Kinh Tế – Xã Hội Việt Nam 3 Năm 2001-2003 - Tổng Cục Thống Kê

  1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ-XÃ HỘI 2001-2003

1.1.  Phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 19 tháng 4 năm 2001 đến ngày 22 tháng 4 năm 2001 đã thảo luận và nhất trí thông qua một số văn kiện quan trọng, trong đó có Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 với mục tiêu tổng quát là: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói; giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

Mục tiêu tổng quát nêu trên được cụ thể hoá thành định hướng phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu sau:

  • Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn 5 năm trước và có bước chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo.
  • Phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo; củng cố kinh tế tập thể; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công nghệ trong sản phẩm.
  • Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn.
  • Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương.
  • Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính-tiền tệ, tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia, thực hành triệt để tiết kiệm; tăng tỷ lệ chi ngân sách dành cho đầu tư phát triển; duy trì ổn định các cân đối vĩ mô; phát triển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội.
  • Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức.
  • Giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc: Tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn; cải cách cơ bản chế độ tiền lương; cơ bản xoá đói, giảm nhanh hộ nghèo; chăm sóc tốt người có công; an ninh xã hội; chống tệ nạn xã hội.Phát triển mạnh văn hoá, thông tin, y tế và thể dục thể thao; nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
  • Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, đổi mới và nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước. Đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng. Thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở xã, phường và các đơn vị cơ sở.
  • Thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh; bảo đảm trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế-xã hội.

Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu tổng quát và các nhiệm vụ chủ yếu, Đại hội cũng đã đưa ra một số chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế-xã hội trong 5 năm 2001-2005 là:

  • Đưa tổng sản phẩm trong nước năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,8; dịch vụ tăng 6,2%.
  • Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm; giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm.
  • Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
  • Đến năm 2005 tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước chiếm 20-21%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 38-39%; tỷ trọng các ngành dịch vụ chiếm 41-42%.
  • Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80% và tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 45% vào năm 2005. Tiếp tục củng cố và duy trì mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
  • Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,5%o; tốc độ tăng dân số vào năm 2005 khoảng 1,2%. Nâng tuổi thọ bình quân lên đạt 70 tuổi vào năm 2005.
  • Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.
  • Cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% vào năm 2005. Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh sản xuất trong nước. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 22-25% vào năm 2005. Cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn.

1.2.  Tình hình kinh tế-xã hội 3 năm 2001-2003

Việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2001-2005 với phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là kế hoạch 5 năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010. Khi triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm này, thuận lợi cơ bản là sau 15 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước ta cũng như kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều đã được tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, khó khăn cũng không phải là ít. Trong khi nền kinh tế nước ta còn nhiều mặt yếu kém, kinh tế thế giới chưa ra khỏi trì trệ thì lại phải đối phó với những tác động tiêu cực của khủng bố quốc tế liên tiếp xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực; của chiến tranh ÁP-ga-ni-xtan, chiến tranh I-rắc và đặc biệt là của dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp SARS. Những thuận lợi và khó khăn đó đã làm cho tình hình kinh tế-xã hội 3 năm 2001-2003 của nước ta vừa diễn biến theo chiều hướng tích cực với nhiều thành tựu mới, vừa bộc lộ rõ những mặt hạn chế và bất cập, thể hiện bằng những số liệu thống kê chủ yếu dưới đây.

1.2.1. Những thành tựu mới

a/ Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997 đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong những năm 1992-1997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8-9% đã đột ngột giảm xuống chỉ còn tăng 5,8% vào năm 1998 và tăng 4,8% vào năm 1999. Năm 2000 chúng ta chặn được sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng và năm 2001 đã đưa tổng sản phẩm trong nước tăng 6,89%; năm 2002 tăng 7,04% và sơ bộ ước tính năm 2003 có thể đạt tốc độ tăng 7,24%. Tính ra trong 3 năm 2001-2003, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 7,06%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,42%/năm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,08%/năm; khu vực dịch vụ tăng 6,37%/năm.

