KINH NGHIEM VIET DUNG CHINH TA LOP 1 - THU HUONG
Có thể bạn quan tâm
MỞ ĐẦU
I) Lí do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó là hình thành 4 kĩ năng: Nghe – nói – đọc- viết cho học sinh. Chính tả là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí quan trọng trong cơ cấu chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học ở trường phổ thông nói chung. Vì nó đảm nhận việc giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt văn hoá, Tiếng Việt chuẩn mực. Trên cơ sở viết đúng Tiếng Việt, học sinh mới có thể dùng chữ viết như một công cụ để học tốt các môn học trong nhà trường.
Ở bậc Tiểu học, phân môn chính tả càng có vị trí quan trọng. Bởi vì giai đoạn Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trính hình thành kĩ năng chính tả cho học sinh.
Rèn cho các em viết đúng chính tả góp phần giữ gìn và phát triển vốn chữ viết của Tiếng Việt. Hình thành cho các em một số phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt và chữ viết Tiếng Việt.
Đối với học sinh lớp Một, dạy cho các em viết đúng chính tả là vô cùng quan trọng.. Vì Lớp Một là lớp đầu cấp, các em viết đúng chính tả là cơ sở cơ bản để học tốt chính tả ở các lớp trên.
Muốn viết đúng chính tảTiếng Việt, trước hết các em phải học tốt môn Tiếng Việt để nắm chắc các quy tắc chính tả của Tiếng Việt, đồng thời phải thường xuyên quan sát, rèn viết, hiểu nghĩa từ, nắm được cách viết đúng, nhớ và thuộc thì mới viết đúng được.
Ở lớp Một dạy cho các em viết đúngchính tả là một khó khăn không nhỏ. Bởi từ tuần 1đến tuần 24 các em học cỡ chữ vừa ( viết vần, từ ). Từ tuần 25 các em học phân môn Chính tả, viết một đoạn văn hay đoạn thơ bằng cỡ chữ nhỏ. Các em còn lẫn lộn giữa hai cỡ chữ, viết sai độ cao, độ dài của chữ, chữ viết không đều nét, sai chính tả. Làm sao để các em viết bài chính tả không sai lỗi, đúng cỡ chữ, trình bày bài đúng mẫu.
Cũng như các thầy cô dạy lớp Một khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy Chính tả cho học sinh lớp Một. Đặc biệt là rèn cho các em không những viết đúng chính tả, viết đẹp, mà còn biết cách trình bày một bài chính tả. Những băn khoăn ấy chính là lí do tôi chọn đề tài : “ Một số kinh nghiệm rèn viết đúng chính tả cho học sinh lớp Một .”
II) Mục đích của đề tài:
Trao đổi một vài kinh nghiệm rèn viết đúng chính tả cho học sinh lớp Một, nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, góp phần hoàn thiện mục tiêu môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học.
III / Nhiệm vụ của đề tài:
Tìm hiều vấn đề đổi mới phương pháp dạy Chính tả ở Tiểu học. Tìm hiểu thực trạng bài viết chính tả của học sinh lớp 1.3 trường TH An Bình B.
IV/ Phương pháp nghiên cứu của đề tài :
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
1/ Đọc các tài liệu về phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
2/ Điều tra thực tế .
3/ Phương pháp thực hành.
V/ Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Chương trình phân môn Chính tả lớp Một.
- Phương pháp dạy học chính tả.
VI/ Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 1.3 trường TH An Bình B.
VII/ Khẳng định tính mới:
Rèn viết chính tả cho học sinh là việc làm mà tất cả thầy, cô đều thực hiện. Nhưng bằng biện pháp nào để giúp học sinh lớp Một viết chính tả đạt kết quả cao nhất. Đó là tính mới của đề tài.
NỘI DUNG
A/ Cơ sở khoa học:
- 1. Khái niệm chính tả:
Theo quan điểm giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học –NXBGD (Đại học sư phạm) thì: chính tả nghĩa gốc là phép viết đúng, là lối viết hợp với chuẩn, là hệ thống quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ, …Chính tả là những quy ước của xã hội trong ngôn ngữ nhằm làm cho người viết và người đọc hiểu thống nhất nội dung của văn bản. Sự quy ước có tính chất xã hội trong chính tả không cho phép vận dụng các quy tắc chính tả một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.
Phân môn Chính tả là phân môn có tính chất thực hành, rèn luyện kĩ năng viết chữ cho học sinh. Hình thành cho học sinh kĩ xảo chính tả, nghĩa là giúp học sinh viết đúng chính tả một cách tự động hoá, giúp các em phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ ở dạng thức viết vào hoạt động giao tiếp, học tập và tư duy.
2/ Đặc điểm Chính tả:
Chữ viết tiếng Việt được xây dựng trên hệ thống chữ cái Latinh. Với 29 chữ cái và 6 dấu thanh (thanh ngang không có dấu). Việc dạy cho học sinh viết đúng chính tảTiếng Việt là cả một quá trình. Bởi vì Tiếng Việt có 3 vùng phương ngữ chính là phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam, cùng nhiều thổ ngữ với cách phát âm các vùng miền khác nhau. Nhưng về chính tả chỉ có một cách viết thống nhất trong cả nước.
