Lên Sông Đà Nhớ Tản Đà Và Nguyễn Tuân - Công An Nhân Dân

  • Di sản của Nguyễn Tuân
  • Những "cận vệ" của nhà văn Nguyễn Tuân
  • Nguyễn Tuấn và những trăn trở về hạnh phúc

Sông Đà còn là nguồn cảm hứng lớn lao của nhiều văn nghệ sĩ, đặc biệt là hai bậc tài danh tiền bối Tản Đà và Nguyễn Tuân sáng tác những tác phẩm giá trị.

Sông Đà bắt nguồn từ cao nguyên Vân Nam của Trung Quốc chảy vào địa phận Việt Nam còn có tên gọi sông Bờ hay Đà Giang. Lúc ầm ào ghềnh thác lúc lượn lờ bãi bồi, sông đi qua các tỉnh thành Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Phú Thọ, Hà Nội.

Địa hình dọc theo sông Đà chủ yếu núi cao vực thẳm hiểm trở, độ dốc dòng chảy lớn, lòng sông sâu, đậm chất phù sa. Khi vừa chảy qua khỏi tỉnh Hoà Bình, sông Đà bị dãy núi Ba Vì chắn ở phía hữu ngạn, phải đổi dòng lao lên phía Bắc chạm chân núi Đá Chông, trước khi hợp với sông Thao và sông Lô tạo thành một dòng chảy sông Hồng đổ ra biển.

Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình

Lịch sử chống Pháp cho biết năm xưa lãnh tụ khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích từng lập căn cứ địa kháng chiến bên sông Đà. Những vần thơ đầy hào khí của vị quan yêu nước cũng cất lên từ đây. Và khi đắm mình vào thế giới văn chương hiện đại thì những trang viết về dòng sông thiêng này của nhà thơ Tản Đà và nhà văn Nguyễn Tuân gây ấn tượng mạnh tâm thức tôi.

Đối với nhà văn Nguyễn Tuân, vùng Tây Bắc xa xôi với sông Đà kỳ bí vốn quen thuộc với ông từ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, ông cùng một vài đồng nghiệp đã có dịp trở lại nơi đây bằng chuyến đi thực tế dài ngày vào năm 1958, sống cùng đồng bào các dân tộc thiểu số, bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân xây dựng cầu đường.

Kết quả là tác phẩm nổi tiếng “Sông Đà” gồm 15 tuỳ bút đặc sắc và 1 bài thơ dang dở đã được trình làng hai năm sau đó, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo và tình yêu con người, thiên nhiên, đất nước của bậc tài danh Nguyễn Tuân.

Vùng đất hai bên bờ sông Đà trên đà đổi mới.

Hơn một năm trước, vào mùa xuân Mậu Tuất 2018, tôi cùng một số bạn bè nương theo con sông Đà lên “tắm mình” vùng non nước Tây Bắc. Hình ảnh bậc thầy Nguyễn Tuân từ 60 năm trước như thấp thoáng đâu đây. Và những câu văn tài hoa quyến rũ của ông viết về sông Đà lại hiện lên trong tôi, nhất là tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” càng đọc càng lôi cuốn bởi sự phát hiện tinh tế, vẻ đẹp ngôn từ tôn thêm vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ và lãng mạn.

“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Những con chữ của Nguyễn Tuân thật tinh tế và tài tình. Ở một đoạn khác, nhà văn so sánh: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô.

Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nhà văn còn có mối giao cảm với thiên nhiên kỳ diệu: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”.

Sông Đà trữ tình và thơ mộng nhưng cũng đầy hiểm trở và hung bạo. Nhiều thác ghềnh dữ dội, như câu ca “Đường lên Mường Lễ bao xa/ Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”. Dưới lòng sông lởm chởm đá ngầm sắc nhọn, phía trên vách đá dựng đứng chót vót chỉ đúng giữa trưa mới thấy được mặt trời. Tất cả được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả rất sắc nét: “Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

Bằng sự khảo cứu công phu từ nguồn tư liệu khan hiếm bấy giờ, nhà văn Nguyễn Tuân còn sớm cho biết sông Đà phát nguyên từ vùng núi non huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc. Sông Đà phía nước bạn có tên Lý Tiên Giang, với phụ lưu chính là Bả Biên Giang. Từ những chuyến điền dã cộng với tư liệu, nhà văn Nguyễn Tuân còn ghi lại tên 50/73 con thác lớn nhỏ trên sông Đà từ núi rừng Lai Châu đến Chợ Bờ của Hoà Bình, nơi in dấu vua Lê Thái Tổ thân chinh đánh giặc Đèo Cát Hãn ở miền Tây trở về năm 1432.

Đặc biệt, nhà văn Nguyễn Tuân còn dự cảm những vùng đất đai hoang vu ven sông Đà của Tây Bắc trong tương lai sẽ được con người khai phá, đường sá được mở, làng mạc và phố xá cùng những công trình sẽ mọc lên với đầy ắp tiếng cười hoà điệu với thiên nhiên. Điều đó bây giờ đã thành hiện thực.

