Khúc Bi Tráng ở Pháo đài Đồng Đăng

Những dấu tích của lô cốt dẫn vào pháo đài bị địch đặt thuốc nổ giật sập - Ảnh: Ngọc Quang

Đến bây giờ pháo đài vẫn nằm đó, bên đường lên thị trấn Đồng Đăng.

Dẫn đường đưa chúng tôi lên pháo đài là đại tá Triệu Văn Điện, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trưởng Phòng cảnh sát truy nã tội phạm Công an tỉnh Lạng Sơn. 35 năm trước, với chiến công trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, binh nhì Triệu Văn Điện được phong vượt cấp lên hạ sĩ và trở thành anh hùng khi mới tròn 20 tuổi.

Thảm sát dưới hầm ngầm pháo đài

Mất chừng 15 phút lội bộ từ chân đồi, chúng tôi lên tới đỉnh pháo đài. Án ngữ trên một điểm cao, từ đây có thể trông ra khắp vùng biên ải mênh mông. Đập vào mắt chúng tôi là hai khối bêtông khổng lồ bị xô ngã chồng lên nhau, đó là dấu tích của lô cốt dẫn lối vào pháo đài bị địch đặt thuốc nổ giật sập vào tháng 2-1979.

Chiếm giữ vị trí trọng yếu nhất của thị trấn Đồng Đăng, pháo đài này được xây từ thời Pháp (trước năm 1945) và trở thành cứ điểm vô cùng kiên cố nhờ hệ thống hầm ngầm bên trong pháo đài chia làm nhiều tầng, có sức chứa hàng trăm người. Tất cả xây chìm khuất dưới lòng đất, chỉ nhô lên trên đỉnh đồi những lô cốt kiên cố với lỗ châu mai vừa phòng thủ, vừa là chỗ thông gió cho hệ thống hầm ngầm bên dưới.

Từ điểm cao này lên cửa khẩu Hữu Nghị chỉ chừng 2km. Đại đội 5 Công an vũ trang (C5) Lạng Sơn - nay gọi là bộ đội biên phòng - với hơn 100 tay súng được bố trí tại đây. Ngay buổi sáng đầu tiên quân Trung Quốc đồng loạt nổ súng xâm lược, hàng trăm người dân Đồng Đăng chạy lên đây trú ẩn. Trong những ngày chiến sự, dân vẫn cùng các chiến sĩ C5 chiến đấu, tải thương, lo cơm nước cho anh em.

Những ngày đầu cuộc chiến, nhờ vị thế hiểm yếu của pháo đài, anh em C5 đã đánh bật hàng chục đợt tấn công của địch hòng chiếm lấy cao điểm này. Hàng trăm tên địch gục ngã sau những đợt xông lên.

Nhưng sau hơn một tuần chiến đấu trong vòng vây chặt cứng của địch, khi anh em lùi vào cố thủ trong pháo đài cùng với những người dân đang trú ẩn thì địch tiếp cận đường hầm vào pháo đài, đặt thuốc nổ giật sập cửa vào hầm ngầm, dùng lựu đạn cay thả xuống hầm qua các lỗ thông hơi, dùng cả súng phun lửa phun vào các ngách hầm.

Trong số hơn 100 người dân và chiến sĩ, chỉ có sáu người sống sót thoát ra được sau đó, còn lại đều chết ngay trong lòng pháo đài. Thời khắc bi tráng đó sau này được anh hùng Nông Văn Phia, chiến sĩ đại đội 5 C5, một trong số sáu người sống sót sau vụ thảm sát, nhớ lại:

“Trong pháo đài lúc này ngoài đơn vị chúng tôi còn có rất nhiều đồng bào. Hầu hết là đàn bà, trẻ em từ dưới thị trấn Đồng Đăng chạy lên tránh đạn pháo từ sớm ngày 17-2. Vì đông người nên thức ăn thức uống dự trữ của chúng tôi sắp hết, chỉ còn dăm cân mì sống và mấy lít nước cạn dưới đáy phuy. Trong pháo đài tối om và ngột ngạt vì hơi người, trẻ con khóc lặng đi vì khát nước, khát sữa. Mệt quá, khát quá, tôi ngồi dựa lưng vào góc tường, đầu choáng, người ớn lạnh và buồn nôn vô cùng.

