Luận Văn Tốt Nghiệp:“Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Tiểu Thuyết Lão Goriot”

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GANG

KHOA SƯ PHẠM

                       ĐỖ THỊ NGỌC NỮ

                              Lớp DH9C2

 

                KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

                                          NGÀNH NGỮ VĂN

 “Chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết Lão Goriot”

       

LỜI CẢM ƠN

@&?

 Sau một thời gian dài nghiên cứu cùng với sự giúp đỡ tận tình của thầy Phùng Hoài Ngọc, tôi đã hoàn thành xong bài nghiên cứu này. Nhân đây, tôi xin chân thành gửi đến thầy Phùng Hoài Ngọc lời biết ơn sâu sắc và nồng nhiệt nhất. Trong suốt thời gian thực hiện khóa luận, thầy luôn nhiệt tình chỉ dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành bài nghiên cứu này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Nguyễn Thị Tuyếtcô Lâm Trần Sơn Ngọc Thiên Chương đã dành thời gian quý báu đọc và góp ý kiến cho bài khóa luận được hoàn chỉnh.

Đồng thời, tôi cũng gửi lời biết ơn đến quý thầy cô trong tổ Ngữ Văn đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Không những thế tôi còn được sự động viên giúp đỡ của rất nhiều bạn bè. Họ luôn  tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện bài nghiên cứu. Cho phép tôi gửi đến bạn bè những tình cảm tốt đẹp nhất.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả thầy cô trường Đại học An Giang, ngôi trường thân thương đã ươm mầm bao tốt đẹp. Cảm ơn tất cả thầy cô, những người đang cống hiến một cách thầm lặng vì sự nghiệp trồng người.

Dù đã có rất nhiều cố gắng, tuy nhiên do trình độ người viết còn hạn chế nên bài nghiên cứu này sẽ có nhiều điều thiếu sót và chưa thật tốt lắm. Rất mong sự đóng góp, chỉ dẫn tận tình của quý thầy cô để bài nghiên cứu này được hoàn chỉnh hơn.

Đại học An Giang, tháng 5 năm 2012

                                                                                   SV. Đỗ Thị Ngọc Nữ

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Chủ nghĩa hiện thực là một trong những phương pháp sáng tác được đánh giá cao trong sáng tác văn chương. Không mang màu sắc lãng mạn, huyền ảo với những gam màu tình yêu cháy bỏng như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực đi sâu vào khai thác hiện thực cuộc sống với bao ngổn ngang hỗn tạp. Nếu chủ nghĩa lãng mạn giương cao ngọn cờ giành lấy tự do yêu đương thì chủ nghĩa hiện thực lúc nào cũng đấu tranh cho quyền sống con người. Quyền sống đó không chỉ đơn giản là quyền được yêu, được sống mà hơn hết là quyền được “LÀM NGƯỜI”, một con người thực sự đúng nghĩa của nó. Đó cũng là những suy tư trăn trở của các nhà văn, nhà thơ. Và giới văn nghệ sĩ đã làm tròn đúng nghĩa vụ của mình, đem đến cho nhân loại cả một trào lưu sáng tác theo khuynh hướng hiện thực và mở ra phương pháp sáng tác với tên gọi là Chủ nghĩa hiện thực. Nội dung chủ yếu là phê phán, nên còn gọi là chủ nghĩa hiện thực phê phán. Có thể nói đỉnh cao của chiếc nôi hiện thực ấy là ở Tây Âu với hàng loạt tên tuổi như Stendhal, Charles Dickens, WilliamThackeray… Và nổi bật là đại biểu xuất sắc Honoré De Balzac, một nhà văn hiện thực đạt đến mức cổ điển, một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực, nổi tiếng với bộ sách đồ sộ “Tấn trò đời”. Tại sao lại nói như thế? Bởi lẽ, toàn bộ xã hội Pháp được nhà văn thu nhỏ trong bộ hài kịch nhân gian “Tấn trò đời” mà ông đã ấp ủ suốt cả cuộc đời. Mỗi tác phẩm của Balzac là một vấn đề nhức nhói gắn với xã hội đời thường. Trong xã hội ấy, nhà văn phát hiện ra những vấn đề tưởng chừng bình thường nhưng lại diễn ra không bình thường và những chuyện bất bình thường lại diễn ra một cách bình thường. Balzac có vai trò rất lớn, đó là ông đã đưa chủ nghĩa hiện thực lên đỉnh cao chói lọi. Lấy chất liệu từ cuộc sống, Balzac đã vẽ nên bức tranh xã hội Paris nửa đầu thế kỉ XIX một cách chân thực và đầy đủ mọi góc cạnh. Để rồi, nhà văn phải bật cười đau đớn khi phát hiện cuộc sống này như một màn kịch giả dối, điên đảo thị phi, dở khóc dở cười. Engels từng nhận xét “Đọc tiểu thuyết Balzac người ta có thể hình dung ra lịch sử nước Pháp từ 1816 – 1848 đầy đủ hơn, chi tiết hơn, hoàn chỉnh hơn so với đọc tất cả các nhà sử học, xã hội học, thống kê học thời ấy để lại”. Bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” đã tái hiện một cách chân thật và sinh động xã hội quý tộc, tư sản Paris lúc bấy giờ là cái xã hội mà Balzac coi như  “vực thẳm”, “một vũng bùn” hay là “ung nhọt lở loét nồng nặc trên hai bờ sông Xen”.

Chúng ta thử hình dung nếu như nền văn học thế giới nói chung và văn học Pháp nói riêng, một khi thiếu vắng khuôn mặt Balzac sẽ như thế nào? Bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” của Balzac được văn đàn thế giới đánh giá rất cao, là một “thiên hà độc đáo” bởi mỗi tác phẩm là một nẻo vào tâm hồn của nhà văn. Để rồi, chính Balzac đã tạo ra “vô số nẻo vào cuộc sống”. Không những thế “Tấn trò đời” chính là khuôn mẫu cho khuynh hướng văn học hiện thực chủ nghĩa lên tới đỉnh cao. Làm đúng như tinh thần và nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực, Balzac đã vạch trần bản chất xấu xa, hèn hạ của xã hội đương thời, một xã hội chạy theo đồng tiền, “con đĩ của xã hội”, mọi quan hệ đạo đức luân lí truyền thống đều không còn. Vì tiền mà cha xem con là kẻ thù, tình yêu chỉ dựa trên những lợi nhuận trong “Eugénie Grandet” hay tham vọng điên cuồng của những chàng thanh niên tỉnh lẻ Lucien trong “Vỡ Mộng” và Raphael De Valentant trong “Miếng da lừa”… Và hơn hết là lão Goriot trong tiểu thuyết cùng tên là một tiểu thuyết vô cùng đặc sắc và nhức nhói lòng người về xã hội đen tối, xấu xa với những “luật rừng” về cái gọi là “tình người” trong xã hội kim tiền.

Tác phẩm này đã được đưa vào chương trình phổ thông giảng dạy. Tuy chỉ có một đoạn trích và người biên soạn đặt tên là “Đám tang lão Goriot” nhưng đã đọng lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, gây xúc động và làm không ít trái tim phải rỉ máu. Đó là sự băng hoại đạo đức về tình cha con. Chắc hẳn, có rất nhiều giới nghiên cứu đã khám phá “mổ xẻ” Balzac. Ngay ở các bậc Đại học và Cao đẳng thì Balzac là một trong những gương mặt tiêu biểu quan trọng trong chương trình giảng dạy.

Để góp phần tri ân đến những cống hiến thầm lặng mà nhà văn đã đem lại những hương thơm cho cuộc đời cũng như góp phần vào các công trình nghiên cứu Balzac và hơn thế nữa muốn thử sức bản thân nên chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết Lão Goriot”.

Thiết nghĩ, đề tài này sẽ giúp ích rất nhiều cho chính bản thân chúng tôi trong công tác giảng dạy về sau. Và hy vọng bài nghiên cứu nhỏ này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có ích cho những học sinh, sinh viên Phổ thông, Cao đẳng và Đại học và hơn hết là cho những ai có hứng thú quan tâm đến Balzac, hiểu Balzac và yêu Balzac.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Một cây đại thụ như Balzac chắc hẳn là một đối tượng đáng quan tâm của nhiều giới nghiên cứu lí luận phê bình. Quả thật, Balzac có sức ảnh hưởng rất lớn không chỉ nền văn học Pháp mà cả nền văn học thế giới. Ông được biết đến như một thiên tài văn học lỗi lạc. Thậm chí ở một số nước có cả Hội nghiên cứu Balzac. Balzac làm cho cả văn đàn thế giới phải gật đầu thán phục. Người đọc Balzac cũng nhiều và nghiên cứu về Balzac cũng không sao kể hết. Hàng vạn công trình nghiên cứu về ông được công bố và được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ bạn đọc tạo ra một “làn sóng Balzac” làm xôn xao cả nền văn học thế giới.

Với khuôn khổ cho phép của một bài khóa luận, chúng tôi không thể liệt kê tất cả các công trình nghiên cứu về ông mà chỉ có thể nêu một vài công trình nghiên cứu tiêu biểu, có liên quan đến đề tài đã chọn. Một mặt có thể giúp bạn đọc thấy rõ tầm quan trọng của nhà văn hiện thực này cũng như những tình cảm ưu ái, trân trọng, tấm lòng tri ân đến Balzac. Đồng thời đó cũng là những cơ sở để chúng tôi hoàn thành khóa luận này.

Ở nước ta đã từ lâu, vấn đề hiện thực được nhiều nhà văn nhà thơ chú ý như: Nguyễn Du, Tú Xương, Nguyễn Khuyến… Thậm chí có cả một giai đoạn Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 mà Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… là những đại biểu xuất sắc. Vấn đề chủ nghĩa hiện thực cũng được rất nhiều giới nghiên cứu quan tâm. Một trong những gương mặt làm nên diện mạo cho nền lí luận phê bình nước nhà là Giáo sư Lê Đình Kị với bài chuyên luận về “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực” năm 1970. Rồi bài viết của Bùi Công Minh đăng trên tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng – số 5(28).2008 đã viết “Về chủ nghĩa hiện thực tâm lí trong sáng tác của nhà văn Nam Cao”. Và không ít những công trình luận văn của những tiến sĩ, thạc sĩ nghiên cứu về lĩnh vực này. Tất cả những điều đó cho thấy vấn đề chủ nghĩa hiện thực có một vị trí rất quan trọng. Quả vậy, văn chương không thể xa rời hiện thực. Hay có thể nói, chủ nghĩa hiện thực trở thành một nguyên tắc sáng tác cho văn học. Không những thế, chủ nghĩa hiện thực còn là một hệ thống lí luận cho các giới nghiên cứu phê bình.

Từ trước đến nay, chưa đọc thấy một công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết “Lão Goriot” thật sự có giá trị và được giới phê bình đánh giá cao. Điều này không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn các công trình nghiên cứu về Balzac. “Tấn trò đời” là vô số nẻo vào nên mỗi nhà nghiên cứu có một nẻo vào Balzac. Có người thì nghiên cứu về tiểu sử, những biến động thăng trầm của cuộc đời Balzac. Lại có người đi vào một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật của “Tấn trò đời”. Thậm chí có người chỉ đi vào khám phá một tác phẩm cụ thể mà họ yêu thích như đề tài chúng tôi chẳng hạn… Thật khó kể hết các công trình tâm huyết ấy nhưng chúng tôi sẽ cố gắng giới thiệu một cách ngắn gọn và đầy đủ nhất. Để đạt được mong muốn đó và tạo cho bài viết có hệ thống mạch lạc chúng tôi tạm tách các công trình nghiên cứu về Balzac thành hai phần. Thứ nhất, là các công trình nghiên cứu và đánh giá về Balzac của các chuyên gia nước ngoài. Thứ hai, là các công trình nghiên cứu và đánh giá về Balzac của các chuyên gia ViệtNam.

2.1 Các công trình nghiên cứu và đánh giá về Balzac của các chuyên gia nước ngoài

Có rất nhiều nhà chuyên gia nghiên cứu về Balzac. Tiêu biểu phải kể đến là công trình nghiên cứu về thủ pháp tái xuất hiện nhân vật trong “Tấn trò đời”. Năm 1908, Marcel Proust trong “Chống Sainte – Beuved” đã nhấn mạnh “tính thống nhất nội tại, không giả mạo” của “Tấn trò đời”. Ông chính là người đầu tiên ghi nhận sự có mặt của nhân vật tái xuất hiện trong bộ tiểu thuyết. Năm 1965, André Mouroi trong “Prométhéen on La vie De Balzac” đã phát hiện chiều thứ tư của nhân vật “chiều sâu không gian” thông qua thủ pháp tái xuất hiện. Năm 1970, André Wurmser trong “La Conmédie Humaine” cũng thừa nhận thủ pháp này. Và gần đây nhất là năm 1999, với công trình nghiên cứu có giá trị của nhà nghiên cứu Rose Torrassier trong “Tiểu thuyết Pháp thế kỉ XIX” cũng nhắc đến thủ pháp này.

2.2 Các công trình nghiên cứu và đánh giá về Balzac của các chuyên gia Việt Nam

Balzac là nhà văn Pháp nên việc tìm hiểu chủ yếu thông qua các dịch thuật của các dịch giả. Dịch thuật là chiếc cầu nối giúp cho những người không cùng một ngôn ngữ có thể hiểu được những điều mà người khác muốn diễn đạt. Ở nước ta, các tác phẩm của Balzac cũng được rất nhiều giới dịch thuật chú ý.