Ví dụ:
* Người phương ngữNam thường phát âm sai theo phương ngữ hẹp.
- Lẫn lộn các bán phụ âm cuối “u” và “i” nhưng khi viết phải viết đúng : phát âm “đằng sao”, nhưng phải viết là “đằng sau”; “tại sau” phải viết là “tại sao); …
- Phát âm “rờ” thành “ gờ” nhưng khi viết phải viết đúng: “cá gô”, khi viết phải viết đúng là: “ cá rô”; …
* Người phương ngữ Bắc khi phát âm không phân biệt l /n; nhưng khi viết phải viết đúng: phát âm “ nàm việc”, nhưng khi viết phải viết là “làm việc”; …
Ngoài những quy định về cách viết các từ ngữ, còn những quy định về cách viết hoa tên riêng, các từ ngữ phiên âm tiếng nước ngoài, …
B/ Thực trạng:
1/ Đặc điểm tình hình:
1.1 / Thuận lợi:
- Trường học mới, khang trang, đầy đủ tiện nghi, bàn ghế đúng kích cỡ, tạo điều kiện tốt cho việc giảng dạy và học tập.
- Bản thân đứng lớp lâu năm nên cũng có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và giáo dục. Được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ của đồng nghiệp.
1.2/ Khó khăn:
Trường thuộc địa bàn khu công nghiệp, học sinh chủ yếu là con em lao động nhập cư từ tất cả các vùng miền của đất nước. Nên giọng nói, cách phát âm khác nhau, ảnh hưởng đến cách đọc, cách viết của các em.
Qua nhiều năm giảng dạy lớp Một, tôi nhận thấy chất lượng bài viết chính tả của các em chưa cao, do các nguyên nhân sau:
* Một số em đọc chưa trôi chảy, chưa nắm vững cấu trúc của âm tiết Tiếng Việt, nên các em viết thừa, viết sai:
- khuếch – khuyếch, huênh- huyênh;…
* Do học sinh không nắm vững quy tắc chính tả Tiếng Việt:
nghĩ – ngĩ; nghe – nge; ghế - gế; …
* Do học sinh không nắm vững chính âm :
Việc – việt; thác – thát; lan – lang; …
* Ngoài ra còn có những nguyên nhân như:
Một số em còn viết ngoáy, chưa cẩn thận, chưa đúng cỡ chữ, chưa trình bày bài đúng mẫu.
2/ Nội dung và phương pháp dạy học Chính tả:
2.1/ Nội dung chương trình và yêu cầu cơ bản đối với phân môn Chính tả lớp Một:
Học sinh học chính tả từ tuần 25 đến hết tuần 35. Mỗi tuần có hai tiết chính tả tập chép. Tuần 31, 33 và 35, mỗi tuần có 1 tiết chính tả ( tập chép ) và 1 tiết chính tả ( nghe viết). Yêu cầu cơ bản của chuẩn kiến thức kỹ năng đối với phân môn chính tả lớp Một là học sinh viết đúng chính tả, đúng mẫu, đoạn văn hay đoạn thơ với độ dài 20 – 30 chữ trong thời gian 10 – 15 phút. Làm được các bài tập điền chữ, điền vần khó. Tập viết các dấu câu ( dấu chấm, dấu hỏi,…).
2.2 / Phương pháp dạy học Chính tả.
2.2.1/ Phương pháp phân tích ngôn ngữ:
Phương pháp này giúp học sinh so sánh sư tương đồng, khác biệt về âm, nghĩa và chữ của các từ ngữ có trong bài. Để sử dụng tốt phương pháp này , giáo viên phải chọn những từ ngữ mà học sinh dễ lẫn tuỳ theo tình hình lớp. Khi phân tích phải cụ thể, dễ hiểu.
2.2.2/ Phương pháp giao tiếp:
Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu các hiện tượng chính tả, các quy tắc chính tả. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi phong phú, sát thực, dễ hiểu, phù hợp với đối tượng học sinh. Tạo tình huống để học sinh tham gia vào các hoạt động giao tiếp một cách hào hứng, nhẹ nhàng mà thoải mái.
2.2.3/ Phương pháp rèn luyện theo mẫu:
Giúp học sinh vận dụng những quy tắc, hay mẹo chính tả, bài mẫu đã biết vào trường hợp khác tương tự. Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần đặc biệt chú ý đến cách sử dụng từ ngữ, chữ viết và cách viết chữ của mình để học sinh luôn có mẫu tốt để thực hiện theo.
