LỊCH SỬ HỘI DÒNG
Có thể bạn quan tâm
Thời kỳ sơ khai : Chị em Đa Minh Việt Nam được nảy sinh từ cánh đồng truyền giáo thấm máu đào của các anh hùng tử đạo, trong đó có các phần tử gia đình Đa Minh. Từ hậu bán thế kỷ XVII, các thừa sai Đa Minh sang Việt Nam truyền giáo tại đàng ngoài (1676), đã quy tụ chị em và thành lập các cộng đoàn chị em Đa Minh trong địa phận Đông Đàng Ngoài, sau trở thành khu vực địa phận Dòng (nay là các giáo phận Hải Phòng, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Bùi Chu, Thái Bình).
Nhà Mụ Đa Minh đầu tiên được thiết lập tại Trung Linh năm 1715, do cha chính dòng Bustamante Hy OP. Chị em mặc y phục đơn giản như các phụ nữ đương thời nhưng có đội khăn lúp, sống thành cộng đoàn, giữ ba lời khuyên Phúc Âm, theo luật chung gọi là Lề Luật Nhà Mụ. Mỗi nhà là một cộng đoàn biệt lập dưới quyền điều khiển của Bà Mụ (từ “Bà Mụ” ở Việt Nam vào thế kỷ XVII-XVIII để chỉ những phụ nữ học thức và thuộc dòng tôn thất nơi cung đình). Bà Mụ thường phải là người đứng tuổi, nhân đức, kinh nghiệm, do cha chính dòng cắt cử hoặc chị em ái mộ và được cha chính chấp thuận. Năm 1860, đã có bản Lề Luật bằng chữ Nôm, dựa theo luật dòng nữ Đa Minh Tây Ban Nha và sửa đổi cho thích nghi với hoàn cảnh Giáo Hội và xã hội địa phương. Mãi đến thập niên 1920, mới có tên Nhà Phước thay cho Nhà Mụ.
Từ thuở khai sinh, chị em Đa Minh vốn tự lực cánh sinh bằng công sức lao động của chính mình. Các chị thường làm nghề dệt, may, xay lúa, giã gạo, bào chế thuốc Đông Y gia truyền. Nếp sống thanh bần, đạm bạc, nhưng các chị rất tích cực cộng tác với các linh mục trong việc tông đồ mục vụ. Các chị nhận dạy kinh bổn cho các nữ dự tòng, chia thành từng hai người một đi bán thuốc dạo trong các làng lương dân, hầu có dịp tiếp xúc và loan báo Tin Mừng, rửa tội cho trẻ em nguy tử, hoặc chuộc lấy đem về nuôi tại nhà thiên thần. (Nhà Thiên Thần gọi là Cô Nhi viện, thường nuôi trẻ mồ côi bị bỏ rơi từ sơ sinh đến 12 tuổi. Năm 1916, địa phận Trung [được gọi là Bùi Chu lúc đó gồm có Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Bùi Chu] có 15 nhà, nuôi 3.353 em). Các chị giúp trong các nhà thương, viện dưỡng lão, trại phong (có 17 nhà).
Trong thời cấm đạo, các chị là những người thông tin, liên lạc thư từ, lo liệu cơm nước thuốc men, và có khi đem Minh Thánh Chúa cho các đấng chịu giam cầm vì đức tin.
Sau thời bách hại, chị em được phái đến các làng mạc trong giáo phận, giúp các phụ nữ bị ép bỏ đạo cưới chồng ngoại giáo (khoảng 400 người trở lại vào dịp này, riêng tại địa phận Trung có 2 trường dành cho nữ sinh). Trong thời bình yên, chị em dạy học mẫu giáo và tham gia công tác xã hội (phục vụ nhà thiên thần và nhà thương).