Kể từ năm 1917, khi Nguyễn Văn Dĩnh dịch và công bố trên Đông Dương tạp chí tiểu thuyết “Miếng da lừa” thì các tác phẩm của ông càng đến đều tay bạn đọc. Và hàng loạt công trình nghiên cứu về Balzac ra đời, làm xôn xao cả văn đàn Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu về Balzac phải kể đến như Đặng Anh Đào với “Ônôrê đờ Banzăc và một thế giới bước đi” (NXB [1] Trẻ, 2002). Năm 1968, trên Tạp chí Văn học số 6, Đỗ Đức Dục có bài giới thiệu về tiểu thuyết “Lão Gôriô”. Năm 1985, Lê Hồng Sâm một chuyên gia nghiên cứu về Balzac có công trình nghiên cứu công phu về “Văn học lãng mạn và hiện thực phương Tây đầu thế kỉ XIX”. Đỗ Đức Dục với “Chủ nghĩa phê phán trong văn học phương Tây” (NXB KHXH [2],1981). Và đặc sắc nữa là “Honoré de Balzac – Lão Goriot” (NXB ĐHQG HN [3], 2001) giới thiệu và nghiên cứu do Lê Huy Bắc biên soạn. “Văn học phương Tây” (NXB Giáo dục) do nhiều tác giả biên soạn như Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Văn Chính, Phùng Văn Tửu.

Hay vấn đề nhân vật tái xuất hiện trong “Tấn trò đời” cũng đã tốn không ít giấy mực. Đáng kể đến là chuyên gia Đặng Anh Đào, nhà nghiên cứu nhiều nhất về thủ pháp này. Thái Thu Lan trong “Những tác gia lớn của văn học Pháp thế kỉ XIX” cũng đề cập đến thủ pháp tái xuất hiện – với 515 nhân vật trong “Tấn trò đời”.

Đó là tất cả những công trình nghiên cứu điển hình mà chúng tôi có thể cung cấp cho bạn đọc, đồng thời đó cũng là những cơ sở để chúng tôi hoàn thành tốt nội dung khóa luận. Và những công trình ấy cũng như các tài liệu có liên quan đến đề tài khóa luận chúng tôi sẽ liệt kê ở phần danh mục tham khảo.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Balzac là nhà văn thu hút được sự chú ý của nhiều giới nghiên cứu. Cùng với bộ “Tấn trò đời” Balzac đã đi vào lòng người một cách ngoạn mục, khiến mọi người phải nghiêng mình ngưỡng mộ. Nhà văn tài hoa ấy đã phản ánh một cách sinh động và sắc nét về cái xã hội Paris khi đồng tiền“lên ngôi”thịnh trị nhất. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết “Lão Goriot”. Và tác phẩm này đã được đưa vào chương trình giảng dạy ở phổ thông với đoạn trích “Đám tang lão Goriot”. Qua đó thấy được tầm quan trọng và sức mạnh tuyệt vời của cây đại thụ Balzac.

Thiết nghĩ, việc nghiên cứu và tìm hiểu về Chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết “Lão Goriot” là một công việc khá lí thú. Đi sâu vào tác phẩm để khám phá toàn xã hội Pháp; hiểu được cái tình người trong xã hội kim tiền ấy; càng yêu và càng hiểu Balzac. Đồng thời hy vọng rằng bài nghiên cứu nhỏ này có thể góp nhặt phần nào vào kho tàng nghiên cứu của nhân loại về nhà văn.

4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU           

Là một nhà văn sáng tác ở nhiều thể loại như kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn… Honoré De Balzac để lại cho đời một số lượng tác phẩm khá đồ sộ. Mỗi tác phẩm là cả một trời tâm huyết của ông, đó là bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”. Bộ tiểu thuyết này là linh hồn, là hơi thở và là nhịp đập của Balzac. “Tấn trò đời” là một công trình kiến trúc đồ sộ với khoảng 97 tác phẩm – một con số thật đáng kính phục. Các tiểu thuyết lần lượt được dịch ra nhiều thứ tiếng và đã có mặt tại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX. Theo thống kê gần đây có khoảng 30 tác phẩm được dịch ra tiếng Việt.

Có người bảo Balzac giống như một nhà biên niên sử của nước Pháp thế kỉ XIX. Vì mọi biến động của xã hội Pháp được thể hiện rõ trong bộ tiểu thuyết. Mỗi tác phẩm là một mảng hiện thực của bao bộn bề đời sống với những số phận và cảnh đời phong phú.

Do yêu cầu và tính chất của đề tài nên việc nghiên cứu chỉ giới hạn ở đối tượng nghiên cứu Chủ nghĩa hiện thực được rút ra từ một tác phẩm cụ thể “Lão Goriot”. Chỉ cần tập trung nghiên cứu sâu một tác phẩm tiêu biểu cũng đủ thấy tính chất hiện thực của nó. Vì vậy bài nghiên cứu này chúng tôi tập trung vào tác phẩm “Lão Goriot”. Mà cụ thể tìm hiểu về các chi tiết, kết cấu nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật… trong tác phẩm. Tuy nhiên do Balzac có dùng thủ pháp tái xuất hiện nên có một số nhân vật trong tác phẩm được lặp lại trong một số tác phẩm khác. Nên chúng tôi sẽ có những tìm hiểu thêm về những nhân vật đó.

5. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN

Vấn đề chủ nghĩa hiện thực không phải chỉ riêng ở Pháp hay chỉ ở ngay “Tấn trò đời” mà còn có ở rất nhiều nước với những tác phẩm đáng được ghi nhận. Chủ nghĩa hiện thực gần gũi với đời sống và ở ngay bên cạnh con người. Nếu mọi người chịu khó quan sát, chiêm nghiệm sẽ nhìn thấy bóng dáng của mình thấp thoáng đâu đó trên những dòng trang viết. Để rồi, con người có thể soi rọi vào đó và tự rút ra những kinh nghiệm, cách sống sao cho hợp lí. Hay hình thành ở mỗi người những tình cảm yêu thương, trân trọng, sự lên án, phê phán thậm chí là thái độ câm phẫn, tố cáo… Đấy là những gì chúng tôi hy vọng sẽ lĩnh hội được thông qua bài viết. Mặt khác bài nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đồng môn trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Và hơn hết là hình thành ở mọi người tình cảm yêu mến Balzac, càng thương yêu và trân trọng nhà văn. Trân trọng cả từng câu, từng chữ, từng lời của Balzac.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để hoàn thành tốt bài nghiên cứu này chúng tôi chủ yếu dùng các phương pháp sau.

Thứ nhất là phương pháp tổng hợp. Tức là đi khảo sát, thu thập các vấn đề có liên quan. Sau đó tổng hợp và ghi nhận lại những vấn đề, những tư liệu giúp ích cho bài nghiên cứu.

Thứ hai là phương pháp so sánh – đối chiếu. Một trong những thủ pháp tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực là cách xây dựng nhân vật. Vậy nên, ở đây chúng tôi có sự so sánh, đối chiếu các nhân vật với nhau. Tức là đặt nhân vật vào trong mối tương quan với thế giới nhân vật trong tác phẩm “Lão Goriot” và cả “Tấn trò đời”.

Thứ ba là phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả. Đây cũng là phương pháp khá quan trọng. Cách nghiên cứu này giúp ta có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm. Hơn nữa, nghiên cứu tác phẩm hay nghiên cứu về nhân vật tác phẩm không thể không nghiên cứu, tìm hiểu bản thân của con người tạo ra tác phẩm ấy. Điều này có nghĩa là chúng tôi sẽ dựa vào một số đặc điểm về tiểu sử của Balzac có ảnh hưởng đến nội dung và tư tưởng của tác phẩm để lí giải tác phẩm.

Cuối cùng là phương pháp phân tích. Ở phương pháp này chúng tôi đi sâu vào vấn đề, mổ xẻ từng chi tiết nhỏ và lí giải chúng bằng sự hiểu biết của bản thân trên cơ sở kiến thức nhất định và những căn cứ văn bản. Để cho việc phân tích có sức thuyết phục thì cần sử dụng các luận cứ và luận điểm hợp lí.

Tuy nêu ra các phương pháp khác nhau nhưng trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có thể kết hợp các phương pháp nêu trên.

7. CẤU TRÚC KHÓA LUẬN

CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TIỂU THUYẾT LÃO GORIOT

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

CHƯƠNG I.  CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

I. Khái niệm chủ nghĩa hiện thực

II. Chủ nghĩa hiện thực ở Tây Âu như là một phương pháp sáng tác

1.  Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực

2.  Thi pháp chủ nghĩa hiện thực – sự kế thừa và đổi mới

thi pháp lãng mạn chủ nghĩa

2.1 Khái niệm thi pháp học

2.2 Thi pháp chủ nghĩa hiện thực – sự kế thừa và đổi mới

thi pháp lãng mạn chủ nghĩa

2.3 Các yếu tố thi pháp của chủ nghĩa hiện thực

2.3.1 Cái nhìn hiện thực

2.3.2  Sự chân thực của chi tiết

2.3.3 Cái nhìn phê phán

2.3.4 Cái nhìn nhân đạo

2.3.5 Cảm hứng bi kịch

CHƯƠNG II. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ BALZAC

1.  Cuộc đời

  1. Sự nghiệp sáng tác

3.  Cảm hứng nghệ thuật và phương pháp sáng tác

* Giới thiệu vài nét về bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”

CHƯƠNG III. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG

                                    TIỂU THUYẾT “LÃO GORIOT”

I. Bối cảnh lịch sử  – xã hội của tác phẩm

II. Tiểu thuyết “Lão Goriot”

1. Giới thiệu vài nét về tiểu thuyết “Lão Goriot”

2. Tóm tắt cốt truyện

3. “Lão Goriot” – một bức tranh hiện thực rộng lớn và sinh động

3.1 Cách đặt tên tác phẩm “Lão Goriot”

3.2 Nghệ thuật miêu tả và xây dựng cốt truyện

3.2.1 Nghệ thuật miêu tả

3.2.2 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện

3.3 Kết cấu của tiểu thuyết

3.4 Quán trọ Vauquer – sân khấu nhỏ của “Tấn trò đời”

3.5 Vẽ chân dung hai nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình

3.5.1 Lão Goriot – một người cha thương con vô bờ bến nhưng quan

niệm sai lầm về hạnh phúc

3.5.2 Rastignac điển hình cho thanh niên tỉnh lẻ đầy tham vọng – nhân

vật chính của bộ tiểu thuyết

3.6 Kí họa một số nhân vật khác tiêu biểu cho hiện thực Paris lúc bấy giờ

3.6.1 Bà Vauquer – một tiểu tư sản đầy tham vọng và ti tiện

3.6.2 Hai con gái lão Goriot – nàng Rêgan và Gônơrin của thế kỉ XIX

3.6.3 Vautrin – tên tù vượt ngục “săn người” chuyên nghiệp

3.6.4  Giới thượng lưu, quý tộc

3.6.5 Những số phận con người lầm lũi, bất hạnh trong quán trọ

Vauquer

     KẾT LUẬN

 

NỘI DUNG

CHƯƠNG I.  CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

Chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu văn học hình thành rõ rệt ở Châu Âu giữa thế kỉ XIX. Thực ra chủ nghĩa hiện thực nảy sinh từ thời Phục hưng (gọi là chủ nghĩa hiện thực Phục hưng). Đến thế kỉ XIX chủ nghĩa hiện thực lên đến đỉnh cao với bộ “Tấn trò đời” của Balzac. Trong giáo trình Lí luận văn học tập 3 (Tiến trình văn học) do Phương Lựu chủ biên đã nêu rằng: Chủ nghĩa hiện thực nếu được hiểu theo nghĩa phương pháp sáng tác thì sẽ có nhiều dạng. Đó là chủ nghĩa hiện thực thời Phục hưng, chủ nghĩa hiện thực thời Khai sáng, chủ nghĩa hiện thực thời phong kiến mạt kì Phương Đông. Nhưng mãi đến thế kỉ XIX ở Tây Âu thì chủ nghĩa hiện thực mới phát triển đến đỉnh cao nhất cho nên mọi người gọi là chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Cảm hứng chủ đạo của chủ nghĩa hiện thực cổ điển là phê phán nên Gorki gọi là chủ nghĩa hiện thực phê phán. Và chủ nghĩa hiện thực phê phán ở Tây Âu thế kỉ XIX đạt đến mức cổ điển về nội dung và chuẩn mực về nghệ thuật.