Để thực hiện được mục tiêu của môn học và yêu cầu cơ bản của chuẩn kiến thức kĩ năng trong dạy học cho học sinh lớp Một.Với mong muốn các em học sinh phải viết đúng chính tả tức là học tốt phân môn Chính tả. Để khắc phục được tình trạng sai lỗi chính tả của học sinh và xã hội trong tương lai không còn phải đọc những văn bản phải luận chữ, đoán ý. Thì ngay từ lớp Một đòi hỏi mỗi thầy cô giáo phải tìm tòi, lựa chọn biện pháp phù hợp nhất để đạt được kết quả cao. Vì giai đoạn này, những gì mà người giáo viên cung cấp cho học sinh là dấu ấn theo các em suốt quãng đường học sinh. Cũng giống như những vết xước trên tàu lá chuối. Chính vì vậy, tôi lên kế hoạch rèn chính tả cho các em.
C/ Biện pháp thực hiện:
1/ Đối với giáo viên:
Chữ viết của giáo viên phải đúng, giọng đọc phải chuẩn. Để khi dạy kiểu bài Tập chép, ở phần “Bài chép”, giáo viên chép văn bản mẫu lên bảng cho học sinh quan sát và viết theo phải thật cẩn thận, chuẩn xác, đúng tính chất mẫu mực. Dạy bài “ Chính tả nghe đọc”, giáo viên đọc cho học sinh nghe viết phải đọc chuẩn xác, đúng chính âm, đọc thong thả, rõ ràng, ngắt hơi hợp lí. Chữ viết và giọng đọc của giáo viên là hai phương tiện trực quan quan trọng trong dạy học phân môn Chính tả, nhất là đối với lớp Một. Tôi nghĩ mình có viết đúng, giọng đọc có chuẩn thì mới rèn cho các em đọc đúng, viết đẹp được. Vì vậy, tôi thường xuyên rèn chữ viết và tự luyện cách phát âm của mình sao cho đúng.
2/ Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh:
Sau 3 tuần học, tôi đã phân loại đối tương học sinh để bố trí chỗ ngồi thích hợp cho các em. Em học giỏi ngồi cạnh em học yếu hoặc trung bình. Em viết cẩn thận ngồi cạnh em viết ngoáy. Em viết đúng chính tả ngồi cạnh em viết sai. Với cách bố trí chỗ ngồi như vậy các em sẽ học tập lẫn nhau, truy bài cho nhau, giúp đỡ nhau cùng học tập tiến bộ.
3/ Rèn đọc kết hợp với luyện viết:
Như tôi đã nói ở trên, để viết đúng chính tả, trước tiên các em phải học tốt môn Tiếng Việt. Nhất là lớp Một, các em phải học tốt phần học âm, vần để nắm vững cấu trúc âm tiết Tiếng Việt, nắm các quy tắc chính tả để viết đúng chính tả.
Đúng vậy, những em đọc tốt thì viết chính tả ít sai lỗi. Em đọc yếu thì viết chính tả sai nhiều lỗi hơn. Vì vậy, từ khi học Học vần, tôi luôn chú ý rèn đọc cho các em. Hướng dẫn các em cách phát âm đúng để đọc đúng, phân tích cấu tạo âm, vần, tiếng, giúp các em nắm vững, tăng cường đánh vần, đọc trơn. Các em học âm, vần, tiếng, từ nào là tôi rèn cho các em đều đọc thành thạo và viết đúng các âm, vần, tiếng ,từ đó.
Ngoài ra, tôi còn rèn cho các em nghe viết các âm, vần, tiếng ,từ đã học vào bảng con để kết hợp sửa sai cho các em về độ cao, độ dài, khoảng cách của chữ và lỗi chính tả vào giờ kiểm tra bài cũ hay giờ rèn viết buổi chiều. Rèn nghe viết trong giai đoạn học âm, vần này ở mức độ sơ giản nhưng rất quan trọng. Qua đây, tôi cũng nắm được lỗi sai chính tả của các em.
Đối với giờ Tập đọc, tôi cũng hướng dẫn các em phân tích tiếng mang vần khó, rèn cho các em đọc trôi chảy nội dung bài tập đọc.
Với những em đọc còn yếu, tôi dành thời gian cho các em nhiều hơn. Kiểm tra đọc mỗi ngày, chấm điểm. Trao đổi với phụ huynh để luyện thêm cho các em ở nhà. Khi kiểm tra bài thấy em đọc được bài là tôi khen em luôn. Tôi xoa đầu em mỉm cười và nói “Hôm nay, em đọc bài tốt quá! em học tiến bộ, cố gắng ngày mai đọc tốt hơn nữa.” Lời nói đi cùng cử chỉ và điệu bộ thể hiện tình cảm, sự thân mật, sự quan tâm tới các em làm cho giá trị lời khen tăng lên gấp bội. Điều đó đã động viên, khuyến khích các em rất nhiều.