Bỗng “Ầm...! ...Ầm!” - hai tiếng nổ khủng khiếp nối nhau. Pháo đài rung chuyển. Tiếp đó hàng chục, hàng trăm tiếng nổ chói tai rung óc. Hơi khói cay sè, đen đặc cuồn cuộn ùa vào từng căn phòng trong pháo đài. Tiếng kêu nhốn nháo: “ Địch giật bộc phá lấp đường hầm rồi. Địch thả lựu đạn cay các đồng chí ơi! Ai có khăn ướt thì đậy ngay lên mặt đi”.

Một giọt nước uống còn không có, đào đâu ra khăn ướt. Tiếng trẻ con sặc sụa rồi lặng đi. Mấy đồng chí thương binh kêu nấc lên hai, ba cái rồi lịm. Tôi bò sờ soạng lần về lỗ thông hơi để thở nhưng từ ngoài địch nhét lựu đạn cay vào. Qua ánh lửa, tôi thấy đàn bà, trẻ em nằm la liệt, co quắp, giãy giụa. Một thứ khói khủng khiếp xộc vào họng cháy bỏng và lửa cháy bừng bừng. Địch phun hơi độc hóa học và phun xăng xuống đốt, tôi thoáng nghĩ rồi ngất lịm.

Tỉnh dậy, tiếng nổ vẫn ầm ầm, máu ứa ra từ miệng, từ mũi, từ tai tôi. Tôi bò đi sờ trong đống thi thể người nằm co quắp ấy xem có ai còn sống không. Tất cả dường như đã chết…”.

Chúng tôi đặt bó hoa cúc vàng trên khoảng bêtông trước lối xuống cửa hầm ngầm, đốt nhang tưởng niệm những người lính, người dân đã hi sinh năm nào dưới lòng công sự rồi chui xuống tầng hầm pháo đài, từng tầng từng tầng một, tâm trí như thấy lại sống động cảnh tượng kinh hoàng ngày đó.

Đại tá Triệu Văn Điện và ông Nguyễn Văn Bình, hai cựu chiến binh của cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, thăm lại hang đá đền Mẫu, nơi 35 năm trước cả hai đã chiến đấu và mở đường đưa hàng trăm người dân thoát về tuyến sau an toàn - Ảnh: Ngọc Quang

Hi sinh ngay phút đầu cuộc chiến

Không xa pháo đài là đền Mẫu của thị trấn Đồng Đăng. Anh hùng Triệu Văn Điện bảo chúng tôi dừng xe ở ngôi nhà cạnh đền Mẫu. Vừa mở cửa xe, ông Điện đã vội bước vào kêu lớn: “Anh Bình ơi, anh Bình”. Một người đàn ông trạc tuổi 60, đội chiếc mũ mềm che kín tai của lính biên phòng bước ra ôm chầm lấy ông Điện. Quay sang chúng tôi, ông Điện bảo: “Anh Bình là anh nuôi của tôi, cũng là ân nhân của tôi và mấy trăm người dân Đồng Đăng cách nay tròn 35 năm”.

“Năm đó tôi vừa tròn 20 tuổi” - đại tá Triệu Văn Điện nhớ về tháng 2-1979. Nhập ngũ năm 1978, sau khóa huấn luyện binh nhất Triệu Văn Điện, chiến sĩ dân tộc Nùng quê ở huyện Bình Gia - được điều về tiểu đoàn cảnh sát cơ động của Công an Lạng Sơn. “Biên giới dạo ấy “động” lắm. Đêm nào anh em trong đơn vị cũng đi tuần tra. Lạnh, rét và đói.

Khuya 16-2, tôi với hai anh em trong tổ của mình là Vi Văn Cao, người dân tộc Tày ở huyện Lộc Bình và Trần Văn Thái, đồng hương của tôi ở Bình Gia, đi tuần tra về đã là 3g sáng 17-2. Vừa nhóm bếp sưởi cho bớt lạnh, còn ít gạo nếp tôi nấu xôi cho cả ba anh em cùng ăn.

Xôi chín, vừa ăn tôi vừa bảo Vi Văn Cao: “Mày ăn no rồi mai nhớ thổi sáo cho tao nghe”. Vi Văn Cao cũng trạc tuổi tôi, thổi sáo hay kinh khủng. Ăn xong, ba chúng tôi lên chiếc sạp kê bằng mấy mảnh ván, lưng chưa ngả xuống chiếu thì đã nghe tiếng pháo dập ầm ầm rền vang bầu trời yên tĩnh trước lúc bình minh.