  1. I.        Khái niệm chủ nghĩa hiện thực

Vấn đề chủ nghĩa hiện thực vốn được rất nhiều giới nghiên cứu quan tâm, họ đưa ra hàng loạt ý kiến đánh giá và gây ra không ít cuộc tranh cãi gây cấn. Nhiều ý kiến đánh giá rất chính xác và được giới nhà văn đánh giá rất cao. Damian Grant trong cuốn“Chủ nghĩa hiện thực” đã nói rằng “Định nghĩa về chủ nghĩa hiện thực trong quá khứ và hiện tại đều do phong trào (hoặc khuynh hướng) hiện thực chủ nghĩa những năm 50 đến những năm 60 của thế kỉ XIX”. Trong cuốn “Từ điển giản yếu về văn học nước ngoài” Abrams đã chỉ ra “Chủ nghĩa hiện thực bao gồm hai tầng ý: 1. Chỉ trào lưu văn học thế kỉ XIX, đặc biệt là chỉ trào lưu văn nghệ trong tiểu thuyết (lấy Balzac của nước Pháp, George Eliot của Anh làm chủ soái); 2. Chỉ thủ pháp miêu tả hiện thực cuộc sống xuất hiện trong mọi thời đại, điển hình là những tác phẩm trong trào lưu lịch sử này” [4]. Năm 1890, khi bình luận về tiểu thuyết của William Dean Howells, ông Weikang Xiapu đã nói “Có lẽ, chủ nghĩa hiện thực trong văn học nghệ thuật có thể định nghĩa là: một loại kĩ xảo miêu tả tinh tế, chính xác dựa trên sự tổng hợp về hiện thực (vì nó hoàn toàn hợp tình hợp lí, hiển hiện rõ ràng không thể trốn tránh), đối với rất nhiều sự vật phức tạp hoặc trừu tượng, hoặc phức tạp; kĩ thuật này đòi hỏi phải gia tăng sức sáng tạo, ở giai đoạn phát triển cao độ, nó liên quan đến nhân tố mà người đời cho là tinh thần lãng mạn chủ nghĩa; cần bỏ đi nhược điểm của bản lĩnh lựa chọn, nó là nhân tố chủ đạo trong chủ nghĩa hiện thực phái Zôla. Nhìn từ góc độ này, chủ nghĩa hiện thực và miêu tả hư cấu không thể phân biệt, giống như linh hồn và thể xác của con người” [5]. Nhà phê bình người Pháp A Thibaudet giải thích về chủ nghĩa hiện thực như sau: “Trưởng thành cùng với thế kỉ XIX, thậm chí, vào năm 1820, nhà tiểu thuyết 20 tuổi(…), trong tác phẩm của mình đã có được sức tưởng tượng sáng tạo không gì bì kịp. Họ mặc dù vận dụng hồi ức và hoàn cảnh của mình, nhưng sáng tác của họ lại vì thế mà có được sự tự do hơn, viên mãn hơn. Khẩu hiệu của họ chính là điều do Balzac – thủ lĩnh của chủ nghĩa hiện thực đề xuất: cạnh tranh với sổ hộ tịch. Đến gần năm 1850, loại cạnh tranh này giảm xuống. Đối diện với sổ hộ tịch, các nhà tiểu thuyết từ địa vị của người cạnh tranh chuyển sang địa vị người thư kí. Đây chính là chủ nghĩa hiện thực” [6].

Và trong “Từ điển thuật ngữ văn học” của Trần Đình Sử  (đồng chủ biên) đã định nghĩa chủ nghĩa hiện thực ở hai nghĩa. Thứ nhất, theo nghĩa rộng, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được dùng để xác định quan hệ giữa tác phẩm văn học với hiện thực, bất kể tác phẩm đó của nhà văn thuộc trường phái hoặc khuynh hướng văn nghệ nào. Với ý nghĩa này, khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nghĩa với khái niệm sự thật đời sống, bởi tác phẩm nào cũng phản ánh hiện thực. Từ việc định nghĩa đó, có thể nói khi tìm về hiện thực cũng như chủ nghĩa hiện thực của các nhà văn thì sẽ nhấn mạnh vấn đề các tác phẩm đó gần gũi, gắn bó với cuộc sống, mang tính chân thực sâu sắc. Cách hiểu như thế hiện nay không còn lưu hành nữa vì nó không mang lại hiệu quả gì cho nghiên cứu văn học. Bởi lẽ, chủ nghĩa hiện thực không chỉ đơn thuần là gần gũi với hiện thực, là chân thực khách quan, mà nó phải có một nguyên tắc thẩm mĩ nào đó để mọi người có thể khám phá và đi sâu vào những cái đẹp.

Thứ hai, theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa hiện thực là một khái niệm chỉ một phương pháp nghệ thuật hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội dung chặt chẽ, xác định trên cơ các nguyên tắc mĩ học sau:

Mô tả cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với bản chất những hiện tượng của cuộc sống và bằng điển hình hóa các sự kiện của thực tế đời sống. Nguyên tắc mĩ học tiếp theo là thừa nhận sự tác động qua lại giữa con người và môi trường sống, giữa tính cách và hoàn cảnh, các hình tượng nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa hướng tới cái thiện, cái chân thực của các mối quan hệ khác của con người và hoàn cảnh. Đồng thời, cùng với sự điển hình hóa nghệ thuật, coi trọng những chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc miêu tả con người và cuộc sống, coi trọng việc khách quan hóa những điều được mô tả, làm cho chúng “tự” nói lên được tiếng nói của mình. Đây là nguyên tắc thẩm mĩ cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực.

@ Tiểu kết

Trên đây, là các khái niệm cũng như những nhận xét về chủ nghĩa hiện thực. Tóm lại, chủ nghĩa hiện thực là một phương pháp sáng tác dựa trên chất liệu hiện thực cuộc sống nhằm phản ánh một cách khách quan hiện thực xã hội đó. Đồng thời muốn thực hiện thành công phương pháp này các nhà văn hiện thực cần phải tuân theo các nguyên tắc mĩ học nhất định. Khác với các cây bút lãng mạn nhìn sự việc qua lăng kính đầy màu sắc, các nhà văn hiện thực nhìn đời bằng chính con mắt hiện thực của mình, lắng nghe đời bằng chính trái tim thổn thức.

II. Chủ nghĩa hiện thực ở Tây Âu như là một phương pháp sáng tác

1.  Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực

Trong lời Tựa “Tấn trò đời” Balzac thể hiện quan niệm mình khá rõ: Ông chỉ là một thư kí trung thành của thời đại. Điều này chứng tỏ Balzac thấu hiểu được bản chất nghệ thuật mà ông đeo đuổi. Nhà văn đã nhận ra được sự tự biểu hiện của hiện thực lịch sử theo một quy luật khách quan vốn có. Vì thế, đặc trưng thứ nhất của chủ nghĩa hiện thực là sự phản ánh thực tại một cách chân thực, lịch sử – cụ thể. Với khả năng quan sát tinh tế tài tình, Balzac phát hiện chính bản thân xã hội đó “bộc lộ” những mặt trái, những mâu thuẫn gay gắt, sự đấu tranh giai cấp xã hội… Xã hội đó vốn xấu xa, bỉ ổi nhưng lại được che đậy bởi sự hào nhoáng đẹp đẽ bên ngoài. Chủ nghĩa hiện thực phải chú trọng vào hiện thực. Bất kì loại hình sáng tác văn học nào cũng phải chọn cho mình một góc độ nhất định để thể hiện. Chủ nghĩa hiện thực đã chọn góc độ hiện thực thể hiện sự trải nghiệm của bản thân. Ở đó, con người phải trung thành với hiện thực, tôn trọng hiện thực, nhìn thẳng vào hiện thực và tái hiện hiện thực. Ở thế kỉ thứ IV trước Công nguyên, Aristote đã chỉ ra “Như Sophocles nói: ông đã dựa trên cái con người nên có để viết ra, Euripides dựa trên cái vốn có của con người để viết ra” [7]. Balzac khi tổng kết sáng tác của mình ông đã nói “Xã hội Pháp tự viết ra lịch sử của mình, tôi chỉ có thể là thư kí của nó. Biên chế những hành vi đạo đức và thói quen xấu, thu thập những sự thực chủ yếu của phong tục, khắc họa tính cách, chọn lựa sự kiện chủ yếu của xã hội, kết hợp đặc điểm của những người cùng bản chất để tạo thành nhân vật điển hình. Như vậy, tôi cũng có thể viết ra loại lịch sử mà ngay cả sử gia cũng không thể nghĩ ra để viết, tức là lịch sử phong tục” [8]. Biêlinxki cho rằng thi ca (văn học) hiện thực chính là “thi ca cuộc sống, thi ca mang tính hiện thực, cuối cùng cũng chính là thi ca chân thực, chân chính của thời đại chúng ta. Đặc điểm nổi bật của nó là trung thực với hiện thực. Nó không tái tạo cuộc sống mà là phục chế, tái hiện cuộc sống giống như một tấm gương, phản ánh hiện tượng phức tạp, muôn màu của cuộc sống. Từ trong những hiện tượng này thu hút mọi thứ tất yếu của bức tranh thống nhất, tràn đầy sinh khí, kết cấu phong phú” [9]. Engels đã từng nói “Ý nghĩa của chủ nghĩa hiện thực là: ngoài sự chân thực của các chi tiết, còn là sự tái hiện nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình” [10]. Điều mà ông nhấn mạnh là tính chân thực của việc miêu tả các chi tiết và tính điển hình của miêu tả nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực. Gorki nói “Miêu tả chân thực con người và cuộc sống của con người, không thêm da đắp thịt, đó chính là chủ nghĩa hiện thực” [11].

Qua những lời nhận định cũng như bàn về chủ nghĩa hiện thực, có thể nói tóm lại rằng: chủ nghĩa hiện thực phải gắn liền với hiện thực và Balzac đã hoàn thành sứ mệnh lớn lao của mình, đã hoàn thành xuất sắc một thư kí trung thành của thời đại. Không giương cao khẩu hiệu, không hô hào kêu gọi, Balzac âm thầm dùng tác phẩm của mình kêu gọi xã hội tốt đẹp hơn. Nhà văn muốn dùng bàn tay mình sưởi ấm cho bao trái tim lạnh lẽo của nhân loại. Và có thể nói rằng, Balzac muốn dùng trái tim “Đan cô” [12] soi sáng dẫn đường cho bao con người lạc lối, để họ tìm ra chân lí và quay trở về với ánh sáng. Và để xã hội này hoàn toàn trong sạch, không còn tiếng than thở oán than. Để nơi Paris tráng lệ xứng đáng là một thành phố, thủ đô tràn ngập ánh sáng niềm tin và hy vọng.

Vì chủ nghĩa hiện thực phản ánh hiện thực chân thực và lịch sử sụ thể nên việc thừa nhận giá trị của thực tế khách quanđặc trưng thứ hai của chủ nghĩa hiện thực. Có thể nói đây là đặc trưng khá quan trọng của chủ nghĩa hiện thực. Không quay lưng với thực tế, các nhà hiện thực luôn cố gắng nhận thức, nghiên cứu và đi sâu vào bản chất để phát hiện ra những mâu thuẫn tồn tại trong chính xã hội ấy cũng như sự xấu xa của giai cấp thống trị. Những vấn đề đó thể hiện rõ qua sáng tác của Dickens, một gương mặt khá xuất sắc của trào lưu hiện thực. Nhà văn đã chỉ rõ sự mâu thuẫn gay gắt giữa những người nghèo khổ, thấp hèn với những người thượng lưu giàu có. Những người nghèo khổ thì bị bóc lột, bị chèn ép, bị ức hiếp ngày càng nghèo khổ và thậm chí đến khốn cùng. Người giàu có thì ngày càng giàu có, nhờ vào chiến lược kinh doanh khá sắc sảo là bóc lột và chà đạp con người. Cũng là vấn đề hiện thực nhưng Balzac tập trung chú ý đến vấn đề tầng lớp thanh niên vì tiền tài danh vọng mà vứt bỏ tình người. Đó là “Thuốc trường sinh”, “Lão Goriot”, “Miếng da lừa”, “Eugénie Grandet”,… Các tác phẩm gắn với một hiện thực cụ thể và chứng tỏ một khả năng quan sát tinh tế biết đào sâu hiện thực. Balzac như một nhà phẫu thuật tài ba, nhà văn đã mổ xẻ tài tình cuộc sống, mổ xẻ những ung nhọt hư thối của xã hội để nó được khỏe mạnh. Chính vì thế, các tác phẩm của nhà văn mới có thể có được sức sống mãnh liệt, xứng đáng cho những tình cảm cũng như niềm trân trọng của độc giả đối với Balzac. Bởi“nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than…” [13].

Với đặc trưng này, có thể nói chủ nghĩa hiện thực mang tính chân thực qua những cảm nhận cũng rất chân thực. Chân thực trong văn học là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Chân thực ở đây cần phải hiểu đúng nghĩa. Chúng ta không thể đồng nhất giữa chân thực của khoa học với chân thực của thi ca. Đồng ý là văn học hiện thực phản ánh một cách chân thực về cuộc sống nhưng chân thực trong văn học chủ nghĩa hiện thực không nhất thiết phải đồng nhất với con người, sự vật, sự việc có thực, cũng không đồng nhất với sự chân thực bề ngoài của cuộc sống, mà ở đây sự chân thực cao hơn bề mặt cuộc sống. Sự chân thực có được do biểu hiện, phát lộ những điều sâu xa ẩn tàng bên trong các hiện tượng bên ngoài của cuộc sống. Chính điều này đã yêu cầu nhà văn phải nhào nặn, gia công các hiện tượng cuộc sống. Chủ nghĩa hiện thực tuy lấy diện mạo vốn có của cuộc sống để trình diện trong lịch sử văn học, nhưng không có nghĩa là giết chết địa vị chủ thể sáng tác của nhà văn. Lấy văn học hiện thực chủ nghĩa so sánh với bản thân hiện thực có thể thấy sự khác nhau rất lớn giữa chúng, văn học hiện thực chủ nghĩa tràn đầy sáng tạo thẩm mĩ, ở đâu cũng thấy cái nhìn thẩm mĩ đặc thù, cảm nhận thẩm mĩ, thể nghiệm thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ, sự lựa chọn, nhào nặn, khái quát, hư cấu, vv… Trịnh Bản Kiều từng nói “Văn Dữ Khả vẽ trúc trong lòng đã thành trúc, Trịnh Bản Kiều vẽ trúc trong lòng không thành trúc. Đậm nhạt, thưa, ngắn dài, gầy béo theo tay người vẽ ra tự nó đã thành nếp ấy là do lí và thần đều đầy đủ cả… cái điều thành trúc hay không thành trúc thực ra chỉ là một đạo lí mà thôi” [14]. Vấn đề ở đây không so sánh ai vẽ hay hơn ai mà muốn nói rằng nghệ thuật – văn chương phải lấy chất liệu từ cuộc sống nhưng đó không phải là sự sao chép, đưa nguyên xi cuộc sống vào văn học mà đó là cả một quá trình nhào nặn, tinh luyện, hun đúc bằng cả trí tuệ và tâm huyết của nhà văn. Nhà văn “không phải là một nhà nhiếp ảnh nô lệ của hiện thực” mà ở đó “nhà văn có thể sử dụng phương pháp loại trừ hệ thống chi tiết không cần thiết, làm nổi bật đặc trưng điển hình trong hiện thực, tiến hành gia công đối với hiện thực” [15]. Gia công hiện thực không phải là sự tô hồng cuộc sống để tô đen hiện thực mà đó là sự nhào nặn, gia công trên cái nền của hiện thực, chất liệu của cuộc sống.