Những số liệu về tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 3 năm 2001-2003 nêu trên cho thấy: (1) Nền kinh tế nước ta đã lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ tăng  năm sau hơn cao hơn năm trước; (2) Tốc độ tăng bình quân mỗi năm trong 3 năm 2001-2003 đạt 7,06% không những cao hơn hẳn tốc độ tăng bình quân 6,95% mỗi năm  trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 mà còn đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới (Theo số liệu công bố của Ngân hàng Phát triển châu Á tháng 5/2003 thì tăng trưởng kinh tế của châu Á trừ Nhật Bản năm 2001 đạt 4,5%; năm 2002 đạt 5,7% và năm 2003 đạt 5,3%, trong đó 3 tốc độ tăng tương ứng của Trung Quốc là 7,2%, 7,9% và 7,2%; Ấn Độ là 5,4%, 5,0% và 5,3%; Hàn Quốc là 3,0%, 6,2% và 4,1%; Thái Lan là 1,8%, 4,5% và 3,5%; Ma-lai-xia là 0,4%, 5,1% và 3,5%; Phi-li-pin là 3,2%, 3,0% và 3,5%.Sở dĩ tổng sản phẩm trong nước đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá cao. Trong 3 năm 2001-2003, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bình quân mỗi năm tăng 5,3%, trong đó nông nghiệp tăng 4,3% mỗi năm, lâm nghiệp tăng 1,5%/năm và thuỷ sản tăng 11,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15% mỗi năm, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,1%/năm, khu vực ngoài quốc doanh tăng 19,8%/năm và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,6%/năm; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ theo giá thực tế năm 2001 đạt 245,3 nghìn tỷ đồng, tăng 11,3% so với năm 2000 và năm 2002 đạt 272,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm 2001; kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đạt trên 15 tỷ USD, tăng 3,8% so với năm 2000; năm 2002 đạt 16,7 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001 và sơ bộ ước tính năm 2003 đạt 19,5 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2002.

Trong 3 năm 2001-2003, kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối cao mà cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu phân chia nền kinh tế thành 3 khu vực: (1) Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; (2) Công nghiệp và xây dựng; (3) Dịch vụ, thì tỷ trọng giá trị tăng thêm theo giá thực tế chiếm trong tổng sản phẩm trong nước của khu vực công nghiệp và xây dựng đã không ngừng tăng lên qua các năm: Năm 2000 chiếm 36,73%; 2001 chiếm 38,13%; 2002 chiếm 38,55% và sơ bộ ước tính năm 2003 chiếm 40,5%. Đáng chú ý là, trong những năm vừa qua do đẩy mạnh việc tổ chức, sắp xếp lại và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nên mặc dù số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm nhiều nhưng tỷ trọng của khu vực này trong tổng sản phẩm trong nước vẫn duy trì ở mức trên 38% (Năm 2001 chiếm 38,40% và năm 2002 chiếm 38,31%). Kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển nên đã chiếm gần 48%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy phát triển nhanh nhưng năm 2001 mới chiếm 13,75% và năm 2002 cũng chỉ chiếm 13,91% tổng sản phẩm trong nước. Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng hình thành các vùng động lực phát triển kinh tế, vùng chuyên canh và các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất.

b/ Vốn đầu tư phát triển và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể

Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực; đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái và đưa các chương trình phát triển kinh tế-xã hội khác vào cuộc sống.

Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển như vậy nên trong những năm vừa qua chúng ta đã có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội lực và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn cho đầu tư phát triển. Nhờ vậy, tổng số vốn đầu tư phát triển 3 năm 2001-2003 theo giá thực tế đã đạt 564928 tỷ đồng, bằng 95,8% tổng số vốn đầu tư phát triển huy động được trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tính ra, vốn đầu tư phát triển bình quân mỗi năm trong 3 năm 2001-2003 đạt 188295 tỷ đồng, bằng 159,7% mức bình quân mỗi năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000.