Trải qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong thời kỳ bách hại, chị em Đa Minh đã lập nhiều công lớn đối với Giáo Hội Việt Nam, khiến các Công Đồng Kẻ Sặt (1900), Kẻ Sở (1912), và Đông Dương (Hà Nội, 1934) đều có lời khen ngợi. Chính Công đồng kẻ Sở và Công đồng Miền Đông Dương, điều 104-106, đã khuyến khích các đấng bản quyền liên hệ, sớm lo liệu cho chị em Nhà Phước trở thành dòng có lời khấn theo Giáo luật (bộ Giáo luật 1917) và quy tắc các dòng địa phận của Thánh Bộ Truyền giáo. Số chị em ngày càng phát triển và có mặt khắp các địa phận dòng. Năm 1916, địa phận Trung có 475 Dì phước Đa Minh. Năm 1933, có 780 Dì phước Đa Minh (x. Lm Bùi Đức Sinh, OP, Dòng Đa Minh trên đất Việt, quyển II, Sài Gòn 1995, tr. 219-225).
Thời kỳ lập dòng : theo ý tòa Thánh và nguyện vọng của các Công Đồng Miền tại Việt Nam, Đức cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn, Giám mục giáo phận Bùi Chu ([1935-1948], lúc này Giáo phận Trung đã được tách riêng ra thành các giáo phận Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh, Lạng Sơn), đã lấy một phần nhân sự và tài sản của các nhà phước Mến Thánh Giá và Đa Minh để ký sắc lệnh lập Dòng con Đức Mẹ Mân Côi – Bùi Chu ngày 08/09/1946 và chọn Nhà Phước Đa Minh Trung Linh làm nhà Mẹ cho dòng mới. Địa phận Bùi Chu lúc ấy có 14 Nhà Phước Đa Minh và 2 Nhà Phước Mến Thánh giá là Kiên Lao và Liên Thượng. Trong số các Nhà Phước Đa Minh thì 7 nhà : Trung Linh, Kiên Lao, Ninh Cường, Liên Nội, Liên Ngoại, Liên Thượng, Hạ Linh, và một số chị em thuộc 7 nhà còn lại đã gia nhập dòng mới (Dòng con Đức Mẹ Mân Côi – Bùi Chu).
Ngày 04/08/1950, sau khi được tấn phong giám mục và cai quản địa phận Bùi Chu, kế vị Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn, công việc đầu tiên của Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi thực hiện cho giáo phận là cải tổ 7 Nhà Phước Đa Minh còn lại (Bùi Chu, Phú Nhai, Trung Lao, Quần Cống, Sa Châu, Trung Lễ, và Liễu Đề) thành Hội Dòng nữ Đa Minh theo giáo luật và chọn Nhà Phước Bùi Chu (bên cạnh Tòa Giám Mục Bùi Chu) làm nhà Mẹ.
Đức cha đã nhờ cha Alonso Bá OP, là giáo sư thần học và giáo luật ở Giáo Hoàng chủng viện Thánh Alberto Nam Định, soạn thảo Nội quy cho chị em. Bản nội quy – gồm tu luật Thánh Augustin và Hiến Pháp soạn theo Hiến pháp dòng Anh Em Thuyết Giáo – đã đệ đạt lên tòa Thánh ngày 19/11/1950 và được Hồng Y Pertrus Fumasoni Biondi, Bộ trưởng Thánh Bộ Truyền giáo, châu phê ngày 21/03/1951, qua công văn Port. Số 1.243/51.
Ngày 30/04/1951, Hội Dòng Nữ Đa Minh tại Việt Nam đầu tiên được thành lập, có trụ sở thuộc giáo phận Bùi Chu (tên thường gọi là Hội Dòng nữ Đa Minh Bùi Chu), thuộc quyền giám mục giáo phận.