Sau mỗi bài Học vần, tôi đều mở rộng các tiếng chứa vần đang học nhằm phong phú hoá vốn từ cho các em dưới hình thức trò chơi: Thi đua tìm tiếng ngoài bài chứa âm, vần vừa học; đọc từ ngoài bài và tìm tiếng chứa âm, vần vừa học; nhìn hình đoán chữ, …Sau đó cho các em đọc lại.Tôi đặc biệt chú ý tới những bài có vần, chữ các em hay viết sai như: ch, tr, s, x, l, n, ng, ngh, g, gh, c, k, …; at, ac, an, ang, ưu, ươu, iêu, iu, uôm, ươm, …Bằng cách này các em dễ nhận diện tiếng có âm ,vần mới và tự động hoá hoạt động đọc trơn tiếng khi có câu, từ, chứa âm, vần đó, giúp các em nhớ mặt chữ và viết đúng chính tả.
Qua mỗi bài Học vần, rèn cho các em đọc tốt, kết hợp rèn nghe viết và sửa sai cho các em. Tôi thấy các em viết chính tả nghe viết tiến bộ mỗi ngày.
4 / Hướng dẫn học sinh viết và trình bày bài chính tả:
Một bài chính tả viết đúng là bài viết không sai lỗi, đúng cỡ chữ, trìnhbày bài đúng mẫu. Để các em viết đúng cỡ chữ nhỏ và biết cách trình bày bài chính tả. Tôi lên kế hoạch rèn cho các em.
4.1/ Hướng dẫn học sinh viết chữ cỡ nhỏ:
Tuần 25 các em học chính tả bằng cỡ chữ nhỏ. Để các em viết chữ cỡ nhỏ đúng, từ tuần 23, tôi hướng dẫn cho các em làm quen với chữ cỡ nhỏ và hướng dẫn cách viết vào các giờ rèn chữ buổi chiều. Tôi hướng dẫn các em viết chữ cái trước. Tôi chia các chữ cái có cùng độ cao thành một nhóm để hướng dẫn một cách tỉ mỉ. Khi các em viết đúng, tôi chuyển sang rèn nhóm chữ cái khác. Sau đó hướng dẫn các em viết từ, câu. Thu vở chấm và thống kê những chữ cái các em còn viết sai, tôi hướng dẫn lại trên bảng lớp rồi yêu cầu các em viết vào bảng con cho đúng. Những em viết yếu lẫn lộn hai cỡ chữ, tôi viết mẫu trước cho các em viết lại nhiều lần và luôn lại gần để chỉ bảo, động viên các em. Những em viết đúng tôi yêu cầu các em viết tròn chữ cho đẹp và viết nhanh hơn.
Tôi còn sưu tầm những bài viết chính tả của những năm trước cho các em chuyền tay nhau xem .Khi chép bài lên bảng , tôi chép thật đúng, đẹp cho các em nhìn chép theo. Tôi khuyến khích các em: “ Em nào viết giống cô sẽ được thưởng.” Tôi nhìn xuống lớp thấy cả lớp đang chăm chú nhìn bảng chữ mẫu của cô và có vẻ đang rất cố gắng để viết đẹp.
Vừa hướng dẫn kĩ, vừa động viên, khuyến khích các em. Nhờ vậy mà chữ viết các em tiến bộ trông thấy.
4.2/ Hướng dẫn học sinh trình bày bài chính tả:
Ngay từ khi học âm, vần, tôi uốn nắn cho các em từng nét chữ, rèn cho các em tính cẩn thận, viết chữ đẹp, giữ vở sạch. Hướng dẫn các em cách ghi thứ, ngày, tên môn học, cách trình bày một đoạn văn hay đoạn thơ ứng dụng để khi học chính tả các em biết cách trình bày bài chính tả. Hướng dẫn cách kẻ cột sửa lỗi, cách ghi sửa lỗi.
Khi viết bài văn, chữ đầu câu và khi chấm xuống dòng phải viết hoa và lùi vào 1ô. Sau dấu chấm phải viết hoa và viết hoa tên riêng, tên địa danh. Đối với bài thơ, tuỳ số chữ trong mỗi dòng nhiều hay ít để lùi vào số ô cho cân đối trang vở. Khi viết bài thơ, hết mỗi dòng thơ phải xuống dòng, các chữ đầu mỗi dòng thơ phải viết hoa và viết thẳng hàng với nhau. Riêng đối với thơ lục bát thì không kẻ cột sửa lỗi, viết câu 6 chữ lùi vào 2 ô, câu 8 chữ lùi vào 1 ô so với lề vở.
Hướng dẫn các em cách ghi dấu câu như: Dấu phẩy hay dấu chấm, dấu chấm hỏi,… ghi cách chữ nửa chữ cái o. Khi viết, chữ cách chữ 1 chữ cái o.
Học sinh lớp Một hay bắt chước, lại hay quên nên khi thấy cô viết xuống dòng cũng viết xuống dòng theo. Nên mặc dù đã hướng dẫn, trước khi viết bài, tôi vẫn hỏi lại để các em nhớ. Đây là bài thơ hay bài văn? Bài thơ phải viết như thế nào?