Nếu  tính theo giá so sánh 1994 thì tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển bình quân mỗi năm trong 3 năm 2001-2003 là 13,5%, trong đó vốn của khu vực kinh tế Nhà nước tăng 12,9%/năm; vốn của khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,0%; vốn của khu vực đầu tư nước ngoài tăng 9,4%/năm. Đáng chú ý là, các Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân đã thực sự đi vào cuộc sống. Do vậy, vốn đầu tư phát triển của khu vực ngoài quốc doanh theo giá so sánh năm 1994 bình quân mỗi năm trong 5 năm 1996-2000 chỉ tăng 8,1%, nhưng trong 3 năm 2001-2003 đã tăng 18% (Năm 2001 tăng 11%; 2002 tăng 18,3% và ước tính năm 2003 tăng 25%). Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực này theo giá thực tế chiếm trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã tăng từ 23,5% năm 2001 lên 25,3% năm 2002 và 26,7% năm 2003. Do đẩy mạnh đầu tư nên trong 2 năm 2001-2002 giá trị tài sản mới tăng theo giá thực tế đã đạt 225,6 nghìn tỷ đồng; bình quân mỗi năm 112,8 nghìn tỷ đồng, bằng 140,9% mức bình quân năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000.

Trong 2 năm 2001-2002, ngành giao thông vận tải đã cải tạo, nâng cấp và làm mới 4567 km đường quốc lộ và các đường nhánh, 454 km đường sắt, 35937m cầu đường bộ và 4690m cầu đường sắt; ngành điện cũng đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 2548 MW công suất điện, 1026 km đường dây 220kv, 1370 km đường dây 110kv và 5421MVA công suất các trạm biến áp.

Ngành bưu điện tiếp tục tăng tốc đầu tư và đổi mới công nghệ nên đã lắp đặt được 6,2 triệu máy điện thoại cố định cho các hộ thuê bao, bình quân 7,6 máy/100 dân. Hiện nay, cả nước có 8356 xã có điện thoại lắp đặt tại Văn phòng Uỷ ban, trong đó 42/61 tỉnh, thành phố có 100% số Uỷ ban xã có lắp đặt điện thoại. Tổng công ty Bưu chính Viễn thông đã đầu tư xây dựng trên 7 nghìn điểm bưu điện trên địa bàn nông thôn, rút ngắn bán kính phục vụ của mỗi điểm xuống chỉ còn 2,9 km, tương đương mức của các nước trong khu vực. Nhờ vậy, 7881 xã trong cả nước đã có báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân và báo Đảng địa phương đến tay người đọc trong ngày.

Cơ sở hạ tầng dịch vụ của ngành y tế và ngành giáo dục trong những năm vừa qua cũng đã tăng lên đáng kể, nhất là ở các xã, phường. Năm 2002 cả nước có 98,5% số xã, phường có trạm y tế. Năm học 2002-2003 các địa phương đã đầu tư xây dựng thêm 2239 phòng học cho các lớp mầm non và 85466 phòng học cho các lớp phổ thông. Tỷ lệ phòng học tranh tre nứa lá của bậc tiểu học đã giảm từ 20,3% trong năm học 2000-2001 xuống còn 18,1% trong năm học 2002-2003; của trung học cơ sở giảm từ 10,2% xuống còn 8,8% và của trung học phổ thông cũng giảm từ 5,8% xuống 4,2%.

c/ Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện và xoá đói giảm nghèo đạt kết quả quan trọng

Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá, giá cả ổn định và việc điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 180 nghìn đồng cuối năm 2000 lên 210 nghìn đồng đầu năm 2001 và 290 nghìn đồng đầu năm 2003 cùng với việc triển khai nhiều chương trình xoá đói giảm nghèo nên đời sống các tầng lớp dân cư ở cả thành thị và nông thôn nhìn chung tiếp tục được cải thiện.

Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002 do Tổng cục Thống kê tiến hành thì trong năm 2001-2002 thu nhập bình quân 1 người 1 tháng theo giá thực tế đã đạt 356,8 nghìn đồng, tăng 21% so với năm 1999, trong đó khu vực thành thị đạt 625,9 nghìn đồng, tăng 21,1%; khu vực nông thôn đạt 274,9 nghìn đồng, tăng 22,2%; chi tiêu hàng ngày cho đời sống bình quân 1 người 1 tháng là 268,4 nghìn đồng, tăng 21,4% so với năm 1999, trong đó khu vực nông thôn 210 nghìn đồng, tăng 18%.