Bên cạnh những công trình thuỷ điện lớn Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu mang lại nhiều lợi ích cho đất nước thì nhiều vùng dân cư đông đúc cũng đã hình thành ven sông Đà, thành lập nên xóm làng, thị trấn, thị xã, thành phố. Và điều gây ấn tượng là hàng loạt cây cầu đã lần lượt được bắc qua sông Đà, nối liền các vùng chia cắt với nhau như cầu Hang Tôm mới nối huyện Nậm Nhùn của tỉnh Lai Châu với thị xã Mường Lay của tỉnh Điện Biên, cầu Đồng Quang nối huyện Thanh Thuỷ của tỉnh Phú Thọ với huyện Ba Vì của Thành phố Hà Nội, cầu Trung Hà nối huyện Tam Nông của tỉnh Phú Thọ với huyện Ba Vì của Hà Nội,…

Mạch nước sông Đà tim róc rách

Nếu như mùa xuân Mậu Tuất 2018 chúng tôi đi dọc sông Đà hướng phía thượng nguồn thì mùa xuân Kỷ Hợi 2019 trở lại sông Đà phía hạ nguồn, nơi ngã ba hợp với sông Lô và sông Thao thành sông Hồng. Về phía hạ nguồn sông Đà chảy giữa Hà Nội và Phú Thọ, qua nhiều dấu tích gắn liền với truyền thuyết nòi giống Rồng Tiên.

Bên tả ngạn là vùng đất Tổ với kinh đô Phong Châu nước Văn Lang xưa của các vua Hùng. Còn phía hữu ngạn sông Đà gắn liền với truyền thuyết về thánh Tản Viên với câu chuyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh cùng những huyền tích khác. Đây cũng là nơi sinh ra Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu, bậc thi bá giữ vị trí cầu nối giữa thơ cũ và thơ mới từ đầu thế kỷ XX của nền văn học Việt Nam hiện đại, mà năm 2019 kỷ niệm 130 năm ngày sinh và 80 năm ngày mất của ông (1889-1939).

Chính nhà văn Nguyễn Tuân đương thời trân trọng viết về bậc đàn anh: “Trong chốn tao đàn Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong hội tài tình Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ, mà làng văn làng báo xứ này ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”.

“Sông Đà núi Tản đúc nên ai, Trần thế xưa nay được mấy người? Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc, Thanh cao phô trắng một nhành mai. Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi, Danh lợi bèo trôi rượu nặng vai.”

Ấy là tâm sự trong bài thơ “Phút giao thừa của nhà thi sĩ” của Tản Đà. Cuộc đời phóng túng và nghèo khó, đôi lúc đến tuyệt vọng của “thần ngông” Tản Đà là hình ảnh tiêu biểu cho một thế hệ kẻ sĩ “sống thừa” bất lực trước thời cuộc, lấy thơ và rượu làm nguồn giải sầu. Nhìn dòng nước xuân sông Đà lặng lờ trôi, trước mặt là dãy Ba Vì uy nghi, tôi lại nhớ tới bài “Ngày xuân thơ rượu” của ông:

“Trời đất sinh ta rượu với thơ Không thơ không rượu sống như thừa Công danh hai chữ mùi men nhạt Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ Mạch nước sông Đà tim róc rách Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ”

Thật buồn và đau! Đến khu tưởng niệm bên sông Đà thắp nén hương tưởng nhớ bậc tài hoa lận đận, trong tôi lại vang lên bài thơ tự trào ngang tàng mà ngậm ngùi của ông:

“Trời sinh ra bác Tản Đà Quê hương thời có cửa nhà thời không Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly Túi thơ đeo khắp ba kỳ Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...”

Quê ông xưa là làng Khê Thượng huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây nay thuộc xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội. Đây là vùng quê trù phú nằm bên sông Đà, xa xa là dãy núi Ba Vì với ngọn Tản Viên sừng sững. Sông Đà núi Tản không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn Nguyễn Khắc Hiếu lấy làm bút danh mà còn là quê hương văn học, đi sâu vào tâm thức và thấm đẫm trên mỗi trang viết của ông.

Bài thơ nổi tiếng “Thề non nước” vừa độc lập vừa nằm trong cuốn tiểu thuyết cùng tên mà nguồn cảm hứng cũng từ quê hương núi Tản sông Đà từng gây nên cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học. Bài thơ trữ tình phảng phất câu chuyện lứa đôi nhưng cốt lõi ẩn chứa tình yêu da diết thiên nhiên, đất nước trước biến thiên của vũ trụ và biến chuyển của cuộc đời mà thi nhân đang tham dự:

“Nước non nặng một lời thề Nước đi đi mãi không về cùng non Nhớ lời nguyện nước thề non Nước đi chưa lại non còn đứng không”

Dù nước mãi đi non mãi ngóng, như sông Đà mãi trôi núi Tản mãi trông, nhưng bằng dự cảm trái tim trước quy luật tuần hoàn, thi sĩ Tản Đà vẫn chất chứa niềm tin vào sự hội tụ của non nước, núi sông: “Dù như sông cạn đá mòn/ Còn non còn nước hãy còn thề xưa/ Non xanh đã biết hay chưa/ Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”.

Từ khóa » Ca Dao Về Sông đà