KIM CỔ KỲ QUAN – Ông Ba Thới | Tứ Ân Hiếu Nghĩa - Kỳ Hương Tự

Tứ Ân Hiếu Nghĩa – Kỳ Hương Tự Just another WordPress.com site Bỏ qua nội dung
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
TẾT ĐOAN NGỌ MỒNG 5 THÁNG 5 Cách xưng hô trong đạo Phật

KIM CỔ KỲ QUAN – Ông Ba Thới

Đăng trong 16.06.2010 bởi nggphong

Kim Cổ Kỳ Quan của ông Nguyễn Văn Thới, (1866-1926), tục danh Ba Thới, là một tác phẩm có giá trị về đạo và đời cho nên chúng tôi sưu tập để khỏi thất lạc, nhất là trong cảnh tang hải thương điền, giả thật thật giả khó phân.Tài liệu này sao chép lại của Phật giáo Hòa Hảo. Trong mục đích truyền bá chánh đạo và bảo vệ văn học Việt Nam, xin vong linh ông Ba Thới và các đạo hữu Hòa Hào chấp thuận cho Sơn Trung Thư Trang được tàng trữ tác phẩm này để tiện cho chúng tôi và độc giả nghiên cứu.

NGUYỄN THIÊN THỤ Canada tháng 12 năm 2009. *** TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại miền Nam nổi lên một phong trào văn chương đại chúng. Văn chương này phát xuất từ những nông dân chất phác hoặc những hàn nho. Nội dung văn chương này có hai điểm chính : Văn chương yêu nước và văn chương tôn giáo.

Đây là lúc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu phải chạy về Bến Tre và sáng tác các bài văn tế Trương Công Định, văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây cũng là lúc phát sinh các tác phẩm khác như Thơ Sáu Trọng, Thơ Năm Nhỏ, Thơ Năm Tỵ, Thơ Cậu Hai Miêng. . . thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp, và sinh hoạt xã hội..

Trước đó không lâu, Bửu Sơn Kỳ Hương với Đức Phật Thầy ra đời (1849), truyền xuống đến các đệ tử như Phật Trùm, Đức Bổn Sư , Sư Vãi Bán Khoai và Huỳnh Giáo Chủ.

Trong những tác phẩm tôn giáo xưa như Vãn Núi Tà Lơn của ông Cử Đa, Giảng Xưa của Đức Sư Vãi Bán Khoai, Sấm Giảng của Hùynh Giáo chủ thì tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan có vị trí khá quan trọng. * Nhấp vào đây để tải trọn bộ Kim Cổ Kỳ Quan-Audio Xem Thêm: >>

I. TÁC GIẢ

Tác phẩm này do ông Nguyễn Văn Thới ( Ba Thới), soạn thành. Trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông tự giới thiệu như sau:Quê ngụ miền Cao Lãnh Tôi nay Ba Thới xưng danh Từ theo Thầy học đạo minh thanh Cửu thu mãn thính danh dư tuế(Kim cổ)

Tôi nay Ba Thới tùng Quới Mỹ-TràTên Thạnh Phật bà chủ nhà Sa ĐécNhiều người ghen ghét mở bét bạc bôiNhiều việc thương Vôi thương ôi ong bướmViệc đời lụy ướm như bướm gầy ongTên Thành là ông Quan-Công thuở trướcPhò vua giúp nước thuở trước rất miêngPhật Thầy Trần Nguyên dạy yên lê thứTrần Nhu chiếm cứ nhị tứ Láng linhHai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặtHai Ngôn thậm ngặt oán giặt (giặc) hỏa thiêuCăm hờn quần yêu bao nhiêu chẳng cửChú tư biện xử tích cử tòa chươngNhiều việc tủ thương lưới vương Châu đốcHai Nhơn tử tốc vị bốc cáo trìnhNhiều việc bất bình thương tình chú bảy dám bì(Cáo thị)

Có vài tài liệu của Hòa Hảo viết về Ông Nguyễn Văn Thới.

+Tài liệu thứ nhất: Các đại đệ tử cùa đức Phật Thầy Tây Anhttp://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_192_ArticleID_3549_.aspxTài liệu thứ nhất đơn giản và ghi năm sinh năm mất 1866-1927.

+Tài liệu thứ hai đơn giản, ghi năm mất là 1925.http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4070_.aspx+Còn tài liệu thứ ba:http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx Tài liệu này ghi năm mất 1927 và chi tiết hơn.

Cả hai tài liệu thứ hai và thứ ba nói ông thọ 61 tuổi.Tài liệu thứ hai ghi ông mất ngày mồng chín tháng tư năm 1925. Tài liệu này ghi ngày tháng âm lịch nhưng năm lại là dương lịch.Tài liệu thứ ba ghi ngày mồng 9 tháng tư bính dần tức là ngày thứ năm 20 tháng 5-1926.Vậy ông mất năm 1926.