Đặc trưng thứ ba của chủ nghĩa hiện thực là xây dựng những điển hình. Đặc trưng này là đặc trưng nổi bật hơn cả so với nền văn học trước. Vậy thế nào là điển hình? Nhân vật điển hình là gì? Tất cả điều đó được trình bày cụ thể và rõ ràng trong “Từ điển thuật ngữ văn học”. Điển hình là những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, độc đáo được miêu tả sinh động, hấp dẫn, khái quát được những nét bản chất, quan trọng nhất của con người và đời sống. Cơ sở của điển hình nghệ thuật là điển hình cuộc sống. Thông qua điển hình nghệ thuật người ta có thể hình dung ra hiện tượng tương tự nào đó ngoài cuộc sống. Từ đó, ta có thể nói nhân vật điển hình là nhân vật đại diện, khái quát về số phận và tính cách của một nhóm người, loại người, một tầng lớp hay một giai cấp nào đó trong xã hội. Chẳng hạn Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là điển hình về số phận và tính cách của người phụ nữ nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng tám. Hay Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao cũng là một ví dụ. Anh đại diện cho số phận của những người nông dân bị bần cùng hóa. Đôi khi nhân vật điển hình lại khái quát cho một loại hiện tượng nổi bật, phổ biến trong đời sống tinh thần của một dân tộc ở một thời điểm lịch sử cụ thể, chẳng hạn điển hình “con người thừa” trong văn học Nga thế kỉ XIX. Nhân vật điển hình còn khái quát lên một loại tư tưởng, một loại ý thức tồn tại phổ biến trong xã hội. Đó là các nhân vật “quỷ sứ” như Man-phơ-rết, Cain, Luxiphe của Byron, Jean Valjean, Jave của Hugo; Pie, Andrey của Tolstoi; Raskonikov của Dostoievski. Và nhân vật người điên trong “Nhật kí người điên” của Lỗ Tấn, Hoàng trong “Đôi mắt” của Nam Cao là những nhân vật điển hình cho những tư tưởng đó.

Điển hình là một hiện tượng nghệ thuật phổ biến, có thể tìm thấy trong những sáng tác ưu tú của mọi thời đại. Và ở mỗi thời đại thì mức độ, ý nghĩa, phổ biến cũng như giá trị nghệ thuật khác nhau. Trong văn học cổ đại và trung đại, trong sáng tác của chủ nghĩa cổ điển thì hình tượng điển hình chủ yếu khái quát những thuộc tính của loại. Phải đến thế kỉ XIX, chủ nghĩa hiện thực mới sáng tạo được những điển hình đầy đặn, hoàn chỉnh và mang nội dung cụ thể – lịch sử sâu sắc. Nhà văn Nga Turgenhev nói “Điển hình là con người cụ thể của một thời đại”. Đó là sự điển hình trong các tác phẩm của Balzac. Rastignac là nhân vật điển hình đại diện cho những tính cách và số phận của những thanh niên trí thức trong xã hội Pháp thế kỉ XIX chạy theo dục vọng, tiền tài và địa vị, để rồi bán linh hồn cho quỷ dữ, tha hóa nhân cách. Và đó là Goriot, lão tư sản phất lên nhờ cuộc cách mạng 1789 và hơn hết là đại diện cho những người tư sản có quan niệm sai lầm về hạnh phúc.

Bàn về vấn đề điển hình hóa trong chủ nghĩa hiện thực,“ngoài sự chính xác của các chi tiết ra, còn phải nói đến sự thể hiện chính xác những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” [16]. Ở chủ nghĩa lãng mạn khi miêu tả hình tượng họ không chú ý đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể; trong khi dùng những biện pháp nghệ thuật để nhấn mạnh sự đối lập của các mâu thuẫn, họ không chú trọng đến quan hệ hiện thực và quan hệ biện chứng phức tạp của thế giới khách quan. Tức là trong khi hiện thực thì nóng bỏng với những mâu thuẫn phức tạp thì họ đi tìm những lối thoát hư ảo hoang đường đầy màu sắc chủ quan. Trong khi đó, chủ nghĩa hiện thực đã xây dựng được những điển hình bất hủ. Và trong việc miêu tả những tính cách điển hình, các nhà văn hiện thực luôn cố gắng chăm bón từng chút tính hiện thực và miêu tả các nhân vật đó gắn một hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong sự phát triển phức tạp của xã hội. Julien (Đỏ và đen của Stendhal), Rastignac trong nhiều tác phẩm của Balzac, Ni-cô-lai Ních-cơn-by trong tác phẩm cùng tên của Dickens và nhiều nhân vật khác đều hoạt động trong những “hoàn cảnh điển hình”. Ở đó, tính cách của các nhân vật được hình thành và phát triển gắn chặt với hoàn cảnh. Khi ấy sẽ có sự tác động qua lại giữa tính cách và hoàn cảnh. Trong sự phát triển của hiện thực ở các tác phẩm Balzac cho ta thấy nhà văn đã tuân theo sự logic của hiện thực. Ông đã miêu tả những sự kiện khách quan trong lịch sử, có mối liên hệ với số phận và tính cách của nhân vật. Điều này thể hiện rõ qua nhân vật lão Goriot, lão Séchard. Hai nhân vật này cùng giàu phất nên nhờ cách mạng 1789. Đây là sự việc lịch sử có thật và thường diễn ra trong xã hội Paris thế kỉ XIX. Vì xã hội tư sản chỉ biết tiền nên đã biến Eugénie thành một tính cách hoàn toàn khác hẳn ban đầu. Rồi Lucien, Rastignac là những điển hình. Chính hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc bấy giờ đã tác động mạnh mẽ đến những tính cách vốn có của họ. Nếu như ở giai đoạn sáng tác trước, Dickens thiên về những ước lệ có tính chất lãng mạn như cái thiện chiến thắng cái ác, người tốt sẽ có kết quả tốt còn kẻ xấu thì bị tiêu diệt và chịu hậu quả nghiêm trọng thì sang những năm 50 – 60 nhà văn từ bỏ những ước lệ đó, thừa nhận tính cách bất khả chiến thắng của những quy luật khách quan của cuộc sống. Những quy luật đó quy định tính cách và số phận của nhân vật. Tóm lại, chủ nghĩa hiện thực tạo ra mối liên hệ hữu cơ mật thiết giữa tính cách và hoàn cảnh. Hoàn cảnh tác động, chi phối tính cách và ngược lại.

@Tiểu kết

Đấy là ba đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa hiện thực. Nếu muốn biết nhà văn đó có phải là nhà văn hiện thực hay không thì đây là ba đặc trưng quan trọng có thể giúp ích cho sự nhận biết ấy. Thiết nghĩ, trong ba đặc trưng đó thì xây dựng được những điển hình là đặc trưng quan trọng nhất. Bởi phương pháp này đã tạo ra những khái niệm hoàn toàn mới, có thể là nói như thế: tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Và đặc biệt là chứng minh được vai trò của hoàn cảnh trong sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội.

2.Thi pháp của chủ nghĩa hiện thực

 2.1 Khái niệm thi pháp học

Nghiên cứu thi pháp còn gọi là thi pháp học. Trong “Từ điển thuật ngữ văn học” đã nêu định nghĩa như sau: Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức, phương tiện thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản ánh sáng tác nghệ thuật.

 2.2 Thi pháp chủ nghĩa hiện thực – sự kế thừa và đổi mới thi pháp lãng mạn chủ nghĩa

Theo sự phát triển của trào lưu lãng mạn thì chủ nghĩa lãng mạn phân thành hai nhánh. Một nhánh là chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và một nhánh là chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Lâu nay, người ta đã xem chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực là hai phương pháp đối cực nhau. Thế nhưng hiện nay mọi người đã chứng minh và đi đến những khẳng định về mối liên hệ tương hỗ của hai đối cực này. Đó là chủ nghĩa hiện thực đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực nhưng lại có sự gần gũi với chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Chủ nghĩa lãng mạn tích cực và chủ nghĩa hiện thực, hai phương pháp này ra đời không quá cách xa. Năm 1824, Tạp chí lãng mạn Globe xuất hiện và đến 1827 thì Tựa kịch “Cromwell” của Hugo đã ra mắt bạn đọc. Vài năm sau đó, tức 1830 tiểu thuyết hiện thực Đỏ và đen của Stendhal chào đời. Và kể từ đó hai phương pháp, hiện thực và lãng mạn tích cực luôn song hành và có sự “xâm nhập” qua lại.

Stendhal là nhà văn của hiện thực nhưng ông vẫn không thể phân biệt rõ được tác phẩm “Bản luận chiến Raxin và Sếchpia” (1823-1825) là chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa lãng mạn. Vì bản luận chiến đó có nhiều điểm giống với Tựa kịch “Cromwell”. Điều này chứng tỏ các nhà văn hiện thực phần nào chịu ảnh hưởng và tiếp thu những mặt tích cực của chủ nghĩa lãng mạn. Và ngược lại một số nhà văn lãng mạn tích cực cũng tiếp thu chủ  nghĩa hiện thực phê phán. Điển hình là Gior giơ Xăng ở giai đoạn sáng tác thứ hai và Hugo về cuối đời. Tác phẩm “Những người khốn khổ” của Hugo đã gây ra nhiều tranh luận. Đây là tiểu thuyết lãng mạn nhưng Aragon lại cho là tiểu thuyết hiện thực.

Qua các vấn đề trên, có thể nói chủ nghĩa hiện thực đã tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn tích cực ở vài thi pháp là hoàn toàn có cơ sở. Sự kế thừa tiếp thu cũng như đổi mới đó thể hiện ở ba khía cạnh.

Trước nhất, là việc mở rộng đề tài. Ở giai đoạn trước, các phương pháp sáng tác như chủ nghĩa Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển… thì đề tài dường như bị bó hẹp, chủ yếu xoay quanh đời sống của giới quý tộc, thượng lưu. Mãi đến sau này, khi chủ nghĩa lãng mạn mà đặc biệt là chủ nghĩa lãng mạn tích cực đã giải phóng nghệ thuật mở rộng đề tài. Ở đó có sự xóa bỏ ngăn cách giữa cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp và cái xấu. Như nhà

văn Hugo đã từng khẳng định đó là “sự hài hòa của những cái trái ngược”. Và cũng trên cơ sở đó, chủ nghĩa hiện thực phê phán đã nhấn mạnh thêm rằng cần phải đưa toàn bộ những vụn vặt hằng ngày, kể cả những cái yếu hèn xấu xa… tất cả đều phải đưa vào nghệ thuật. Trong lời tựa “Tấn trò đời” Balzac khẳng định tác phẩm của mình “bao trùm cả lịch sử và sự phê phán xã hội, sự phân tích những tệ lậu và sự tranh luận về những nguyên lí của nó”. Các nhà văn hiện thực phê phán cái tệ lậu, cái xấu xa, cái bẩn thỉu thấp hèn là nhằm ca ngợi cái lí tưởng, cái cao đẹp. Nhà mĩ học người Pháp Xê-ây-giơ từng nhận xét chủ nghĩa hiện thực phê phán là “chủ nghĩa lí tưởng xấu xa” lí do là thế.