Thoạt tiên cũng chỉ nghĩ là như mọi hôm, bên kia vẫn thỉnh thoảng bắn một trận pháo như thế. Nhưng lần này có vẻ khác, pháo cấp tập hơn. Cả bầu trời rực sáng. Chỉ kịp lăn xuống khỏi giường, ba chúng tôi theo lệnh chỉ huy tổ chức đội hình chiến đấu ngay. Pháo vẫn từ phía biên giới nã cấp tập vào khu vực Đồng Đăng xuống tới thị xã Lạng Sơn. Lúc này hàng trăm người dân Đồng Đăng đã hoảng loạn tìm nơi trú ẩn” - ông Điện kể.

Đơn vị của Triệu Văn Điện cơ động lên phía đền Mẫu chiến đấu và bảo vệ dân. Chỉ hơn một giờ sau, tổ “tam tam” của Triệu Văn Điện chỉ còn lại mình anh, hai đồng đội Vi Văn Cao và Trần Văn Thái hi sinh ngay trước mặt anh vì một quả đạn pháo của địch. Ngồi với chúng tôi nhớ về buổi sáng chiến tranh ấy, ông Điện ngậm ngùi: “Thương nhất thằng Vi Văn Cao, nó hiền lắm, giờ tôi vẫn còn nhớ như in tiếng sáo của nó mỗi chiều thổi cho đồng đội trên chốt nghe…”.

Thị trấn Đồng Đăng nhìn từ đỉnh pháo đài - Ảnh: Ngọc Quang

Lối lên hang đá nằm ngay trong lòng điện thờ đền Mẫu, những bậc tam cấp dẫn ngoằn ngoèo qua rất nhiều ngóc ngách, cửa hang hẹp vừa một người chui, vào sâu lòng hang rộng dần ra. Thiên nhiên khéo chở che con người qua những “công sự” tự nhiên như thế này. Vừa đi, ông Bình và ông Điện thay nhau chỉ vào các hốc đá, gốc cây trên sườn núi, nơi những đồng đội mình đã hi sinh.

Có lên đây mới hình dung được những gì xảy ra 35 năm trước. Đưa tay chỉ xuống khu nhà trụ sở của UBND thị trấn Đồng Đăng, ông Bình nói: “Chỗ đó xưa là sân vận động thị trấn. Địch kéo quân qua, bố trí ở đó mấy khẩu đội pháo 122mm, cứ thế nã thẳng về phía núi Chóp Chài của thị xã Lạng Sơn. Anh em trong đơn vị nấp sau các khe đá nhắm thẳng vào tụi lính pháo mà tỉa xuống.

Súng đạn mù trời. Nhìn xuống thị trấn, tụi tôi thấy xe tăng địch chạy ầm ầm bao vây nã pháo vào pháo đài Đồng Đăng. Khi ấy, trong hang đá còn hơn 300 bà con là dân thị trấn đang trú ẩn. Vội vàng chạy giặc, không ai kịp mang theo thực phẩm.

Nhờ là dân bản địa, thông thuộc địa hình địa vật, đêm đến ông Bình dẫn đường cho anh em trong đơn vị của ông Điện xuống các nhà dân gom góp đồ ăn mang lên hang tiếp viện, bất chấp nguy hiểm chực chờ bởi lán trại của quân Trung Quốc đang dựng lên ngay cạnh đó. Cầm cự được vài hôm thì anh em được lệnh dò đường đưa bà con thoát khỏi hang đá, đồng thời đưa anh em thương binh trong đơn vị về tuyến sau.

Tuy địch chiếm được Đồng Đăng nhưng rừng núi mênh mông, khó có thể chặn hết các ngả. Ba hôm sau, đơn vị của Triệu Văn Điện lần theo lối xuống con suối phía sau triền hang, đưa từng nhóm dân vượt qua vòng vây của địch về tuyến sau rồi trở lại bám trụ hang đá đền Mẫu chiến đấu.

Từ đỉnh núi đá trên đền Mẫu nhìn xuống có thể thấy cả thị trấn Đồng Đăng, từ nhà ga quốc tế, nơi đón những chuyến tàu liên vận đến những dãy phố cao tầng, những cửa hàng sáng rực ánh điện. Cửa khẩu Tân Thanh nhộn nhịp xe đến xe đi. Cũng dễ hơn mấy chục năm rồi, Đồng Đăng được nhắc đến như một thị trấn biên mậu sôi động trên biên giới Việt - Trung của tỉnh Lạng Sơn.

Có ai đó nói rằng quá khứ rất cần được khép lại để tương lai đâm chồi, nhưng cũng rất cần trân trọng những năm tháng thuộc về quá khứ!

Từ khóa » Sự Khác Nhau Giữa Lô Cốt Và Pháo đài