*

( Bửu Hương Tự tại Láng Linh thờ Quản Cơ Trần Văn Thành do Trần Văn Nhu xây)

Ông Nguyễn Văn Thới tức Ba Thới là một nông dân có học chữ Hán, sinh năm bính dần (1866) đời Tự Đức thứ 19 tại làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec). Ông Ba tướng người cao lớn nước da trắng, râu tóc nhiều mỗi khi tóc buông ra thì chấm đất có dư, khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng-nảy thích ngắm kiểng xem hoa, thường hút thuốc điếu và một đôi khi cũng có ăn trầu.

Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba tìm đến ông Trần Văn Nhu là con của Quản cơ Trần Văn Thành, đại đệ tử của đức Thầy Tây An, và cũng là một nghĩa sĩ chống Pháp, xin quy-y với ông Hai ở Láng-linh. Sau ông đem cả gia đình về ở nơi đây.

Trong thời gian này, ông Ba viết ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-Từ, Cổ Vãng Kim Lai.Vì có sự ghen ghét của Nguyễn-văn-Phẩm (1) là cháu của ông Hai Nhu đưa đến việc Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Ông Ba thoát , ông Hai thì phải trốn tránh, nhưng con trai của ông ba là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.

Thấy tình đời đen bạc, vả buồn vì cảnh chùa tan nát, ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt-hoảng, chiều tối lại chở lên nhà thương Châu-Đốc điều trị. Ông không chấp nhận việc chữa trị của người Pháp, ông cự tuyệt và gở bỏ hết. Độ vài tháng sau liệu bịnh-tình ông Ba không thể chữa được, nhà thương đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.

Tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.

Trong chuỗi ngày tàn, ông ký thác lòng mình vào những quyển : Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ-ĐạiThừa NhànÔng mất vào lúc năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), thọ 61 tuổi. Ông để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo-đức lẫn văn-chương, và một tấm gương tiết-tháo kiên-trinh bất hoại.

II. NIÊN ĐẠI VÀ HIỆN TRẠNG TÁC PHẨM

Về năm viết, bản điện tử Hòa Hảo Cali đề ở đoạn cuối lời tựa:

Cất bút châu phụng tỏa (tả) một bàiDi truyền để hậu lai tường khán“Phật ông diễn thế gian di chúc,Tiền kỷ tái hậu vô giai”.Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí Du (vu) kim,Nhâm ngũ niên cọng, kế cứu thập tứ niênNhâm ngũ niên hạ nguơn nhựt Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu( 1849-1969 )

Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí vu kim nghĩa là Năm kỷ dậu (1849) đức Phật Thầy khai đạo đến năm mậu ngọ ( 1858) tiếp theo là 94 năm sau mới tái bản. Vậy quyển này tái bản năm 1952.

Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu( 1849-1969 ). Ở đây có sai lầm. Vì ông Ba sinh năm 1866 nên sách không thể viết hay tái bản năm 1849. Theo tiểu sử đã giới thiệu, ông Ba viết qua nhiều thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là sau 1907 là khi ông về Láng, làm nhà gần Bửu Sơn Tự. Và giai đoạn thứ hai là trong khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lỡ (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên) và trước khi mất . Điều này là đúng vì trong Kim Cổ Kỳ Quan có câu: Nặng nề mang nhục chữ dânTrung-huê Dân-quốc khó phân vùi đầu.(2)(Thừa nhàn)

Như vậy tác phẩm này gồm chín bổn viết trong khoảng từ 1907 đến 1926, trong đóThừa nhàn viết sau 1912.Giác mê viết tại Láng Bà khoảng sau 1907.Láng bà để kiển trung quân tựuNgọc xuất An-giang hựu thú vui.

Cáo thịviết khi ở Láng (sau 1907):Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Lang (Láng ) linhHai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặt.

-In người chốn Láng ngán ỷ vinh.

Thừa nhàn là bản thứ chín:Ngồi buồn cất bút chép riêngĐặt làm chín bổn bình yên coi đời.

Kim Cổ: cuối bổn Kim Cổ có câu:“Ất mão niên cơ thâm nay đủ”.Như vậy, bổn Kim Cổ viết xong năm ất mão (1915).

Trong bản Kim Cổ Kỳ Quan, ở dưới các đoạn có ghi Chép xong ngày 19 tháng hai (nhuần) Năm Đinh Hợi , Châu Đốc. Đinh Hợi có lẽ là năm 1947 có tháng hai nhuần , do người đời sau chép lại và năm 1952 thì tái bản. Vậy xuất bản lần đầu năm nào?

Theo tài liệu thứ nhất, Tình Thầy nợ Nước miên man bao nỗi cảm hoài, ông ký thác lòng mình vào bộ sách Kim Cổ Kỳ Quan, gồm chín cuốn, cũng gọi chín bổn: Vân Tiên, Thiên Tứ, Cổ Vãng Kim Ca, Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ Ðại và Thừa Nhàn, toàn văn vần, tuy văn chương bình dân mộc mạc, có khi bí hiểm tiên tri, nhưng chứa đựng mối cảm hoài tha thiết tình Thầy nợ Nước, ưu đời ái đạo trong một hoàn cảnh xã hội bi đát, quốc phá gia vong, mà Phật Thầy đã nói trước về những khổ cảnh tai nạn đang chờ đợi chúng sanh trong những thời kỳ sắp tới.http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx

Kim Cổ Kỳ Quan có nghĩa là Chuyện Lạ Xưa Nay. Tại Trung Quốc đã có tập truyện này viết về một số nhân vật Trung Quốc như Lý Bạch, Bá Nha, Tử Kỳ. . .Tại Việt Nam ông Ba Thới cũng đặt tên cho tác phẩm của ông là Kim Cổ Kỳ Quan để nói lên những điều ông suy nghĩ và nhìn thấy (tiên tri) về tương lai nước Việt.