Giáo viên phải hướng dẫn thật kĩ, không được nói chung chung. Nhắc lại nhiều lần để các em nhớ. Khi các em viết bài, giáo viên phải bao quát lớp xem còn em nào chưa nắm được để lại gần chỉ bảo cho các em.
Các em viết bài chính tả vào vở tập viết khổ nhỏ đã có cách trình bày sẵn. Nhưng nếu giáo viên không hướng dẫn vào vở ô li thì các em không nắm được cách trình bày bài chính tả. Vì vậy, giờ rèn viết buổi chiều, tôi hướng dẫn cho các em và nhắc lại trong giờ viết bài chính tả buổi sáng. Nhờ vậy, mà học sinh lớp tôi, em nào cũng biết cách trình bày bài vào vở ô li đúng, đẹp.
Học sinh viết bài chính tả
Học sinh viết bài chính tả
5/ Dạy học sinh nắm quy tắc chính tả:
Học sinh nắm quy tắc chính tả để viết đúng chính tả là thực sự cần thiết.
Tôi đã hệ thống lại các quy tắc chính tả ngay sau khi các em học các bài Học vần ôn tập và thường xuyên cho các em nhắc lại trong suốt quá trình học để các em ghi nhớ, nắm vững , giúp các em làm tốt các bài tập chính tả và viết đúng chính tả. Các quy tắc chính tả như:
5. 1 / Quy định về viết phụ âm đầu: k, c, q:
- Âm “cờ” được viết bằng chữ cái k khi kết hợp với i, e, ê, iê, ia (: kẻ, kẻng, kiêng,…).
- Âm “cờ” được viết bằng chữ cái c khi kết hợp với a, â, o, ô, ơ, u (cao, căn, cọ,…).
- Âm “cờ” được viết bằng chữ cái q khi kết hợp với vần mang âm đệm được ghi bằng chữ cái u ( quyên, quyền,…) Khi không có âm đệm u thì trước đó không được viết q.
5.2/ Quy định về viết phụ âm đầu: g /gh; ng / ngh:
- Âm “gờ” được viết bằng tổ hợp chữ cái gh khi kết hợp với i, e, ê ( ghi, ghe, ghé,…).
- Âm “gờ” được viết bằng chữ cái g khi kết hợp với a, â, o, ô, ơ, u ( gừ, guồng, gọng,…)
- Âm “ngờ” được viết bằng tổ hợp chữ cái ng khi kết hợp với a, â, o, ô, ơ, u (ngồi, ngủ, ngăn, …)
- Âm “ngờ” được viết bằng tổ hợp chữ cái ngh khi kết hợp với i, e, ê ( nghỉ, nghe, …)
5.3 / Quy định về viết nguyên âm đôi iê, yê:
+ Trong các vần có âm đệm thì viết là y. Ví dụ: khuya, khuyên,..
+ Không có âm đệm mà có âm đầu, thì viết i. Ví dụ: kia, lia, chia, …
+ Nếu không có âm đầu mà có âm cuối, viết y. Ví dụ: yêu, yên, yến,…
5.4 / Quy định về viết dấu thanh trên các nguyên âm đôi:
Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các tiếng có âm đôi ở vần, học sinh viết sai dẫn đến sai chính tả trầm trọng.
+ Chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ nhất của nguyên âm đôi.
Ví dụ: mía, lúa, lụa,…
+ Chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi nhưng lại có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở vị trí con chữ thứ hai của nguyên âm đôi.
Ví dụ: rượu, miến, luồn,…
Những quy tắc chính tả này giáo viên phải từng bước khéo léo để hướng dẫn cho các em và phải kiểm tra thường xuyên xem các em nắm được chưa đồng thời ôn lại cho các em thông qua các bài tập “ điền chữ”, “ điền vần”.
* Ví dụ : Khi học sinh học Học vần, bài 31: Ôn tập, tôi hướng dẫn học sinh rút ra quy tắc chính tả khi viết phụ âm đầu là ng/ ngh. Cuối tiết học cho các em chơi trò chơi: Điền chữ ng hay chữ ngh:
Học sinh chơi xong, nhận xét và tôi hỏi:
-Viết là ng khi nào?
-Viết là ngh khi nào?
* Khi học sinh học chính tả bài: Kể cho bé nghe.
Khi đọc cho học sinh viết, tôi hỏi: Chữ “nghe ” viết là ng hay ngh? Vì sao?
* Khi học sinh làm bài tập chính tả, bài 3: Điền ng hay ngh ( Bài: Kể cho bé nghe).
Tôi cũng hỏi các em để củng cố quy tắc chính tả trước khi các em làm bài.
Hoặc khi đọc chính tả cho các em viết, ví dụ: “thước kẻ”, tôi hỏi:Chữ “ kẻ” viết bằng c hay k ? vì sao? Các em trả lời, tôi kết luận và nhắc lại quy tắc.
Học sinh độ tuổi tiểu học có khả năng ghi nhớ máy móc khá tốt, có khả năng học thuộc khá nhanh. Nhưng để sự ghi nhớ được bền lâu, tôi thường xuyên ôn lại cho các em.