Những hộ có thu nhập tương đối cao ngoài chi tiêu cho đời sống hàng ngày còn có tích luỹ xây dựng nhà ở, mua sắm đồ dùng đắt tiền, sử dụng điện, nước máy và chi các khoản khác góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Cũng theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002 nêu trên thì tại thời điểm điều tra, 17,2% số hộ có nhà kiên cố; 58,3% số hộ có nhà bán kiên cố và tỷ lệ nhà tạm đã giảm từ 26% năm 1997-1998 xuống còn 24% năm 2001-2002. Tỷ lệ hộ có xe máy tăng từ 24% năm 1997-1998 lên 32,33% năm 2001-2002; tỷ lệ hộ có ti vi tăng từ 58% lên 67%; tỷ lệ hộ dùng điện tăng từ 77% lên 86%; tỷ lệ hộ sử dụng nước máy tăng từ 15% lên 17,6%; tỷ lệ hộ có hố xí tự hoại và bán tự hoại tăng từ 16,7% lên 25,5%…

Trên cơ sở kết quả thu nhập bình quân 1 người 1 tháng thu thập được trong cuộc điều tra nêu trên, Tổng cục Thống kê đã tính ra tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm năm 2001-2002 và so sánh với năm 1999 thì thấy rằng, tính chung cả nước tỷ lệ này đã giảm từ 13,33% năm 1999 xuống còn 9,96% năm 2001-2002, trong đó tỷ lệ nghèo của khu vực thành thị giảm từ 4,61% xuống 3,61%; của khu vực nông thôn giảm từ 15,96% xuống 11,99%.

Cũng dựa trên kết quả của cuộc điều tra nêu trên nhưng tính theo chi tiêu cho đời sống bình quân 1 người 1 tháng của các hộ gia đình, Ngân hàng Thế giới đã đánh giá rằng, tỷ lệ nghèo chung của nước ta (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực thực phẩm) đã giảm từ 37,37% năm 1997-1998 xuống còn 28,9% năm 2001-2002, trong đó tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm giảm từ 15% xuống 10,9%. Theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thì tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta cũng đã giảm từ 16,1% năm 2001 xuống 14,5% năm 2002 và 12% năm 2003.

Khi quan sát các số liệu về thu nhập và chi tiêu của dân cư, có một vấn đề đặt ra là, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ở nước ta vẫn tiếp tục roãng ra. Thu nhập của 20% số hộ có thu nhập cao nhất so với thu nhập của 20% số hộ có thu nhập thấp nhất năm 1994 gấp 6,5 lần; năm 1995 gấp 7,0 lần; năm 1996 gấp 7,3 lần; năm 1999 gấp 7,6 lần và năm 2001-2002 gấp 8,1 lần. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với một số nước trong khu vực và thế giới thì khoảng cách chênh lệch này ở nước ta hiện nay chưa phải là đã quá cao (Năm 1997 khoảng cách chênh lệch giàu nghèo của Malaixia là 12,4 lần; Philipin là 9,8 lần và Mỹ là 9 lần). Mặt khác, ngay trong bối cảnh khoảng cách chênh lệch giàu nghèo roãng ra này thì thu nhập bình quân đầu người một tháng của các hộ nghèo cũng đã tăng từ 97 nghìn đồng năm 1999 lên 107,7 nghìn đồng năm 2001-2002 và tỷ lệ hộ nghèo đã giảm như dẫn ra ở trên.

Khi khoảng cách chênh lệch giàu nghèo roãng ra thì sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm dân cư sẽ tăng lên. Để đánh giá mức độ bất bình đẳng này, Ngân hàng Thế giới thường tính toán tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất chiếm trong tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư. Nếu tỷ trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao; nằm trong khoảng 12-17% là có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17% là có sự tương đối bình đẳng. Trên cơ sở kết quả các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình do Tổng cục Thống kê tiến hành những năm gần đây đã tính ra tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư  năm 1999 là 18,7% và năm 2001-2002 là 19%. Như vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập ở nước ta tuy có tăng nhưng với mức độ rất thấp và phân bố thu nhập trong các nhóm dân cư hiện nay ở mức tương đối bình đẳng.