Tại các giáo phận còn lại, các Nhà Phước vẫn phát triển và chờ đợi các giám mục địa phương xúc tiến cải tổ thành các Hội Dòng giáo phận. Tại giáo phận Thái Bình, có 12 nhà phước: Ninh Cù, Trung Đồng, Ngọc Đồng, Cao Mộc, Viên Tiêu, Tiên Chu, Phương Xá, Đông Thành, Bồ Ngọc, Cổ Việt, Thân Thượng. Tại giáo phận Hải Phòng có nhà phước : Kẻ Sặt, Nam Am, Liễu Dinh, Yên Trì, Ba Đông. Tại giáo phận Bắc Ninh có nhà phước : Xuân Hòa, Đình Tổ, Nhã Lộng, Đạo Ngạn, Hương La, Thái Đào, Yên Mỹ, Trung Lai, Vĩnh Tên, Tiên Nha …
Biến cố lịch sử 1954 đã đưa các chị em Nhà Phước di cư vào Nam hầu như toàn bộ. Đức Cha Phạm Ngọc Chi, giám mục đặc trách những người di cư đã gởi một bức thư vào ngày 6/8/1955 cho các Bề Trên trực thuộc các địa phận Thái Bình, Hải Phòng, Lạng Sơn, Bắc Ninh đã di cư vào Nam, để đề cập đến vấn đề cải tổ các Nhà Phước Đa Minh thuộc các địa phận nói trên. Các chị em Nhà Phước di cư vào Nam quây quần bên nhau tại Hố Nai trong tình hiệp nhất. Ngày 21/01/1958 Hội Dòng Nữ Đa Minh tại Việt Nam thứ hai được thành lập, có trụ sở thuộc giáo xứ Thánh Tâm, giáo phận Xuân Lộc (tên thường gọi là Hội Dòng nữ Đa Minh Thánh Tâm).
Ngày 01/01/1973 Hội Dòng Nữ Đa Minh tại Việt Nam thứ ba được thành lập, có trụ sở thuộc giáo xứ Xuân Hiệp, giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh (tên thường gọi là Hội Dòng nữ Đa Minh Rosa Lima – Xuân Hiệp).
Ngày 08/12/1978 Hội Dòng Nữ Đa Minh tại Việt Nam thứ tư được thành lập, có trụ sở thuộc giáo xứ Lạng Sơn, giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh (tên thường gọi là Hội Dòng nữ Đa Minh Lạng Sơn).
Ngày 30/04/1995 Hội Dòng Nữ Đa Minh tại Việt Nam thứ năm được chính thức biệt lập, có trụ sở thuộc giáo xứ Tam Hiệp, giáo phận Xuân Lộc (tên thường gọi là Hội Dòng nữ Đa Minh Tam Hiệp).
Ngày 22/08/2003 Hội Dòng Nữ Đa Minh tại Việt Nam thứ sáu được thành lập, có trụ sở thuộc giáo phận Thái Bình (tên thường gọi là Hội Dòng nữ Đa Minh Thái Bình).
Share this:
Từ khóa » Dòng đa Minh Bắc Ninh
-
Dòng Đa Minh Bắc Ninh - Home | Facebook
-
Dòng Đa Minh Bắc Ninh - Home | Facebook
-
Dòng Nữ - Giáo Phận Bắc Ninh
-
DÒNG ĐAMINH BẮC NINH: LỄ TUYÊN KHẤN LẤN ĐẦU NĂM 2021
-
Dòng Đa Minh Bắc Ninh: Thánh Lễ Tuyên Khấn Trọn Đời - YouTube
-
HỘI DÒNG NỮ ĐA MINH BẮC NINH - YouTube
-
THỈNH SINH ĐAMINH BẮC NINH | DÒNG ĐAMINH BẮC NINH
-
8 Nữ Tu Dòng Đaminh Bắc Ninh Tuyên Khấn Trọn đời | Nhà Thờ Thái Hà
-
Dòng Nữ Đa Minh Bắc Ninh: Tổng Hội III
-
Dòng Đa Minh Bắc Ninh, 118 Xuân Hòa - Quế Võ
-
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn – Wikipedia Tiếng Việt
-
12 Năm Anh Em Đa Minh Hiện Diện Và Dấn Thân Tại Giáo Phận ...
-
Dòng Đa Minh Việt Nam - TGP SÀI GÒN