Nếu những quy tắc chính tả này, giáo viên chỉ hướng dẫn các em rút ra mà không thường xuyên củng cố cho các em ghi nhớ một cách chắc chắn thì lời giáo viên nói chỉ như “ nước đổ lá khoai”, mà học sinh viết sai vẫn viết sai. Điều tôi muốn nói ở đây là giáo viên hướng dẫn học sinh nắm quy tắc phải thật khéo léo và phải cho học sinh hiểu thật nhuần nhuyễn.
6 / Sửa sai cho học sinh:
Để sửa lỗi sai cho các em, tôi tổng hợp lỗi của các em thường mắc thông qua chấm bài đọc chính tả cho các em viết . Từ đó có biện pháp sửa sai.
* Nếu viết sai do các hiện tương chính tả ngoại lệ, võ đoán, không gắn với quy luật, quy tắc nào như không phân biệt d/ gi; tr / ch; l / n ; s / x; do cách phát âm của địa phương thì sửa sai bằng cách:
* Hướng dẫn phát âm:
+cho các em phát âm lại nhiều lần.
+ So sánh cặp nghĩa tương đồng.
+ Đọc và viết các từ có chữ viết sai.
Ví dụ: phân biệt ch / tr
+Đọc âm tr: cong đầu lưỡi, mở miệng cho hơi thoát ra mạnh.
+ Đọc âm ch: đầu lưỡi đẩy ra chạm hai hàm răng, hơi thoát ra nhẹ hơn.
+ Phân biệt cặp nghĩa đối lập chanh / tranh
chanh có nghĩa là cây có quả nhiều nước, vị chua.
Tranh có nghĩa là tranh giành.
+ Đọc các từ có nhiều âm tr: tre trẻ, trong trắng, …
+ Đọc các từ có nhiều âm ch:chim chích, chảo chiên,…
+ Đọc các từ có cả hai âm:chính trực, …
+ Cho các em viết lại các từ viết là ch hay tr để ghi nhớ.
* Hướng dẫn các em một số “ mẹo ”chính tả như:
- Viết là ch nếu chúng chỉ những đồ dùng trong gia đình: chai, chén,chiếu, chảo, chăn,…hoặc chỉ những người có quan hệ anh em, ruột thịt với nhau cũng được viết là ch như: cha, chú, chị, cháu,…
- Để cung cấp“ mẹo” chính tả, tôi cho các em tìm từ rồi cho các em nhận xét. Sau đó tôi mới kết luận và rút ra.
Ví dụ: Tìm các từ viết là ch chỉ những đồ dùng trong gia đình các em?
Học sinh tìm, rồi tôi kết luận và nhắc lại.
*Nếu sai do không nắm vững cấu trúc âm tiết thì sửa sai cho các em bằng cách: Hướng dẫn các em nắm lại cấu trúc âm tiết.
Đây là những em đọc yếu thường mắc lỗi này thì hướng dẫn các em phân tích cấu tạo tiếng.
Ví dụ: ngang / ngan
ngang = ng + ang
ngan = ng + an
phân tích rút ra, tiếng ngang có âm ng đứng cuối vần. Tiếng ngan có âm n đứng cuối vần.
*Sai do không nắm vững quy tắc chính tả thì chỉ cần củng cố lại quy tắc cho các em thông qua bài tập như tôi đã nêu ở trên.
Với các em lớp Một dạy cho các em nhớ từng chữ một là rất có hiệu quả trong việc giảm sai lỗi. Cho các em rèn viết lại những chữ hay viết sai vào giờ rèn viết buổi chiều hay làm thêm bài tập chính tả để củng cố.
Ví dụ: Nhiều em viết sai chữ có vần ay, thì tôi rèn cho các em viết: “Một số chữ có vần ay cần ghi nhớ.”
“ Trâu hay chẳng ngại cày trưa. Ra tay gạo xay ra cám. Ăn cơm với cáy thì gáy o o. Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy.” Sau đó hỏi học sinh: Trong ngữ liệu này chữ nào có vần ay? Chữ nào có phụ âm đầu viết là tr, x? Chữ nào có dấu hỏi, dấu ngã? Sau đó, tôi cho các em đọc và viết lại tổ hợp từ trên. Cứ từng bài như vậy hình thành trong các em ý thức đầy đủ cả ba bộ phận chữ có thể mắc lỗi và lược bớt dần lỗi chính tả cho các em. Giúp các em nhớ được mặt chữ và viết đúng chính tả. Qua đó, phát huy được vai trò tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của các em trong quá trình học tập.
Hình ảnh thị giác về đường nét, cấu tạo của chữ viết, càng in sâu trong trí nhớ bao nhiêu,các em càng ít sai bấy nhiêu.
Muốn “ chống quên” mặt chữ , người viết phải được “ gặp gỡ ”, “ diện kiến” nó nhiều lần. Đó chính là quy trình luyện tập để nâng dần kĩ năng, kĩ xảo chính tả.
