Làm Thế Nào để Xác định được Sản Phẩm Có Khả Năng Bảo Hộ Sáng ...

Để được bảo hộ sáng chế, sản phẩm của bạn phải đáp ứng các điều kiện sau:

– Thuộc đối tượng có khả năng bảo hộ sáng chế;

– Là một sáng chế;

– Có tính mới;

– Có trình độ sáng tạo.

Vậy, sáng chế là gì?

Nhìn chung, ở nhiều nước, “sáng chế” được mô tả là một giải pháp cho một vấn đề kỹ thuật. Vấn đề này có thể là cũ hay mới, nhưng giải pháp, để đủ điều kiện được gọi là sáng chế, phải là mới. Việc đơn thuần tìm ra một thứ bất kỳ đã tồn tại trong tự nhiên, mà chúng ta thường gọi là phát minh, sẽ không phải là sáng chế. Sáng chế cần có sự can thiệp của con người. Vì vậy, một chất được chiết xuất từ thực vật trong tự nhiên có thể là một sáng chế. Sáng chế không nhất thiết phải là một cái gì đó phức tạp hay công nghệ cao. Thậm chí cái kẹp giấy hay tăm xỉa răng cũng có thể là một sáng chế nếu nó giải quyết được một vấn đề kỹ thuật hiện tại.

Ví dụ như “sáng chế về giấy note” của Spencer Silver (Nguồn hình: wikipedia)

Mặc dù đúng là một số sáng chế là kết quả của một quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D) lâu dài hoặc một sự đầu tư lớn, nhưng bạn vẫn có thể dễ dàng tìm ra ví dụ về các sáng chế đơn giản nhưng vĩ đại trước đây trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống hằng ngày. Nói chung, để được cấp bằng độc quyền, một sáng chế phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau. Nó phải thuộc vào nhóm đối tượng có khả năng bảo hộ sáng chế. Nó phải là mới, nghĩa là có đặc tính mới nào đó mà chưa được biết đến trong kho kiến thức hiện có thuộc lĩnh vực kỹ thuật của nó. Kho kiến thức này được gọi là “tình trạng kỹ thuật”. Sáng chế phải có trình độ sáng tạo, nghĩa là nó không thể được tạo ra một cách dễ dàng bởi người bất kỳ có kiến thức trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật đó. Cuối cùng, nó phải có khả năng áp dụng công nghiệp.

Tính mới

Một sáng chế là mới hay theo thuật ngữ trong pháp luật sáng chế là “có tính mới” nếu có sự khác biệt giữa sáng chế với kiến thức hiện có hoặc “giải pháp kỹ thuật đã biết”.

Có sự khác nhau giữa các nước về “giải pháp kỹ thuật đã biết”. Ở nhiều nước châu Âu, sáng chế bất kỳ được thể hiện trong các tài liệu dạng giấy ở địa điểm bất kỳ trên thế giới hoặc được biết đến hoặc được sử dụng ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đều cấu thành giải pháp kỹ thuật đã biết và do đó, sẽ làm mất tính mới của sáng chế. Do vậy, công bố bản mô tả sáng chế trước khi nộp đơn đăng ký có thể khiến sáng chế của bạn mất đi tính mới về mặt kỹ thuật và không được cấp bằng độc quyền sáng chế.

Ở một số nước khác, việc sử dụng ở nước ngoài sẽ không cấu thành giải pháp kỹ thuật đã biết vì sẽ rất khó để chứng minh điều đó. Ngoài ra, một số nước (ví dụ, Hoa Kỳ) quy định ân hạn 12 tháng tính từ thời điểm tác giả sáng chế bộc lộ sáng chế, theo đó, trong thời hạn này tác giả sáng chế có thể nộp đơn đăng ký cho sáng chế đó mà không bị mất tính mới.

Trình độ sáng tạo (tính không hiển nhiên)

Sáng chế được coi là có “trình độ sáng tạo” nếu nó là không hiển nhiên đối với người bất kỳ có trình độ trong lĩnh vực lĩnh vực kỹ thuật của nó; nói cách khác, một chuyên gia có trình độ trung bình không thể tạo ra sáng chế theo một quy trình thông thường.