Tổng cục Thống kê cũng đã lấy ý kiến của 28793 cán bộ lãnh đạo chủ chốt của xã phường thuộc tất cả 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về mức sống dân cư năm 2002 so với 5 năm trước đó. Kết quả phỏng vấn cho thấy có tới 96,3% ý kiến cho rằng đời sống đã được nâng lên; số ý kiến đánh giá đời sống vẫn như cũ và giảm sút chỉ có 3,7%. Báo cáo năm 2002 của Tổ chức Lương thực Thế giới WFP khẳng định, Việt Nam đã đảm bảo an ninh lương thực đủ cho mọi người dân và WFP tự thấy đã có thể chấm dứt chương trình ở Việt Nam. Trong báo cáo năm 2002 của mình, UNDP cũng đã xếp Việt Nam vào danh sách những quốc gia dẫn đầu các nước đang phát triển về thành tích giảm nghèo.

Thành tựu về mức sống kết hợp với thành tựu về giáo dục và y tế được thể hiện rõ trong chỉ tiêu chất lượng tổng hợp HDI. Theo tính toán của UNDP thì chỉ số này của nước ta đã tăng từ 0,583 năm 1985 lên 0,605 năm 1990; 0,649 năm 1995 và 0,688 năm 2003. Nếu xếp thứ tự theo chỉ số này thì nước ta từ vị trí thứ 122/174 nước năm 1995 lên vị trí 113/174 nước năm 1998; 110/174 nước năm 1999 và 109/175 nước năm 2003.

1.2.2. Hạn chế và bất cập

Bên cạnh những thành tựu mới đạt được như trên, diễn biến kinh tế-xã hội 3 năm 2001-2003 vẫn còn nhiều mặt hạn chế và bất cập, nổi bật nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm trong 3 năm vừa qua mới đạt 7,06%/năm, thấp hơn mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001-2005 là tăng bình quân mỗi năm 7,5%.

Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt được mục tiêu đề ra, nhưng trước hết là do thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Nước ta tuy có quy mô dân số lớn và thu nhập của dân cư đã tăng lên, nhưng nhìn chung sức mua của thị trường trong nước còn hạn hẹp, trong khi đó hàng hoá, dịch vụ lại thiếu sức cạnh tranh nên xuất khẩu cũng bị hạn chế. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân  mỗi năm trong 3 năm 2001-2003 chỉ đạt 10,4% so với mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001-2005 là tăng 16%/năm. Thực tế những năm đổi mới ở nước ta cho thấy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu là rất chặt chẽ. Sở dĩ trước đây nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng 8-9% mỗi năm một phần là do kim ngạch xuất khẩu hàng năm thường tăng trên dưới 30% (Năm 1994 tăng 35,8%; 1995 tăng 34,4%; 1996 tăng 33,2%; 1997 tăng 26,6%).

Một nguyên nhân quan trọng khác và được coi là nguyên nhân chủ yếu nhất làm hạn chế tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế nước ta những năm vừa qua và có thể còn tác động mạnh trong những năm tới, đó là do khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm. Cơ cấu kinh tế của nước ta tuy chuyển dịch theo hướng tiến bộ và tích cực, nhưng nhìn chung vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương đối cao của khu vực sản xuất vật chất nói chung và của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản nói riêng. Trong chiến lược đổi mới cơ cấu ngành, tuy chúng ta không coi nhẹ khu vực dịch vụ, nhưng chưa tập trung đầu tư thích đáng trí lực, vật lực và tài lực cho những ngành dịch vụ có khả năng tạo ra bước đột phá nên tốc độ tăng của khu vực này thường thấp hơn tốc độ tăng chung của toàn bộ nền kinh tế (Năm 2001 tổng sản phẩm trong nước tăng 6,89% nhưng giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ chỉ tăng 6,10%. Hai chỉ tiêu tương ứng của năm 2002 là 7,04% và 6,54%; ước tính năm 2003 là 7,24% và 6,46%).

