LÊNIN VỀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ ...
Có thể bạn quan tâm
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ – CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN VỀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2020
PHẦN MỞ ĐẦU
-
Lí do chọn đề tài
Theo đánh giá của VI LêNin thì “Lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của C. Mac”. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối đa của mình họ đã mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư. Các nhà kinh tế học thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bót lột lao động làm thuê. Ta có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động và tư bản chiếm không. Chính vì vậy mà sản xuất giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật thặng dư. Nó quyết định đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư có vai trò rất quan trọng, nó có ý nghĩa rất quan trọng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy mà tôi đã chọn đề tài “Lý luận của kinh tế – chính trị mác – lênin về các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường. liên hệ thực tiễn” cho bài tiểu luận của mình.
-
Mục tiêu nghiên cứu
-
Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận xét, đánh giá. Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tích, tổng hợp.
PHẦN 1. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
-
Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.
Nếu tiền được dùng để mua bán hàng hoá thì chúng là phương tiện giản đơn của lưu thông hàng hoá và vận động theo công thức: Hàng- Tiền- Hàng(H-T-H), nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại chuyển hoá thành hàng. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức: Tiền - Hàng - Tiền (T-H-T), tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng và sự chuyển hoá ngược lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T đều được chuyển hoá thành tư bản.
Do mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng nên vòng lưu thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông của tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông theo công thức T-H-T’, do đó công thức này được gọi là công thức chung của tư bản.
Tiền ứng trước, tức là tiền đưa vào lưu thông, khi trở về tay người chủ của nó thì thêm một lượng nhất định (∆T). Vậy có phải do bản chất của lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm, và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay không? Các nhà kinh tế học tư sản thường quả quyết rằng sự tăng thêm đó là do lưu thông hàng hoá sinh ra. Sự quả quyết như thế là không có căn cứ.
Thật vậy, trong lưu thông nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, còn tổng số giá trị, cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi là không đổi. Về mặt giá trị sử dụng, trong trao đổi cả hai bên đều không có lợi gì. Như vậy, không ai có thể thu được từ lưu thông một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị đã bỏ ra (tức là chưa tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T).
C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản không có bất kì một nhà tư bản nào chỉ đóng vai trò là người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn có của nó, thì khi mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T. Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. Như vậy việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó.
Mác lại giả định rằng trong xã hội tư bản có một loại nhà tư bản rất lưu manh và xảo quyệt, khi mua các yếu tố sản xuất thì rẻ, còn khi bán thì đắt. Điều này chỉ giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giàu của tất cả giai cấp tư sản, vì tổng số giá trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi đều không thay đổi mà chỉ có sự thay đổi trong việc phân phối giá trị giữa những người trao đổi mà thôi. Và Mác kết luận rằng đây chẳng qua là hành vi móc túi lẫn nhau giữa các nhà tư bản trong cùng giai cấp. Vậy từ ba trường hợp cụ thể trong lưu thông Mác cho rằng: Trong lưu thông không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư vì vậy không thể là nguồn gốc sinh ra ∆T.
Ở ngoài lưu thông Mác xem xét cả hai yếu tố là hàng hoá và tiền tệ:
Đối với hàng hoá ngoài lưu thông: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng hay sử dụng và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử dụng và giá trị của sản phẩm đều biến mất theo thời gian.
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngoài lưu thông là tiền tệ nằm im một chỗ. Vì vậy không có khả năng lớn lên để sinh ra ∆T. Vậy ngoài lưu thông khi xem xét cả hai yếu tố hàng hoá và tiền tệ đều không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
“Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông” (C. Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN, 1987, Q1, tập 1, tr 216). Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
Khi Mác trở lại lưu thông lần thứ hai và lần này Mác đã phát hiện ra rằng: Ở trong lưu thông người có tiền là nhà tư bản phải gặp được một người có một thứ hàng hoá đặc biệt đem bán, mà thứ hàng hoá đó khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó có bản tính sinh ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, hàng hoá đặc biệt đó chính là sức lao động.
-
Hàng hoá - sức lao động
Số tiền chuyển hoá thành tư bản không thể tự làm tăng giá trị mà phải thông qua hàng hoá được mua vào (T-H). Hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản xuất ra một giá trị sử dụng. Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định. C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện tiền đề:
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động của mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình.
Hai là, người lao động phải tước hết tư liệu sản xuất để trở thành người vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định của sự chuyển hoá tiền thành tư bản. Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân.
PHẦN 2. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
-
Lợi nhuận
Số tiền chuyển hoá thành tư bản không thể tự làm tăng giá trị mà phải thông qua hàng hoá được mua vào (T-H). Hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản xuất ra một giá trị sử dụng.
Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.
C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện tiền đề:
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động của mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình.
Hai là, người lao động phải tước hết tư liệu sản xuất để trở thành người vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định của sự chuyển hoá tiền thành tư bản. Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân.
Từ khóa » Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị Giá Trị Thặng Dư
-
Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị Hai Phương Pháp Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư
-
Tiểu Luận Phân Tích Lý Luận Về Giá Trị Thặng Dư - TIỂU LUẬN - StuDocu
-
Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị Giá Trị Thặng Dư
-
Tiểu Luận Lý Luận Giá Trị Thặng Dư Và Vận Dụng Vào Nền Kinh Tế Việt Nam
-
Tiểu Luận Giá Trị Thặng Dư | Đánh Máy 24h
-
Tiểu Luận Giá Trị Thặng Dư Và Vai Trò, Vận Dụng Vào Nền Kinh Tế Thị ...
-
Tiểu Luận Học Thuyết Giá Trị Thặng Dư - TaiLieu.VN
-
Tiểu Luận: So Sánh, Ý Nghĩa Hai Phương Pháp Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư
-
Tiểu Luận Vận Dụng Lý Luận Giá Trị Thặng Dư Trong Quá Trình Phát Triển ...
-
Tiểu Luận: Lý Luận Giá Trị Thặng Dư Vào Nền Kinh Tế Việt Nam
-
[PDF] CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN (Ban
-
Tiểu Luận " Giá Trị Thặng Dư Và Vai Trò, Vận Dụng Vào Nền Kinh Tế Thị ...
-
Tiểu Luận " Giá Trị Thặng Dư Và Vai Trò, Vận Dụng Vào Nền Kinh Tế Thị ...