Đây là sự kiểm tra mang tính chủ quan và khó giải thích và khó áp dụng. Có một số lượng đáng kể trường hợp mà thẩm định viên và người nộp đơn hoặc luật sư sáng chế không đạt được sự nhất trí về trình độ sáng tạo của sáng chế và quyết định cuối cùng phải được đưa ra tại toà án. Cũng có không ít các quyết định của thẩm định viên của cơ quan sáng chế bị toà án bác bỏ hay quyết định của toà án cấp dưới bị toà án cấp trên bác bỏ.

Theo các quyết định trước đây của toà án, một số ví dụ về những thứ bị coi là thiếu trình độ sáng tạo là: sự thay đổi kích thước đơn thuần; làm cho có thể vận chuyển được; hoán đổi các bộ phận; thay đổi nguyên liệu; sự kết hợp của các bộ phận; hay sự thay thế đơn thuần bởi bộ phận hay chức năng tương đương. Những giải pháp này không được coi là có đủ trình độ sáng tạo để được cấp bằng độc quyền sáng chế. Tuy nhiên, chúng có thể đủ điều kiện để được bảo hộ dưới dạng giải pháp hữu ích.

Khả năng áp dụng công nghiệp

Sáng chế phải có khả năng được chế tạo ra hoặc được sử dụng trong ngành công nghiệp bất kỳ. Nghĩa là sáng chế phải mang hình dạng thực tế của một dụng cụ hay thiết bị, một sản phẩm như nguyên liệu hay chất liệu mới hoặc một quy trình công nghiệp hoặc phương pháp vận hành.

Theo nghĩa rộng nhất, công nghiệp có nghĩa là hình thức hoạt động bất kỳ khác với hoạt động trí tuệ hoặc thẩm mỹ thuần túy. Bản thân một ý tưởng không thể được bảo hộ sáng chế, trừ khi nó là một sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp. Khái niệm “công nghiệp” ở đây bao gồm cả “nông nghiệp”.

Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa là sáng chế

Hơn nữa, không phải tất cả các sáng chế đều có khả năng được bảo hộ sáng chế. Để được bảo hộ, sáng chế phải thuộc các đối tượng có khả năng được baỏ hộ sáng chế. Nếu bạn quan tâm đến việc bảo hộ độc quyền cho sáng chế của mình thì trước tiên bạn phải tìm hiểu các quy định về các đối tượng có khả năng được bảo hộ sáng chế trong pháp luật sở hữu trí tuệ quốc gia vì các quy định này là khác nhau ở mỗi nước.

Phụ thuộc vào pháp luật về sáng chế của mỗi nước, một trong số các đối tượng dưới đây có thể không được bảo hộ với danh nghĩa là sáng chế:

– Các phát minh về vật liệu và chất có trong tự nhiên;

– Lý thuyết khoa học hoặc phương pháp toán học;

– Cây trồng hoặc vật nuôi (hoặc giống của chúng) mà không phải là chủng vi sinh hoặc các quy trình về cơ bản mang bản chất sinh học để sản xuất động vật hoặc thực vật (hoặc giống của chúng) mà không phải là quy trình vi sinh

– Kế hoạch, quy tắc hoặc phương pháp để thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc thực hiệncác hoạt động trí óc đơn thuần hoặc chơi trò chơi;

– Phương pháp chữa bệnh cho người và động vật, hoặc phương pháp chẩn đoán được thực hiện trên người hoặc động vật (mà không phải là các sản phẩm sử dụng trong các phương pháp đó);

– Sáng chế bất kỳ nếu việc ngăn cấm khai thác thương mại là cần thiết để bảo vệ trật tự xã hội, đạo đức hoặc sức khoẻ cộng đồng.

Tổng hợp: HT

Lượt xem: 3.189

Từ khóa » Ví Dụ Về Tính Sáng Tạo Của Sáng Chế