* Hiểu nghĩa từ là một trong những cơ sở quan trọng giúp người đọc viết đúng chính tả. Vì vậy khi dạy Học vần, Tập đọc hay học Chính tả thì giáo viên nên giúp các em hiểu nghĩa từ. Giúp các em có những khái quát về một số hiện tượng chính tả như: “gi” thường được dùng với những từ có ý nghĩa như: giành giật, tranh giành, giành phần, trong khi “ d” dùng trong những từ như: để dành, dành giụm, mặc dù “gi” và “d” cùng thể hiện một âm / z /.
*Hướng dẫn học sinh sửa lỗi và rèn cho học sinh khả năng và ý thức thường xuyên tự nhận ra lỗi và tìm cách sửa lỗi.
Đây là một phương hướng học chính tả hữu ích đối với học sinh. Bởi vì lầm lỗi là một phần tất yếu trong quá trình học tập và sửa sai là một phần quan trọng của giảng dạy. Hướng dẫn các em tự nhận ra lỗi sai của mình hay của bạn và phân tích trường hợp sai chính tả. Từ đó hướng dẫn các em tự sửa lỗi. Đây là phương pháp tiêu cực nhưng tạo ra tác dụng tích cực và có ý nghĩa đối với người học.
Thật vậy, tự sửa được lỗi, giúp cho các em sử dụng tiếng đang học càng ngày càng chính xác hơn.
7 / Sử dụng hình thức tuyên dương, động viên và khuyến khích.
Mỗi người chúng ta, khi nhận được lời khen ngợi, động viên, ai cũng thấy thích , tinh thần thoải mái hơn, càng cố gắng hơn trong công việc, học tập. Với học sinh lớp Một, các em càng thích được cô khen. Mỗi khi chấm bài chính tả xong, tôi thường tuyên dương trước lớp những em có bài viết đúng, đẹp, không mắc lỗi, khen những em đã có sự tiến bộ. Trước khi các em viết bài, tôi thường khuyến khích các em như: “ Cô xem hôm nay em nào viết đúng, đẹp đạt điểm 10 nhé!”. Những lời động viên, khuyến khích như vậy giúp các em chăm chú học bài và học tiến bộ nhiều. Cũng có khi kèm theo lời khen ngợi là một phần thưởng nhỏ như vài cái bánh, kẹo hay một cây bút chì. Các em rất vui mừng và thi đua học tập.
8/ Phối hợp với gia đình học sinh.
Có được sự kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình học sinh thì kết quả học tập của các em sẽ tiến bộ nhanh.
Vì vậy, ngay buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã trao đổi với phụ huynh để phụ huynh rèn đọc, rèn viết chính tả thêm ở nhà cho các em. Những em phát âm sai, viết sai chính tả, đọc yếu, tôi gặp phụ huynh trao đổi cách hướng dẫn các em cho phụ huynh kèm ở nhà và tôi thấy các em tiến bộ lên rõ rệt.
Tóm lại: Rèn viết đúng chính tả cho học sinh lớp Một là quan trọng, nó đặt nền móng đầu tiên để mang lại kết quả mới cho giáo dục.
Để học sinh viết đúng chính tả, không phải chỉ dạy ở môn Chính tả, mà là sự kết hợp của cả một quá trình tổng hợp nhiều môn học như : Học vần, Tập đọc,.. Đòi hỏi giáo viên phải kiên trì rèn luyện cho các em ,uốn nắn, sửa sai cho các em từng nét chữ. Biết các em cần gì để bổ sung, cái gì có rồi thì không bổ sung nữa. Tránh tình trạng cái thừa vẫn thừa, cái thiếu vẫn thiếu. Tức là người giáo viên khi dạy Chính tả phải thống kê được số lỗi các em mắc và tìm nguyên nhân để sửa sai tận gốc mà không sửa chung chung, mới mang lại kết quả cao. Dạy các em bằng cả lương tâm, trách nhiệm và tâm huyết với nghề nghiệp thì mới có thể mang lại kết quả cao cho giáo dục.
D/ Hiệu quả
Căn cứ vào tiến trình bài dạy, kết quả bài viết chính tả của học sinh. Tôi thấy, học sinh lớp tôi viết chính tả ( nghe viết) đúng, ít sai lỗi, nhiều em viết đẹp, biết cách trình bày một đoạn văn, đoạn thơ đúng mẫu. Không chỉ riêng bản thân tôi nhận thấy điều đó, mà các thầy cô trong tổ khối 1 đều khen lớp tôi viết đúng, đẹp. Các em có ý thức cao trong học tập. Có lần, tôi cố ý viết lên bảng một chữ sai chính tả, các em đã thi nhau nói: “Cô viết sai rồi, không phải như vậy.” Có được kết quả như vậy là do tôi đã nắm vững nội dung, chương trình, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, kết hợp với những kinh nghiệm thực tế nhiều năm dạy lớp Một.