Nếu chủ nghĩa cổ điển là sự “mô phỏng cổ đại” chuyên bắt chước những những tác phẩm văn nghệ cổ Hi – La thì chủ nghĩa lãng mạn đi ngược lại chủ trương đó, chú ý đến khai thác các đề tài trong lịch sử dân tộc mình. Chủ nghĩa hiện thực đã nối tiếp truyền thống đó. Điều này có nghĩa là toàn bộ bức tranh xã hội với bao biến cố lịch sử cùng với sự phát triển của từng dân tộc, từng quốc gia đều phản ánh vào văn học. Mà văn học hiện thực phê phán đã làm tròn nhiệm vụ lớn lao đó. Stendhal từng nói “Thú thực rằng tôi rất thích được xem trên sân khấu Pháp Cái chết của quận công Đơ Ghiđơ ở Bloa, hay Gian Đac và người Anh… những bức tranh vĩ đại và bi thảm ấy rút từ biên niên sử của chúng ta, sẽ làm rung động sợi dây nhuệ cảm của trái tim người Pháp… hơn là đối với những bất hạnh của Êđip” [17]. Vấn đề này được các nhà văn hiện thực thể hiện một cách xuất sắc. Bởi không chỉ xã hội hiện đại Pháp mà cả biến cố trong lịch sử Pháp vẫn được thể hiện rõ nét. Đó là Giắ-cơ-ri, Thời sự triều đại Sác lơ IX, Những người Chouans, Một việc ám muội của Balzac v.v…

Và cuối cùng của sự kế thừa đổi mới đó là đề cao chất trữ tình. Như đã biết chủ nghĩa cổ điển đề cao lí trí của con người, lí trí là tuyệt đối, lí trí chiến thắng tất cả dù đó là tình cảm. Chủ nghĩa lãng mạn thì hoàn toàn ngược lại, luôn đề cao tình cảm, chất lãng mạn trữ tình. Chính điều này chủ nghĩa hiện thực đã tiếp thu một cách triệt để và có sự chọn lọc. Chủ nghĩa hiện thực hướng về những vấn đề xã hội rộng lớn nhưng vẫn sẵn sàng tiếp thu chất trữ tình lãng mạn nhưng ở mức độ cho phép. Chỉ cần thổi vào tác phẩm hiện thực vài hơi thở ngọt ngào của chất trữ tình thì tác phẩm càng có giá trị. Bởi lẽ, bạn đọc khi tiếp xúc tác phẩm không chỉ đòi hỏi giá trị hiện thực mà còn đòi hỏi phải đảm bảo tính thẩm mĩ. Suy cho cùng thì lòng người, nhân tâm cũng là một phương diện khác của cuộc đời và thế sự. Điều này thể hiện rõ qua tiểu thuyết “Eugénie Grandet”. Tiểu thuyết hiện thực được xem là kiệt tác ở giai đoạn đầu khi nhà văn thật sự “trở thành Balzac”. Và thiên tiểu thuyết này được nhà phê bình Langson nhận xét là “một chân dung vẽ hỏng của chủ nghĩa lãng mạn”. Thật vậy, tiểu thuyết này được mọi người xem như một cuộc chia tay đầy lưu luyến của chủ nghĩa lãng mạn. Vì trong tiểu thuyết chủ yếu tập trung vào Eugénie, cô gái ấp ủ một tình yêu lãng mạn. Hơn thế nữa những trang viết về đời sống lãng mạn của nàng dài hơn cả số trang nói về cuộc sống chấp nhận hiện thực. Nhưng cuối cùng thì đây vẫn là tiểu thuyết hiện thực. Qua đó ta thấy Balzac đã có sự kế thừa tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn của các nhà văn trước mà tiêu biểu là Hugo.

@ Tiểu kết

Có thể nói chủ nghĩa hiện thực ra đời và phát triển có phần muộn hơn chủ nghĩa lãng mạn, bởi những năm 20 của của thế kỉ XIX chủ nghĩa hiện thực mới xuất hiện thành khuynh hướng văn học, trong khi đó chủ nghĩa lãng mạn đã phát triển rực rỡ với những tên tuổi đáng nể phục. Dù vậy, chủ nghĩa hiện thực đã làm một cuộc chạy nước rút phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới mà Balzac là cây đại thụ vĩ đại. Trong quá trình vận động và phát triển, giữa hai khuynh hướng lãng mạn tích cực và hiện thực có mối liên hệ mật thiết với nhau, tiếp thu lẫn nhau. Thậm chí các nhà văn hiện thực ban đầu tán thành chủ nghĩa lãng mạn và viết theo phương pháp lãng mạn. Ở Pháp, các nhà văn hiện thực cùng các nhà văn lãng mạn tiến bộ đấu tranh chống lại thứ văn học phản động dưới thời Trung hưng, chủ yếu chống lại các nhà văn cổ điển chủ nghĩa hậu sinh. Khi chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ chiếm ưu thế (Hugo, Giooc-giơn Xăng, Senli, Byron) thì chủ nghĩa hiện thực hình thành trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa lãng mạn đồng thời cũng tiếp thu thành quả, những truyền thống ưu tứ của nó về ý thức dân chủ, tính nhân dân, chất trữ tình lãng mạn, đề tài sáng tác và nhất là sự nhiệt tình tố cáo và tư tưởng nhân đạo của các nhà lãng mạn tiến bộ.

2.3. Các yếu tố thi pháp của chủ nghĩa hiện thực

 2.3.1 Cái nhìn hiện thực

Đây là một thi pháp đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực. Triết học và mĩ học duy vật là nền tảng tư tưởng phương pháp luận nhận thức. Nhận xét về tính hiện thực có các ý kiến sau. Sernyvski cho rằng “Cái đẹp là cuộc sống. Thực tế đẹp là thực tế trong đó ta nhìn thấy cuộc sống đúng như quan niệm của chúng ta. Một đối tượng đẹp là đối tượng trong đó cuộc sống được thể hiện, hay là nó nhắc ta nghĩ đến cuộc sống”. Tolstoi thì “Nhân vật mà tôi yêu quý nhất là sự thật”. Balzac tự nhận xét “Lịch sử nước Pháp là một pho sử, còn tôi chỉ là thư kí trung thành của pho sử ấy”. Nhà văn Stendhal bảo rằng “Sự thật, sự thật chua chát” [18]. Maupassant thì “Sự thật hèn mọn” [19]. Các nhà văn hiện thực đều nhất quán với “cái nhìn hiện thực” và lấy nó làm tiêu chí hàng đầu trong việc sáng tác. Từ cái nhìn hiện thực đó dẫn đến các chi tiết cũng rất chân thực.

2.3.2 Sự chân thực của chi tiết

Trong giáo trình Lí luận văn học (tập 3) do Phương Lựu (chủ biên) đã nêu khá cụ thể về định nghĩa chi tiết. Chi tiết là đơn vị nhỏ nhất có thể chia ra được tùy theo những tương quan và yêu cầu nhất định. Nó có thể là một dáng hình, một lời nói, một cử chỉ, một nét sinh hoạt, một khâu quan trọng. Chi tiết chân thực là những cái có thật hoặc có thể thật về những phương diện nói trên trong thiên nhiên, xã hội và lòng người. Trong tất cả phương pháp sáng tác đều có sự tồn tại của chi tiết chân thực. Bởi vì văn học là những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều quan trọng là mức độ chân thực đó nhiều hay ít, đậm hay nhạt, nông hay sâu.

Ở chủ nghĩa lãng mạn cũng có những chi tiết chân thật như Fantine bán răng, bán tóc và bán cả thân để nuôi con; Jean Valjean đánh cắp bánh mì vì đàn cháu nhỏ rồi bị bỏ tù v.v… Nhưng những chi tiết này không xuất hiện đậm đặc như trong các tác phẩm hiện thực. Chủ nghĩa lãng mạn với nguyên tắc sáng tác chủ quan, tái tạo nên việc sử dụng nhiều chi tiết chân thực là điều không thể vì “nghệ thuật không phải là sự mô tả thực tại có thực, mà là sự tìm tòi chân lí ở lí tưởng” [20]. Còn chủ nghĩa hiện thực thì sử dụng phương pháp tái hiện, cho rằng nghệ thuật là “tấm gương xê dịch trên con đường lớn” [21]. Nhà văn Nga Turgenhev đã nhấn mạnh “Tái hiện sự thật, thực tại của cuộc sống một cách chân thực và mạnh mẽ là hạnh phúc cao quý nhất của nhà văn ngay cả khi sự thật ấy không phù hợp với những thiện cảm riêng của nhà văn”.

Bất kì chi tiết chân thực nào cũng mang ý nghĩa riêng. Thông qua chi tiết đó bạn đọc có thể cảm nhận được những ý nghĩa sâu xa. Và sứ mệnh lớn lao của chi tiết hiện thực là góp phần tái hiện chân thực tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Qua đó, bản thân chi tiết cũng được điển hình hóa và tính chân thực của chi tiết trở thành một phương diện khá quan trọng trong thi pháp của chủ nghĩa hiện thực.

2.3.3 Cái nhìn phê phán

Cái nhìn phê phán là cái nhìn gắn với cảm hứng phê phán. Nó đối lập hoàn toàn với cảm hứng ca ngợi trong chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm của mình, các nhà văn hiện thực miêu tả cái ác, cái xấu và sự thắng thế của chúng, không phải là ca ngợi hay cổ vũ mà đó là sự phê phán, tố cáo, vạch trần bộ mặt xấu xa của chúng. Để cho mọi người nhận thấy tác hại và tránh xa nó. Đó là sự phê phán thói xa hoa trụy lạc của giới quý tộc thượng lưu trong “Lão Goriot”. Thói keo kiệt, hà tiện trong “Eugénie Grandet”… .

2.3.4 Cái nhìn nhân đạo

Nhân đạo là tấm lòng yêu thương con người, bênh vực con người, tôn trọng và đối xử với họ như một con người đúng nghĩa. Không chỉ thế, đó còn là sự đề cao, ca ngợi con người, biết phê phán, lên án, tố cáo các thế lực chà đạp con người. Trong chủ nghĩa hiện thực, cái nhìn nhân đạo cũng có thể nói là cảm hứng nhân đạo bao trùm tất cả mọi thứ. Mỗi nhà văn hiện thực đều mang tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Balzac đã thương xót cho thân thận lão Goriot, một người cha bất hạnh đáng thương. Đồng thời cũng bày tỏ thái độ khinh bỉ hai cô con gái lão Goriot. Hay đó là lời ca ngợi nàng Victorine đáng thương nhưng thật đáng trân trọng với nhân cách cao quý. Và còn rất nhiều tác phẩm khác trong bộ “Tấn trò đời” và nhiều tác phẩm khác của các nhà văn hiện thực đều mang âm hưởng nhân đạo đó.

2.3.5 Cảm hứng bi kịch

Trước khi vào cảm hứng bi kịch chúng ta cần tìm hiểu thế nào là bi kịch. Bi kịch là một loại hình của kịch, đối lập với hài kịch.

Trong “Từ điển thuật ngữ văn học” nói rõ. Bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính, mối xung đột không thể điều hòa được giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn… diễn ra trong một tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với công chúng. Aristote cho rằng bi kịch là “sự bắt chước hành động hệ trọng và trọn vẹn” nhằm “dùng hành động chứ không phải bằng kể chuyện, bằng cách gây sự xót thương và nỗi sợ hãi để thực hiện sự thanh lọc những nỗi xúc động tương tự” [22]. Và kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩ thức tỉnh, dự báo về một điều tốt đẹp hơn sẽ nảy sinh trong cuộc sống và trong mỗi con người.

Trước đây, có khuynh hướng lí luận phê bình chủ nghĩa hiện thực vấp phải cái nhìn “bi quan”. Có nghĩa là khi chứng kiến nhân vật chính thất bại thậm chí là cái chết thì mọi người cảm thấy đó là một kết cuộc rất bi quan, không hy vọng vào tương lai. Nhưng thực ra họ đã hiểu sai chữ “bi quan”. Nếu xét về tinh thần thì nhân vật thất bại nhưng vẫn lạc quan, vẫn có ý thức vươn lên và hứa hẹn một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tốt đẹp. Đó là bi kịch của lão Goriot. Lão chết nhưng vẫn tỏa sáng tấm lòng thương con vô bờ bến.

@ Tiểu kết                             

Năm yếu tố thi pháp của chủ nghĩa hiện thực nêu trên có vai trò rất quan trọng trong công việc sáng tác của khuynh hướng hiện thực. Mỗi yếu tố đóng một vai trò không thể thiếu trong hệ thống hoàn chỉnh của một tác phẩm hiện thực. Muốn là một sáng tác hiện thực thì phải có nhìn hiện thực tạo ra các chi tiết chân thực. Để qua đó thể hiện những cảm hứng phê phán hay sự đồng cảm, nhân đạo trước những bi kịch trong cuộc sống.

CHƯƠNG II. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ BALZAC

1. Cuộc đời

Honoré De Balzac Balzac sinh ngày 20 tháng 5 năm 1799 ở Tours, một tỉnh giàu có, quê hương vui tươi với những tiếng cười vang vọng sảng khoái của Rabelais, quê hương của mùa hè sôi nổi với những hương hoa, ong bướm. Cái năm mà nhà văn cất tiếng khóc chào đời thật đáng ghi nhớ. Năm ấy là năm mà mặt trời thi ca Nga Puskin xuất hiện. Đặc biệt, đó cũng là năm mà Napoléon – người đời đều rung động trước những chiến công hiển hách của ông từ Ai Cập trở về “nửa là người chiến thắng nửa là người bỏ trốn” [23].

Cha ông là Bernard Franois Balssa là một nông dân phất lên nhờ cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789. Từ nhỏ, Balzac thừa hưởng được rất nhiều đức tốt đẹp từ bố. Đó là niềm say mê lao động kết hợp với một sức khỏe và khả năng chịu đựng phi thường. Đó là sự hăng say, cần cù và niềm lạc quan mãnh liệt. Mẹ ông xuất thân trong gia đình tư sản buôn bán. Bà là một phụ nữ có học thức, kém hơn chồng tới 32 tuổi. Balzac không phải là hậu duệ của dòng quý tộc Balzac D’Entraigues như ông đã ghi dưới các tác phẩm. Cái gia huy và tiểu từ “đờ” (tiếng Pháp là De) đều là những hư cấu đầu tiên của ông, như một nhà nghiên cứu phê bình đã nói thế.

Từ tám đến mười bốn tuổi, Balzac học tại trường dòng Vandôme. Trong sáu năm đó (1807-1813), ông bị giam hãm trong bốn bức tường của trường dòng với những kỉ luật hà khắc, giáo điều khô khan. Và cậu học trò này chỉ thích đọc sách lịch sử và ngồi trong buồng kín để đọc các tác phẩm của các nhà Ánh sáng Diderot, Rouseau… và đọc rất nhiều sách khoa học và triết học.

Balzac không phải thuộc loại “thần đồng”, “trời phú” sớm nổi tiếng như Victor Hugo hay Musset. Ngay cả thời gian học Trung học ở trường Vandôme ông cũng không có gì nổi bật. Có lẽ “điều nổi bật ở Balzac là hoàn toàn không có gì nổi bật”. Trong gia đình, ông lại sớm có mặc cảm vì dung mạo không mấy khôi ngô, không mấy nổi bật, Balzac cảm thấy mình bị thua thiệt hơn đứa em trai (Hăngri) về sự thương yêu lẫn chiều chuộng.