Theo kinh nghiệm của các nền kinh tế NICs Đông Á thì nông nghiệp chỉ nên được quan tâm trong những buổi đầu cất cánh, chủ yếu là thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Phần lớn thời gian và phần lớn những ưu tiên phải hướng về tăng trưởng công nghiệp và sau đó phải tập trung vào hình thành và phát triển mạnh mẽ những ngành dịch vụ mũi nhọn. Nền kinh tế Hàn Quốc và Đài Loan khởi đầu là nông nghiệp, nhưng khi bắt tay vào cơ cấu lại nền kinh tế của mình, hai nền kinh tế này đều không đặt ra vấn đề phải phát triển nông nghiệp toàn diện mà chỉ phát triển  một số loại cây trồng vật nuôi có lợi thế cạnh tranh, các nguồn lực còn lại đều dồn cho công nghiệp và nhất là cho dịch vụ. Do vậy, trong những ngày đầu cất cánh, khu vực dịch vụ của Hàn Quốc và Đài Loan luôn luôn đạt tốc độ tăng 9-10% mỗi năm và cơ cấu kinh tế theo ba khu vực: (1) Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; (2) Công nghiệp và xây dựng; (3) Dịch vụ của Hàn Quốc năm 1967 là 30,7%; 26,3% và 43,0% thì năm 2001 là 4,0%; 41,5% và 54,5%. Cơ cấu kinh tế của Đài Loan cũng chuyển từ quan hệ tỷ lệ 35,5%; 23,9% và 43,6% năm 1951 sang 1,9%; 30,9% và 67,2% năm 2000.

Sự phân tích trên cho thấy, trong những năm tới chúng ta có thể và cần đưa ra chiến lược và các giải pháp hợp lý, đồng bộ thúc đẩy khu vực dịch vụ phát triển, trước hết là khai thác lợi thế so sánh phát triển dịch vụ tài chính, dịch vụ cảng biển, dịch vụ hàng không, dịch vụ bưu chính viễn thông và dịch vụ du lịch. Sự phát triển của các ngành dịch vụ này không chỉ làm cho khu vực dịch vụ tăng trưởng nhanh mà còn tác động tích cực đến sự phát triển của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng như khu công nghiệp và xây dựng.

Khái quát lại, tình hình kinh tế-xã hội nước ta trong 3 năm 2001-2003 tiếp tục diễn biến theo chiều hướng tích cực, kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ sở hạ tầng và dịch vụ được tăng cường, đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện, sự nghiệp văn hoá, giáo dục và y tế thu được những thành tựu mới. Tuy nhiên, nếu so với những mục tiêu Đại hội IX định hướng cho kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 thì một số chỉ tiêu còn đạt mức thấp và nhiệm vụ dồn lại cho 2 năm 2004-2005 là rất nặng nề, nhất là mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Trong 3 năm 2001-2003 tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân mỗi năm mới đạt 7,06% và kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 10,4% mỗi năm. Để hai chỉ tiêu này thực hiện được mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001-2005 là tăng bình quân mỗi năm 7,5% và 16% thì 2 năm 2004-2005, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước phải tăng 8,17% và kim ngạch xuất khẩu phải tăng 24,9%. Trong những năm 1992-1997 tổng sản phẩm trong nước của nước ta đã từng đạt tốc độ tăng bình quân mỗi năm 8,77% và kim ngạch xuất khẩu cũng tăng bình quân 28% mỗi năm, nhưng sau nhiều năm liên tục tăng trưởng với tốc độ cao thì quy mô của nền kinh tế và theo đó là lượng tuyệt đối của 1% tăng lên đã lớn hơn nhiều so với những năm trước đây nên việc phấn đấu thực hiện được các tốc độ tăng trưởng nêu trên là rất khó khăn, đòi hỏi các cấp, các ngành phải có nỗ lực vượt bậc thì mới có thể hoàn thành toàn diện các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 mà Đại hội Đảng IX đã đề ra.

Từ khóa » Tốc độ Tăng Gdp Năm 2003 Của Nhật Bản Là