Kim Cổ Kỳ Quan là tên chung 9 bổn nhưng Kim Cổ là một bổn chính, là bổn đầu trong chín bổn. Tác giả nhiều lần nhấn mạnh các chữ Kim cổ, Cổ vãng kim lai :-Ngẩn ngơ cổ vãng, đục ngầu kim lai.(Kim cổ)

Tri kim cổ mới biết việc đời,Sao người chẳng tưởng Phật Trời độ thân.(Kim cổ, 3B Cali)

Cổ kim lòng thế phân lìaBất cầu nan ngộ Phật vìa (dìa: về) độ thân

-Nói ít nghe đầy lỗ taiSuy đời cổ vãng kim lai biết lòng(Thừa nhàn)

Đậu câu trúng lý nghiệm suyKim lai cổ vãng luận tri Phật TrờiThuở xưa giặc mọi tơi bờiCũng vì tham sắc như đời trào nayCổ kim loạn quốc Nam TâyCựu thù tích oán thương thay đời này. . . . . .Cổ vãng ngũ hổ tam hùngKim lai dục đắc phục tùng bá nhân(Thừa nhàn)

Tác phẩm này ban đầu viết bằng chữ nôm, hay quốc ngữ? Chưa có tài liệu nào xác nhận và chúng ta cũng không thấy bản chánh. Chúng tôi nghĩ rằng ở thôn quê thời điểm 1920 quốc ngữ chưa phổ biến, có lẽ Kim Cổ Kỳ Quan được viết bằng chữ nôm:

Đặt nôm na lộn lạo trữ minh ( chữ mình?)Dám khuyên thượng trí chớ khinh quê mùa.(Kim cổ)Nôm na chữ nghĩa lam nhamDầu người chê dại cũng cam thửa lòng.(Giác mê)

Tôi đặt mấy bổn không hayNôm na mấy lớp nói nay tật khùng.(Thừa nhàn)

Để xem chi tiết, tải hoặc nghe âm thanh “Kim Cổ Kỳ Quan” vui lòng “Nhấp vào đây”

Chia sẻ:

  • Facebook
  • X
Thích Đang tải...

Có liên quan

Bài này đã được đăng trong Khác. Đánh dấu đường dẫn tĩnh. TẾT ĐOAN NGỌ MỒNG 5 THÁNG 5 Cách xưng hô trong đạo Phật

Bình luận về bài viết này Hủy trả lời

Δ

  • Tìm kiếm cho:
  • Bài viết mới

    • Chào tất cả mọi người!
    • NĂM ÔNG THẺ CỦA BỬU SƠN KỲ HƯƠNG
    • HÒA NHẠC TANG LỄ
    • Chuông Trống Mõ và Chuông Trống Bát Nhã P.3
    • Chuông Trống Mõ và Chuông Trống Bát Nhã P.2
  • Bình luận mới nhất

    ho vinh tai trong NĂM ÔNG THẺ CỦA BỬU SƠN KỲ…
    BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - T… trong NĂM ÔNG THẺ CỦA BỬU SƠN KỲ…
  • Thư viện

    • Tháng Một 2011
    • Tháng Mười Hai 2010
    • Tháng Mười 2010
    • Tháng Sáu 2010
    • Tháng Năm 2010
    • Tháng Ba 2010
  • Chuyên mục

    • BSKH
    • Hòa đàn
    • Khác
    • Kinh
    • Nhạc lễ
    • TAHN
    • tôn giáo
    • tứ ân hiếu nghĩa
  • Meta

    • Đăng ký
    • Đăng nhập
    • RSS bài viết
    • RSS bình luận
    • WordPress.com
Tứ Ân Hiếu Nghĩa – Kỳ Hương Tự Blog tại WordPress.com. Trang này sử dụng cookie. Tìm hiểu cách kiểm soát ở trong: Chính Sách Cookie
  • Bình luận
  • Đăng lại
  • Theo dõi Đã theo dõi
    • Tứ Ân Hiếu Nghĩa - Kỳ Hương Tự
    • Theo dõi ngay
    • Đã có tài khoản WordPress.com? Đăng nhập.
    • Tứ Ân Hiếu Nghĩa - Kỳ Hương Tự
    • Tùy biến
    • Theo dõi Đã theo dõi
    • Đăng ký
    • Đăng nhập
    • URL rút gọn
    • Báo cáo nội dung
    • Xem toàn bộ bài viết
    • Quản lý theo dõi
    • Ẩn menu
%d Tạo trang giống vầy với WordPress.comHãy bắt đầu

Từ khóa » Tiểu Sử ông Ba Thới