Năm 1814, gia đình Balzac chuyển lên lập nghiệp tại Paris và ông tiếp tục học nội trú. Cũng chính thời gian này thể chế của Napoléon I sụp đổ, Lui XVIII lên thay. Cuộc sống ở những trường nội trú đã tạo cho Balzac một cá tính độc lập. Dù trong bất kì hoàn cảnh khó khăn nào, Balzac vẫn không hề lay động, không hề bị khuất phục. Đây là chìa khóa thành công đưa Balzac đứng vững trên con đường nghệ thuật của mình sau này.

Gia đình lúc nào cũng kì vọng ông sẽ trở thành một luật sư. Vì vậy năm 1816, sau khi học hết bậc Trung học ông vào học ở trường Luật theo như ý muốn của gia đình. Trong quá trình học luật ông giấu gia đình vừa thực hành tập sự trong văn phòng của các viên công chứng, vừa đi dự giảng những tiết Văn, Triết, Sử ở trường Sorbonne. Sau 1819, tốt nghiệp trường Luật, Balzac bỏ nghề luật vốn được quan niệm là béo bở, hái ra tiền để đi vào con đường văn chương trong sự phản đối quyết liệt của gia đình. Tuy nhiên, gia đình vẫn không hề thuyết phục được Balzac nên đã chấp thuận bằng cách nhượng bộ với điều kiện sau hai năm nếu không thể thực hiện được khả năng sáng tạo nghệ thuật, ông sẽ phải trở về với ngành Luật. Nhưng rất may là những ngày tập sự tại văn phòng tố tụng, ông được chứng kiến nhiều bi kịch gia đình cùng với những hành động phạm tội mà không hề bị trừng phạt… đã tạo cho nhà văn một kho tư liệu sáng tác quý báu.

Cuối cùng để thực hiện hoài bão, ước mơ của mình, Balzac quyết định rời gia đình đến tại một căn gác xép lụp xụp của quán trọ phố Lêđighie. Ở đó, Balzac “vùi đầu vào thế giới của sách vở và tư tưởng, thế giới của lao động và yên lặng, – giữa Paris ồn ào náo nhiệt, giống như một con nhộng tự xây mồ để rồi sẽ tái sinh vinh quang và rực rỡ”. Chính nơi đây Balzac càng có điều kiện tiếp xúc với những người lao động, những người nghèo khổ tận cùng của đáy xã hội Paris. Đây là nguồn tư liệu quý giá cho sự nghiệp sáng tác của ông.

Năm 1820, đúng như ước nguyện của mình, Balzac đưa cho “hội đồng gia đình” vở kịch phẩm mang tựa đề Cromwell – một vở kịch năm hồi bằng thơ và vở kịch đã thất bại trước đám công chúng vừa nghe vừa ngủ này. Giai đoạn đầu con đường sáng tác văn chương Balzac còn gặp nhiều khó khăn, các sáng tác của ông hầu như không được đánh giá cao. Dù thất bại nhưng Balzac không hề thất vọng. Năm 1821-1825 Balzac chuyển sang viết tiểu thuyết phiêu lưu, lịch sử nhưng chúng cũng không làm ông nổi danh. Không thể sống bằng ngòi bút, Balzac chuyển sang kinh doanh. Năm 1825-1828 ông làm công việc xuất bản sách, mở nhà in, đúc chữ in vv… nhằm cải thiện đời sống thì nợ nần chồng chất và sắp phá sản, suốt đời mới trả hết nợ. Sau đó, ông từ bỏ hẳn kinh doanh chuyển sang con đường nghệ thuật mà bấy lâu mơ ước. Dường như Balzac sinh ra không phải là một doanh nhân thành đạt mà ông có duyên nhiều hơn với lĩnh vực văn chương. Với sự nỗ lực vươn lên của chính bản thân Balzac đã gặt hái được nhiều thành công đáng nể mà đặc biệt là ở lĩnh vực tiểu thuyết với bộ tiểu thuyết đồ sộ “Tấn trò đời”.

Balzac bị bệnh tim nhưng lại có thói quen uống rất nhiều cà phê. Hằng ngày ông dành mọi thời giờ vào sáng tác, thậm chí mỗi ngày Balzac chỉ nghỉ chừng vài tiếng. Năm 1847, cảm thấy sức khỏe đã suy giảm và ông đã cố gắng hoàn thành ước vọng cuối cùng của mình. Đó là kết hôn với bà Hanska. Đầu năm 1850, dù bệnh nặng nhưng ông vẫn đến Ukraine để cử hành hôn lễ. Sau khi trở về Paris chân tay ông đã bị sưng phù, đùi bị hoại tử và ông từ trần vào ngày 18 tháng 8 năm 1850 khi mới 51 tuổi. Balzac ra đi trong sự cô đơn giống như nhiều như nhân vật của ông. Ông được chôn ở nghĩa địa Piteur Lasezer giữa những ngày Paris mưa gió.

@ Tiểu kết

Nhìn lại cả cuộc đời của nhà văn ta có thể thấy cả đời Balzac hầu như lận đận. Tôi xin được dùng hai từ ấy đúc kết về cả cuộc đời ông. Giai đoạn đầu sáng tác văn chương gặp nhiều khó khăn, kinh doanh lại phá sản, Balzac đã hai lần ứng cử vào viện Hàn lâm nhưng đều thất bại. Thậm chí, tài năng Balzac thật sự được nước Pháp công nhận sau khi ông mất. Thế nhưng cái gì thật sự có giá trị, thật sự có linh hồn thì mãi mãi còn lại với thời gian. Lời vĩ nhân dạy chẳng sai. Nó đã được kiểm chứng qua cuộc đời và sự nghiệp của Balzac. Chính nhà văn đã đem lại biết bao bông hoa tươi đẹp cho đời. Balzac thật xứng đáng cho những tình cảm tốt đẹp mà nhân loại dành cho ông. Dường như Balzac đã đi sâu vào tiềm thức của con người và hơn hết nó đã trở thành một nếp trong người dân Pháp nói riêng và tất cả ai yêu Balzac nói chung. Như Gorki đã từng nói, chúng ta hãy “yêu quý Balzac một cách nồng nhiệt, có lẽ như người ta vẫn thường yêu quý một người thầy, một người bạn”.

2. Sự nghiệp sáng tác

Sự nghiệp sáng tác của Balzac bắt đầu từ 1829, với tiểu thuyết “Những người Chouans”. Tác phẩm này đánh dấu sự phát triển bước đầu trong con đường văn chương của tác giả. Căn cứ vào quá trình phát triển tư tưởng và phương pháp sáng tác của Balzac, người ta có thể chia hoạt động sáng tác của Balzac thành bốn giai đoạn:

2.1 Giai đoạn thứ nhất (1821 -1829)

Ở những năm đầu của giai đoạn này, Balzac thiên về những loại tiểu thuyết phiêu lưu và lịch sử. So với những tác phẩm ở giai đoạn sau thì những quyển tiểu thuyết này rất yếu. Sau này, chính tác giả cũng đã phủ nhận nó, không đưa nó vào bộ “Tấn trò đời” và gọi là “văn chương con lợn”. Tuy nhiên, qua những tiểu thuyết đầu tay ấy, chúng ta thấy tác giả chống lại mưu đồ hòng khôi phục lại trật tự trước Cách mạng của giai cấp quý tộc dưới thời Trung hưng. Trong các tiểu thuyết ở thời kì đầu, Balzac còn nói đến tính tích cực của giai cấp tư sản, vì nhà văn chưa tách giai cấp tư sản ra khỏi “đẳng cấp thứ ba”, vẫn xem họ là thành phần của mặt trận thống nhất chống phong kiến. Về phương pháp sáng tác thì những năm này Balzac còn bị chủ nghĩa lãng mạn ràng buộc. “Những người Chouans” (1829) là tác phẩm đầu tiên làm cho tác giả nổi tiếng và đánh dấu chuyển biến từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ hai. Tác phẩm này nói về những cuộc nổi loạn phản cách mạng của giai cấp quý tộc và sự chiến thắng của những lực lượng dân chủ. Nếu như lúc đầu Balzac còn dành tình cảm ưu ái cho giai cấp tư sản thì đến đây ông hoàn toàn mất lòng tin ở nó. Ông bắt đầu phê phán giai cấp đó không chút thiên vị. Lúc này khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa cũng chiếm ưu thế hơn so với lúc trước.

2.2 Giai đoạn thứ hai (1830 – 1835)

Tác phẩm “Những người Chouans” đã làm tròn trách nhiệm mở đường của mình, hàng loạt tác phẩm ưu tú của Balzac ồ ạt xuất hiện và chiếm chỗ đứng khá vững. Và từ đầu năm 30, ông trở thành nhà văn có tiếng tăm nhất nước Pháp. Nếu như những tác phẩm ở giai đoạn trước chủ yếu là chống giai cấp quý tộc phong kiến thì những tác phẩm giai đoạn này chủ yếu chống giai cấp tư sản. Chính những thay đổi quan trọng trong đời sống chính trị của nước Pháp và thời kì đầu của những năm 30 đã quy định đặc điểm trong sáng tác của Balzac. Sau cách mạng tháng bảy 1830, giới quý tộc tài chính lên cầm quyền: đó là bọn chủ ngân hàng, chủ hầm mỏ, chủ đường sắt đang ra sức bóp nghẹt đất nước và đời sống nhân dân. Những cuộc khởi nghĩa đã nổ ra làm rung chuyển toàn đất nước. Bấy giờ, Balzac càng thấy rõ bản chất xấu xa, hèn hạ của giai cấp tư sản. Ông đã dùng tất cả sức lực để vạch mặt giai cấp tư sản và phê phán một cách không thương xót. Tiêu biểu là các tác phẩm “Gobseck” (1830), “Miếng da lừa” (1831) và đặc biệt là hai tác phẩm “Eugénie Grandet” (1833), và “Lão Goriot” (1834). Thông qua các tác phẩm đó, Balzac tố cáo, lên án thế lực của đồng tiền, nó có thể hủy hoại con người, biến họ thành những con người xấu xa và hèn hạ nhất.

Bên cạnh việc thấy giai cấp tư sản là lực lượng không tốt như ban đầu, Balzac còn nhìn nhận nhân dân một cách đúng đắn. Nếu lúc trước chưa nhìn thấy nhân dân hoặc xem nhân dân là lực lượng thủ cựu, mù quáng, thì đầu những năm 30 thái độ của tác giả đối với nhân dân đã khác hẳn. Tác giả khâm phục năng lực cách mạng nhân dân, lòng dũng cảm và hành động quên mình của họ. Trong tùy bút “Hai cuộc gặp gỡ trong một năm”, ông đã viết lên những dòng ca ngợi họ đầy sự tự hào “Ôi! Nhân dân, người đẹp biết bao!”. Hay trong truyện dài “Người thầy thuốc ở nông thôn” (1832-1833), Balzac ca ngợi những phẩm chất cao đẹp nơi tâm hồn trong sạch thuần khiết của những người nông dân nghèo.

Nếu như những tác phẩm giai đoạn trước còn bị ràng buộc trong phương pháp lãng mạn chủ nghĩa thì giờ đây phương pháp hiện thực chủ nghĩa chiếm một vị trí độc tôn. Điểm nổi bật nhất trong chủ nghĩa hiện thực của Balzac ở giai đoạn này là nhà văn kết hợp được việc phát hiện sâu sắc những mâu thuẫn của xã hội với việc tái hiện chính xác những tính cách và tình huống sôi động. Balzac nhìn thấy mâu thuẫn của thực tế theo quan điểm lịch sử, tìm nguyên nhân kết quả của nó. Tác giả gắn nhân vật với hoàn cảnh trong sự hình thành, phát triển và biến đổi tính cách.

2.3 Giai đoạn thứ ba (1836 – 1848)

Đây là giai đoạn cao nhất trong quá trình sáng tác của Balzac. Và cũng thời kì này nhà văn xây dựng bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”. Tác giả dùng văn chương như một vũ khí vạch trần sự liên minh giữa những tư sản và quý tộc hay những kẻ cấu kết với nhau để chống lại quần chúng nhân dân. Vào những năm 40, giai cấp công nhân bắt đầu giữ địa vị chủ yếu trong phong trào cách mạng và trở thành mối nguy hại lớn cho giai cấp tư sản hạng lớn đang nắm địa vị thống trị. Phong trào đấu tranh dẫn đến cuộc cách mạng năm 1848, “Sự va chạm đầu tiên lớn nhất giữa giai cấp vô sản và tư bản”, chính sự đấu tranh giữa hai lực lượng giai cấp vô sản và tư sản trong những năm 40, xác định giai đoạn sáng tác thứ ba của Balzac.

Nếu như lúc trước Balzac chỉ nêu lên sự xung đột của những người đại diện cho cả một lực lượng xã hội thì giờ đây, ở giai đoạn này, ông nêu lên sự đấu tranh giữa các nhóm người, giữa các giai cấp trong xã hội. Dường như Balzac đã phát hiện trong xã hội mà ông đang sống không chỉ đơn giản là xã hội của tư sản mà còn là xã hội của cả hai loại người: người giàu và người nghèo (vô sản). Chính vì thế, các sáng tác của Balzac thời kì này, chú tâm một cách đặc biệt đối với những con người dưới đáy xã hội. Bên cạnh đó nhà văn vẫn không sao nhãng việc vạch trần bộ mặt giới tư sản. Vậy ta có thể nhóm các tác phẩm lại cùng chủ đề. Các tác phẩm tiêu biểu về hình ảnh người nông dân nghèo khổ nhưng giàu danh dự và nhân phẩm có “Faxinô Canê” (1836), “Những người nông dân” (1844). Viết về những người tư sản cản trở sự phát triển xã hội có “Bước đường vinh nhục của các kỹ nữ” (1837-1847), “Người chị họ Bét” (1846), “Vỡ mộng” (1835- 1843)…

Và chính giai đoạn sáng tác này, Balzac xây dựng đề cương bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” và đã hoàn thành được 97 tác phẩm từ 1829 đến 1848.

