nghiệp. Sớm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong triển khai Kết luận của Bộ Chính trị về việc hỗ trợ đối với một số doanh nghiệp Nhà nước chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19./.  

Tin tức liên quan

  • Đề nghị và chấp nhận đề nghị sửa đổi hợp đồng (21/12/2023 )
  • Giá trị pháp lý của giấy tờ được lập khi thực hiện hợp đồng (21/12/2023 )
  • Trường hợp thư từ do nhân viên gửi ràng buộc doanh nghiệp (21/12/2023 )
  • Trường hợp thư từ do nhân viên gửi không ràng buộc doanh nghiệp (21/12/2023 )
  • Bù trừ nghĩa vụ giữa các bên (21/12/2023 )
  • Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin (21/12/2023 )
Xem thêm » Alternate Text

Thông báo

  • Giấy mời số 120/GM-BTP ngày 10/4/2024
  • Giấy mời số 188/Gm-BTP ngày 07/5/2024
Alternate Text

Liên kết website

Liên kết website Kênh Youtube của Chương trình 585 Đề nghị cung cấp khó khăn, vướng mắc pháp lý trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chuẩn bị cho Diễn đàn: "Kinh doanh và Pháp luật" năm 2022

Từ khóa » Gặp Khó Khăn Trong Mùa Dịch Covid