Cụ thể kết quả như sau: Tôi lấy kết quả một tiết dạy của lớp tôi sau khi áp dụng đề tài trên so với tiết dạy của đồng nghiêp, cùng một bài dạy, kết quả đạt được như sau:
Tổng số: 39 học sinh | Kết quả của tôi | Kết quả của đồng nghiệp |
Số học sinh đạt điểm 9 và 10 | 27 học sinh = 69,23 % | 18 học sinh = 46,15 % |
Số học sinh đạt điểm 7 và 8 | 9 học sinh = 23,1 % | 13 học sinh = 33,34% |
Số học sinh đạt điểm 5 và 6 | 3 học sinh = 7 % | 8 học sinh = 20,51 % |
Số học sinh đạt điểm dưới 5 | 0 | 0 |
Như vậy, kết quả hai lớp đều đạt yêu cầu nhưng kết quả học tâp của học sinh có sự chênh lệch. Do áp dụng các biện pháp trong đề tài mà tôi đã nâng cao được chất lượng học tập của học sinh trong lớp. Đúng là “ Có công mài sắt có ngày nên kim”. Trong năm học này, tôi cũng đang áp dụng những kinh nghiệm đó với mong muốn kết quả đạt được sẽ cao hơn năm trước.
KẾT LUẬN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã đọc và tìm hiểu nội dung , phương pháp dạy học Chính tả sẽ là những hành trang giúp tôi dạy tốt phân môn Chính tả. Qua đó, tôi cũng rút ra cho mình một số kinh nghiệm để rèn cho học sinh viết đúng chính tả.
Để dạy tốt phân môn chính tả, giúp học sinh tích cực học tập, không còn thấy nhàm chán bởi tính chất của môn học nữa.Trước hết giáo viên phải nắm vững tiến trình lên lớp của bài chính tả. Chuẩn bị bài chu đáo. Phối hợp hài hoà các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục.Giúp cho học sinh đều có ý thức về lỗi chính tả và cách phòng tránh lỗi.
Qua nhiều năm dạy lớp một, tôi đã đúc kết cho mình những kinh nghiệm rèn cho học sinh lớp Một viết đúng chính tả. Do áp dụng những kinh nghiệm rèn viết đúng chính tả cho học sinh mà tôi thực hiện hàng ngày nên kết quả bài viết chính tả của lớp tôi đã đạt cao hơn rõ rệt so với lớp khác. Bước đầu đã thu được kết quả cao. Nó đã thôi thúc, động viên tôi cần phải nổ lực hơn nữa, không ngừng học hỏi, nghiên cứu, hoàn thiện mình hơn nữa, để gặt hái được những sản phẩm tối ưu nhất, góp phần “ ươm mầm non tương lai cho nước nhà”.
Đề tài có thể áp dụng thường xuyên trong quá trình dạy học.
* Ngoài những kinh nghiệm nêu trên, tôi có hướng phát triển tiếp theo là:
Xây dựng một số bài tập làm trò chơi củng cố cuối tiết học của phân môn Chính tả nhằm khắc phục lỗi chính tả do cách phát âm địa phương.
* Do điều kiện về thời gian và trình độ còn hạn chế, nên chắc chắn đề tài này không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp gần xa, cũng như quý cấp để đề tài này tiếp tục được hoàn thiện tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Bình Dương, ngày 10 tháng 02 năm 2014
Người viết
Hoàng Thị Thu Hương
Nhắn tin cho tác giả Trường Tiểu Học An Binh B @ 11:40 25/07/2014 Số lượt xem: 4872 Số lượt thích: 1 người (Hoàng Thị Xuân)Từ khóa » Thơ 7 Chữ Lùi Vào Mấy ô
-
Tuần 4 - Chính Tả Nhớ - Viết: Truyện Cổ Nước Mình - Tiếng Việt 4
-
Giáo án Các Môn Lớp 3 - Tuần 8 - Thứ 6
-
Chính Tả - SlideShare
-
Giáo án Tiếng Việt 3 Tuần 3: Chính Tả - Tập Chép: Chị Em - Tìm đáp án,
-
Giáo án Bài Chính Tả - Tập Viết Tiếng Việt Trải Nghiệm Lớp 2 Sách Cánh ...
-
Giáo án Bài Chính Tả - Tập Viết Môn Tiếng Việt Sách Cánh Diều
-
Thơ 8 Chữ Thì Lùi Mấy ô - Hoc24
-
THƠ 7 CHỮ - Tri Âm Quán
-
Giáo án Chính Tả Lớp 1 - Tuần 29
-
Giáo án Chính Tả Lớp 3 Cả Năm đã Chỉnh Sửa - Tài Liệu Text - 123doc
-
Song Thất Lục Bát – Wikipedia Tiếng Việt
-
Tập Làm Thơ 7 Chữ - Tập Làm Văn 8 - Tải Tài Liệu Miễn Phí
-
Nhắc Lại Cách Viết Các Dòng Thơ Lục Bát