2.4 Giai đoạn thứ tư (1848 – 1850)

Đây là giai đoạn những năm cuối đời của Balzac. Những sự kiện cách mạng năm 1848 có sức ảnh hưởng rất lớn đến nhà văn. Lúc này Balzac càng nhận thấy được vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân và hơn hết trong ông có sự chuyển biến tư tưởng khá rõ rệt. Ông công khai đứng về phía cộng hòa, về phía nhân dân, ca ngợi giai cấp công nhân tiến bộ.

Dù là những năm cuối cùng của cuộc đời nhưng Balzac vẫn lao động không hề mệt mỏi và xây dựng cho mình một tác phẩm liên hoàn gồm nhiều “Vở kịch nhân dân”. Vở kịch “Vua ăn mày” đã mất bản thảo. Đây là tác phẩm cuối cùng của ông.

@ Tiểu kết

Xét các quá trình sáng tác của Balzac chúng ta thấy giai đoạn đầu, các sáng tác của nhà văn chưa thật sự trở thành những tác phẩm bất hủ. Mãi đến các giai đoạn sau (từ giai đoạn thứ 2) mới lần lượt xuất hiện các tác phẩm để đời như “Lão Goriot”, “Vỡ mộng”, “Eugénie Grandet … Không những thế các giai đoạn sau số lượng cũng tăng lên đáng kể (trừ giai đoạn cuối đời). Đồng thời, chúng ta còn thấy được quá trình chuyển biến tư tưởng khá rõ rệt trong nhận thức và tư tưởng của nhà văn.

Dù cuộc đời ngắn ngủi nhưng Balzac đã đem đến cho đời vô vàn những hương thơm mật ngọt. Con người ấy là sự kết tinh của tinh hoa và trí tuệ. Thật khó mà kể hết những công lao Balzac đã âm thầm góp nhặt cho đời. Với bộ tiểu thuyết đồ sộ Balzac đã chứng minh cho một trí tuệ đầy nghị lực và bản lĩnh.

3. Cảm hứng và phương pháp sáng tác nghệ thuật

Cả cuộc đời của Balzac chịu ba sức ám ảnh lớn là: Napoléon, Dante và tiền bạc. Tuổi thơ Balzac đã thần tượng Napoléon. Và chính Napoléon mang lại mơ ước chinh phục thế giới cho Balzac “Lúc này trước tiên là tấm gương của Napoléon đang làm nảy nở ở anh ý muốn luôn khao khát cái tổng thể, luôn tìm kiếm một cách si mê để nắm bắt không phải một vài tài sản riêng lẻ mà tất cả sự trọn vẹn của vũ trụ – tóm lại là tham vọng nóng bỏng” [24]. Thế nhưng, con đường chinh phục của Balzac hoàn toàn trái ngược. Nếu như Napoléon chinh phục thế giới bằng đao kiếm, bằng máu và nước mắt thì Balzac chinh phục toàn thế giới bằng chính ngòi bút của mình với tâm hồn trong cao thánh thiện “Cái mà ông không thực hiện được bằng lưỡi gươm thì tôi đã thực hiện được bằng ngòi bút”. Điều này đã chứng tỏ “ngòi bút mạnh hơn lưỡi kiếm”, hay có thể nói rằng, bạo lực chỉ làm cho người ta khiếp sợ trong một lúc nào đó, cái ấm áp tình người mới quan trọng. Tuy không mang đến chiến thắng ngay lập tức nhưng cuối cùng nó cũng sẽ chiến thắng tất cả dù đó là sự bạo lực hay những vũ khí hiện đại. “Tấn trò đời” là kết quả của sự thắng thế đó.

Tiền bạc và Dante cũng là hai sức ám ảnh khá rõ nét ở Balzac. Từ nhỏ Balzac sống trong sự chăm lo của bố mẹ nên nhà văn chưa nhận thức đầy đủ về sức mạnh của tiền. Từ khi rời khỏi gia đình sống tự lập bằng con đường mình chọn, ông gia nhập vào xã hội cũng là đồng nghĩa với việc vật lộn cùng với cuộc sống. Balzac đã nếm trải biết bao cảnh đời thiếu thốn và lận đận. Và trong những cú va chạm đó, Balzac đã chứng kiến rất nhiều cảnh thương tâm, rất nhiều tội ác chỉ vì đồng tiền. Lúc này đây, ông mới thật sự thấm thía “TIỀN” và càng hiểu rõ cái sức mạnh ghê gớm của nó. Từ những bi kịch trong cuộc sống mà nhà văn chứng kiến đã thôi thúc ông hoàn thành bộ “Tấn trò đời”. Mặt khác, phải chăng Balzac chịu ảnh hưởng từ thi phẩm tuyệt diệu “Hài kịch thần thánh” (La Divina Comedia) của nhà văn gõ cửa Phục hưng – Dante. Để rồi sau này, Balzac cho ra đời “Hài kịch nhân sinh” (La Comedia Humaine), tức “Tấn trò đời”

Có lẽ, từ nhỏ Balzac đã được học cách sống tự lập và chính vốn sống, vốn hiểu biết của mình đã hình thành ở nhà văn một ý thức, một cánh nhìn toàn diện về cuộc sống.  Cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ và ở nơi đó có rất nhiều góc khuất đòi hỏi mỗi nhà văn phải nhìn bằng lăng kính đa chiều. Chính vì thế, các tác phẩm của ông như là một chỉnh thể của hệ thống nghệ thuật. Đối với Balzac nó phải là một công trình kiến trúc của vũ trụ. Hay nói rằng chính nhà văn đã tạo ra một “thế giới kiểu Balzac”, một “vũ trụ Balzac”. Cái thế giới vũ trụ đó hoàn toàn là sự sáng tạo của nhà văn chứ không phải là sự mô phỏng máy móc. Cái công trình kiến trúc đồ sộ vĩ đại được nhắc đến là “Tấn trò đời” với muôn vàn tinh hoa trí tuệ của Balzac, được tỏa ra và kết dính của gần 100 tác phẩm. Từ đó, ta có thể thấy rằng ở Balzac thể hiện hai cảm hứng nghệ thuật: “cảm hứng vĩ mô”“cảm hứng vi mô”.

Trước tiên là cảm hứng vĩ mô

“Vĩ mô” gợi cho ta nhận biết được đó là những vấn đề lớn, thường được chỉ những công trình nghiên cứu về những vấn đề có quy mô rộng. Nó được hiểu như một kiến trúc thượng tầng to lớn. Từ đó chúng tôi soi chiếu vào “Tấn trò đời” của Balzac. Bộ tiểu thuyết là cả một xã hội Paris rộng lớn và đầy màu sắc, góc cạnh. Không phải đó là sự lộng lẫy của những màu sắc tươi vui phồn thịnh mà đó là xã hội với bao bộn bề của cuộc sống, biết bao sự thối nát của những ung nhọt bên dòng sông Xen. Một xã hội chạy theo đồng tiền bất chấp cả luân thường đạo lí. Tình cha con, bạn bè chỉ là những công cụ hái ra tiền của những con người mất hết lương tri, mất hết tính người. Đó là những nhân vật trong “Lão Goriot” (Le père Goriot) sẵn sàng chạy theo đồng tiền, danh vọng. Để rồi, họ chà đạp lên những giá trị đạo đức tinh thần thiêng liêng nhất và cũng chính họ đã giẫm đạp lên chính bản thân mình. Hay những con người sẵn sàng bán linh hồn cho quỷ sứ, làm tay sai và nô lệ cho đồng tiền trong “Vỡ mộng”, “Miếng da lừa”, “Thuốc trường sinh”, “Eugénie Grandet”… Và còn rất rất nhiều tác phẩm như thế trong công trình đồ sộ của Balzac. Tóm lại, tính vĩ mô trong bộ tiểu thuyết là Balzac đã dùng tác phẩm văn chương phản ánh cả hiện thực xã hội Pháp nửa đầu thế kỉ XIX với sự ngự trị của đồng tiền.

Thứ hai, cảm hứng vi mô

Nếu như ở trên vĩ mô là chỉ quy mô lớn thì vi mô sẽ mang phạm vi nhỏ hơn. Tức là Balzac sẽ dừng lại đào sâu từng tác phẩm nhằm khai thác từng khía cạnh, từng tâm hồn nhân vật. Cảm hứng vi mô được hiểu là sự đào sâu vào tận ngõ ngách tâm hồn nhân vật. Hay nói một cách khác đó là những tác phẩm văn chương đi sâu vào thế giới nội tâm của con người, khi con người đứng trước những khó khăn và thách thức của cuộc sống. Cuộc đấu tranh đó là cuộc đấu tranh thầm lặng mà gay gắt quyết liệt giữa cái thiện và cái ác, giữa cái đẹp và cái xấu, giữa cái cao cả và cái thấp hèn diễn ra trong chính nội tâm của con người. Một chàng sinh viên nghèo Rastignac với bao khát vọng chân chính đã dần dần sa vào con đường tội lỗi. Đã không ít lần tâm hồn người thanh niên ấy đau đớn thậm chí lên án trước sự bạc bẽo tình người. Khi ấy cái thiện đang thắng thế. Cuối cùng trong cuộc đấu tranh vật lộn ấy cái ác đã chiếm ưu thế và tạm giành chiến thắng. Chàng đã dần mất hết tình người, lao vào ngấu nghiến cuộc sống một cách thực dụng và vô nghĩa giống như bao người chà đạp lên những nguyên tắc tình thương mà mình đặt ra, chà đạp lên chính nhân cách của mình.

Có thể nói Balzac đã khai thác một cách triệt để hai cảm hứng ấy trong quá trình sáng tác. Bằng sự vận dụng linh hoạt, Balzac đã tạo cho mình một tiếng nói riêng bất hủ với một công trình nghệ thuật được xem là vĩ đại nhất trong lĩnh vực sáng tác nghệ thuật cùng thời. Hai cảm hứng ấy không thể tách rời nhau và càng không thể không có mối quan hệ với nhau.

Có thể thấy cảm hứng phê phán là cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Balzac. Bởi hầu hết các nhân vật của ông đều là phản diện, kể cả những nhân vật chính, những nhân vật mà ông đã từng dành trọn tình yêu thương. Tuy nhiên vẫn có những nhân vật tốt đẹp từ đầu đến cuối. Nhưng số lượng này khá nhỏ và là nhân vật phụ. Đó là chàng sinh viên y khoa Bianchon, nàng Victorine. Thông qua đó nhà văn muốn phê phán, lên án, phủ định cái xã hội tù túng, bất công và đầy xấu xa mục ruỗng. Đó chính là bản chất của xã hội dưới thể chế tư sản và quý tộc lẫn lộn. Con người dưới thể chế đó dù cho bẩm sinh bản chất vốn lương thiện cũng biến thành kẻ không tình người. Cũng dưới xã hội đó con người vô tội phải gánh chịu những nỗi đau đớn khôn cùng, những bi kịch tưởng chừng như không thể thể xảy ra nhưng nó lại diễn ra một cách bình thường và công khai thách thức.

Đồng thời, qua những màn kịch nhân gian của mình, Balzac đã chứng minh một chân lí trong cuộc sống, nó đúng với mọi thời đại: Con người luôn chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Sống trong môi trường xa hoa, hào nhoáng và đầy cám dỗ thì con người rất dễ sa ngã, rất dễ bị cuốn trôi theo dòng chảy của tiền tài và danh vọng. Và để leo lên bậc thang danh vọng đó họ phải trả một giá rất đắt, đó là giẫm đạp lên lương tri và nhân phẩm của bản thân. Do xuất thân trong một gia đình tư sản nên Balzac thấu hiểu một cách rõ ràng về những tật xấu cũng như từng lời nói, hành động và cử chỉ của những tư sản, quý tộc. Trong “Tấn trò đời” nhà văn sử dụng hệ thống ngôn ngữ một cách sắc sảo và thích hợp.

Một trong những đóng góp cực kì quan trọng làm nên thành công cho bộ tiểu thuyết là thủ pháp tái xuất hiện nhân vật. Đây là thủ pháp mà nhân vật trong tiểu thuyết này tiếp tục xuất hiện với vai trò và địa vị khác trong một tiểu thuyết khác. Chính điều đó, Balzac đã tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các tác phẩm và làm tăng thêm tính chất tố cáo xã hội và thuyết phục bạn đọc. Như Rastignac xuất hiện trong khoảng 20 quyển: “Lão Goriot”, “Miếng da lừa”, “Vỡ mộng”, “Đại biểu thành Acxi”… Với việc xuất hiện nhiều lần trong nhiều tác phẩm như thế nhằm giúp người đọc theo dõi cả chặng đường phát triển tính cách, số phận của nhân vật với những bước thăng trầm trong cuộc chen chân vào thế giới đồng tiền, thế giới của những âm mưu và tội ác.

@ Tiểu kết

Tóm lại, qua toàn bộ tác phẩm của mình, Balzac đã thể hiện khá thành công hai cảm hứng nghệ thuật cũng như thể hiện một cách triệt để phương pháp sáng tác. Lúc nào nhà văn cũng bám sát hiện thực, bám sát đời sống của người dân Pháp và kịp thời phản chiếu vào trong văn học. Như trên đã nói, phần lớn tác phẩm Balzac miêu tả cái xấu, cái ác nhưng điều này không đồng nghĩa là ông không miêu tả cái đẹp, cái thiện. Cái đẹp, cái thiện vẫn có. Có điều trong tác phẩm của ông chúng rất mờ nhạt. Việc miêu tả thiện hay ác không quan trọng mà quan trọng là thông qua những cái thiện, cái ác đó Balzac có thực hiện được mong muốn của mình hay không. Balzac muốn kêu gọi giới tư sản hãy mở rộng vòng tay che chở và quan tâm người nghèo. Đó là vấn đề trăn trở trong suốt cuộc đời Balzac. Nhà văn căm ghét cái ác nhưng muốn dùng cái ác để răn dạy mọi người, hướng mọi người đến chân – thiện – mĩ. Và nói như Đặng Anh Đào “Cho đến nay, khi bàn đến một vấn đề mới của tiểu thuyết thì người ta vẫn phải lấy Balzac làm mốc để đối chiếu”.

& Giới thiệu vài nét về bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”

Không giống như một số nhà văn sau khi mất thì tác phẩm ngày càng nổi tiếng, Balzac là một trường hợp hoàn toàn đặc biệt. Khi mới ra mắt bạn đọc, “Tấn trò đời” nổi tiếng ngay sau khi được công bố. Thế nhưng sự nổi tiếng đó không chỉ là những lời khen ngợi mà còn nhiều lời chê bai thậm tệ, thậm chí lên án ghét bỏ. Nổi bật là những sự đả kích, những lời xuyên tạc từ phía nghiên cứu và phê bình. Họ ném vào Balzac những lời đầy ác ý và chua chát. Xanh-tơ-Bơv, nhà phê bình có uy thế của thế kỉ XIX thừa nhận “Mỗi nhà phê bình ưa săn một loài thú riêng, để mà xông vào băm vằm. Với tôi, đó là Balzac”. Phía báo chí cũng công kích ông mạnh mẽ đến thầm cầu nguyện cho Balzac có “cái đầu óc đã mòn, cái trí tưởng tượng đã cạn, cái bút pháp không ra cái bút pháp” [25]. Trước sự công kích của giới báo chí, Balzac vẫn cứ bình thản và trả lời cùng mọi người trong lời Đề tặng Hugo ở tiểu thuyết “Vỡ mộng”, Balzac nói rằng: “Tại sao “Tấn trò đời” dùng cái cười để chấn chỉnh phong tục, lại chừa ra lực lượng ấy trong khi giới báo chí Paris chẳng chừa ra một lực lượng nào?”.

Người ta nói, cùng chung một ngành, một con đường tức là đồng nghiệp thì sẽ hiểu nhau hơn, thông cảm cho nhau. Thế nhưng, các nhà văn nổi tiếng cùng thời với Balzac cũng có cái nhìn không thiện cảm “Lamartine ngạc nhiên, Vi-nhi khinh thị, Musset giễu cợt” [26]. Tại sao họ lại có thái độ không tốt với Balzac? Ngoại trừ vài ba nhà văn là đứng về phía ông, mà Hugo là một trong số người luôn ủng hộ và bênh vực Balzac, người bỏ lá phiếu hiếm hoi đề cử Balzac vào viện Hàn lâm Pháp. Bởi lẽ, phần đông số người đối cực với Balzac luôn cho rằng tác phẩm của ông “thiếu chất cao quý thực sự, không nắm bắt được những điều tế nhị, bàn tay nhà giải phẫu của ông làm nhơ nhớp những con người e lệ, ông bôi xấu thêm cái xấu. Nhưng khi tả cái thấp hèn thì ông thắng lợi, ông cảm thấy dễ chịu trong sự bẩn thỉu, ông sống ở đó không hề ghê tởm” [27]. Thật vậy, trong tác phẩm của mình Balzac đưa vào đó với tất cả sự xấu xa, bẩn thỉu, ti tiện, thấp hèn ở mọi giai cấp và tầng lớp và không chừa một ai. Có lẽ, các nhà văn lên án Balzac vì ở họ có cái nhìn, quan điểm thẩm mĩ không có điểm trùng với Balzac. Trên mặt phẳng văn học, Balzac và họ là hai đường thẳng song song không bao giờ có điểm giao nhau, không bao giờ gặp nhau dù chỉ một thoáng.

Bên cạnh các ý kiến không thiện cảm với nhà văn thì vẫn có những tiếng nói trân trọng và thông cảm ông. Engles đã từng khen ngợi “Tấn trò đời” còn hay hơn và cụ thể hơn tất cả sách sử học, kinh tế học… cộng lại. Gorki thì xem “Balzac là một đề tài vô tận và trên sức mình”. C.Mac thì cho rằng “Balzac xuất sắc ở sự am hiểu sâu sắc các quan hệ hiện thực”. Nhà văn hiện thực Standhal từng nói “Đừng kết tội tấm gương nếu nó phản ánh bùn lầy” [28]. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực. Tấm gương ấy có lúc phản ánh “bầu trời xanh” và cũng có lúc phản ánh “vũng bùn lầy”. Vì thế, chúng ta cần phải thông cảm và chia sẻ với Balzac, tức là chia sẻ với nỗi đau của nhân loại. Trước những công kích, lên án chua chát của bao người, Balzac vẫn đứng vững lập trường và càng hăng say viết, với niềm tin rằng: một ngày nào đó bạn đọc sẽ bênh vực ông, bênh vực cho một nhà văn hiện thực chân chính. Bởi lẽ, ông thấu hiểu rất rõ “Nếu anh chân thực trong miêu tả, người ta sẽ ném vào mặt anh cái từ vô đạo đức” [29].

Tóm lại, vấn đề Balzac là một vấn đề gây nhiều sự tranh cãi. Có người không thích chất văn hiện thực của Balzac nhưng cũng có người yêu quý nó như “đứa con đẻ”. Mỗi người, mỗi nhà văn sẽ có cách đánh giá và nhìn nhận khác nhau về Balzac. Riêng tôi, tôi cảm thấy ông là một con người có trái tim vĩ đại, biết thổn thức, lắng nghe, thông cảm, bênh vực, tranh đấu cho những nỗi đau và hạnh phúc con người. Đồng ý rằng, trong tác phẩm của Balzac phần lớn là mô tả những thứ xấu xa, độc ác nhưng đó chính là bản chất thật sự của xã hội Pháp nửa đầu thế kỉ XIX mà thành phố Paris là một điển hình. Nếu như chỉ sống trong những cái lãng mạn, xa vời, tốt đẹp thì con người dễ tự mãn và không phấn đấu. Cuộc sống này đã rất đẹp, rất hoàn mĩ thì cần chi vun đắp. Chính nhà thư kí của thời đại – Balzac đã thành thực ghi nhận và phản ánh nó. Chính Balzac đã rung lên một hồi chuông báo động cho toàn xã hội Pháp với tình trạng phẩm chất con người đang xuống cấp, xã hội thượng lưu tốt đẹp chỉ là cái bề ngoài hào nhoáng giả tạo. Balzac đang dùng văn chương của mình “tẩy rửa” xã hội Pháp, để nó càng tốt đẹp hơn. Vì vậy, chúng ta phải “Cảm ơn Balzac, người đầu tiên của Pháp đã xác định được với chi tiết cực kì chính xác, với sự minh mẫn cực kì sắc sảo, căn bệnh chúng ta vẫn đang đau” [30]. Bởi vì “bộ máy xã hội, đặc biệt là bộ máy tiền tài không hề thay ở xã hội Pháp từ Balzac đến nay”. Và chúng ta hãy “yêu quý Balzac một cách nồng nhiệt, có lẽ như người ta vẫn thường yêu quý một người thầy, một người bạn” [31].

Để rồi, bằng tất cả bút lực Balzac đã chứng tỏ văn chương của mình đẹp chứ không hề ô uế, đen tối như bao lời nhận xét. Với bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” nhà văn đã làm cho cả văn đàn phải xôn xao, lòng người phải rung động.

Với số lượng khá đồ sộ khoảng 97 tác phẩm, “Tấn trò đời” được nhiều người ví như Một nghìn lẻ một đêm của phương Tây. Do cách tính không thống nhất nên trong các sách viết về Balzac, số lượng tác phẩm được xác định là 97, 95, 91 hay 87, 85… tùy cách tính. Có những tiểu thuyết gồm 3 cuốn, 2 cuốn được tính riêng hay tính gộp. Lại có người tính hoặc không tính một số tác phẩm như “Bà con nghèo” (1846-1847), “Mặt trái của Lịch sử hiện đại” (1846), v.v…

Năm 1833, Balzac ngân lên tiếng reo vui đắc thắng khi trong đầu ông vụt lên ý nghĩ táo bạo về dự án công trình đồ sộ này “Hãy chào tôi đi, bởi tôi đang thành một thiên tài” [32]. Ngay từ năm 1830, hai tập truyện vừa được in dưới tiêu đề chung “Những cảnh đời tư”. Đây là mầm móng đầu tiên báo hiệu dự án “Tấn trò đời”. Năm 1832, có ý định tập hợp các tác phẩm tản mạn hình thành rõ ràng hơn khi Balzac gắn thêm hai tập truyện khác vào “Những cảnh đời tư”. Và khi đó đề cương toàn bộ, thoáng hình dung được vào năm 1833. Năm 1834, Balzac phát họa “Khảo luận phong tục”, bộ phận chủ yếu của công trình. Đến năm 1835, ông tiếp tục cho ra “Khảo luận triết học”, rồi “Khảo luận phân tích”. Năm 1837, trong thư gửi bà Hanska, Balzac cho biết ông sẽ thống nhất cả ba phần dưới một tiêu đề “Khảo luận xã hội”. Nhưng đến cuối năm 1841, “cái tên tuyệt vời và sâu sắc” [33] xuất hiện.

“Tấn trò đời” tiếng Pháp là “La Comédie Humaine”.“Tấn trò đời” dịch sát nghĩa là “Hài kịch nhân gian”. Cái tên này được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu. Có ý kiến cho rằng Balzac được gợi ý từ “Hài kịch thần thánh” của Dante như phần trên đã nói. Lại có ý kiến cho rằng ông chịu ảnh hưởng từ thơ của Musset và Vi-nhi.

                          “Vẫn diễn viên xưa, vẫn hài kịch ấy;

                           Dù đời giả dối bầy đặt bao nhiêu

                          Chỉ có bộ xương người bên trong là thực”

                                     (Alfred de Musset )

                     “Ta không nghe tiếng các ngươi thở dài, than khóc

                      Chỉ thoáng thấy bên trên diễn Tấn trò đời

                      Đang tìm khán giả trên thinh không tìm hoài chẳng thấy”

                                                 (An-phrết đơ Vinhi)

Tuy nhiên cũng có ý cho rằng đó là tự Balzac nghĩ ra. Mỗi nhà nghiên cứu đều có cơ sở và lí do khi đưa ra quan điểm của mình. Và cho đến nay vẫn chưa có ý kiến nào được chấp nhận. Dù là ý kiến nào đi chăng nữa thì điều quan trọng là Balzac đã đem đến cho chúng ta một công trình kiến trúc đồ sộ mà không phải ai cũng có thể làm được. Balzac đã “khảo sát” và “phân tích” những tính cách con người trong mối liên hệ với những “cảnh đời khác nhau”. Có thể nói “Tấn trò đời” là bộ tiểu thuyết tổng hợp nhiều loại hình tiểu thuyết. Tiểu thuyết tình, tiểu thuyết gia đình, tiểu thuyết phong hóa, tiểu thuyết lịch sử… Dù là loại tiểu thuyết nào thì bao trùm vẫn là sự đối nghịch giữa cá nhân và xã hội. Nó như một pho biên niên sử “gần như từng năm một” [34], là bộ bách khoa toàn thư có hơn 2000 nhân vật với những bộ mặt không thể quên trong đủ mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội.

Năm 1842, Balzac viết bài tựa “Tấn trò đời”, một bản tuyên ngôn độc đáo biểu lộ nhiều quan điểm mĩ học, triết học, chính trị, đồng thời cho thấy những mâu thuẫn trong nhận thức và tư tưởng của mình. Ở phần kết luận của lời Tựa, Balzac cũng đã nói rõ “Tính đồ sộ của một đề án bao gồm cả lịch sử và phê phán xã hội, cả phân tích bệnh trạng và tranh luận  về nguyên lí của xã hội”. Đến năm 1845, Balzac lập danh mục toàn bộ công trình, bao gồm ba phần:

* Phần I: Khảo luận phong tục.

Dự kiến: 111 tác phẩm .

Hoàn thành:  74 tác phẩm.

Phần này được chia ra làm 6 loại:

+ Những cảnh đời tư.

+ Những cảnh đời tình lẻ.

+ Những cảnh đời Paris.

+ Những cảnh đời chính trị.

+ Những cảnh đời nhà binh.

+ Những cảnh đời nông thôn.

* Phần II: Khảo luận triết học.     

Dự kiến:  27 tác phẩm.

Hoàn thành: 22 tác phẩm.

* Phần III: Khảo luận phân tích.

Dự kiến: 5 tác phẩm.

Hoàn thành: 1 tác phẩm.

Kết cấu của bộ tiểu thuyết được Balzac thể hiện rõ trong bức thư gửi bà Hanska. Đó là xu hướng tổng hợp và khái quát. Ở phần I “Khảo luận phong tục”, Balzac đi trình bày các hiện tượng xã hội và “không bỏ sót một hoàn cảnh nào, một gương mặt nào, một tính cách nào của đàn ông hay đàn bà, một nghề nghiệp nào, một giới xã hội nào”. Chính vì thế, phần này chiếm số lượng tác phẩm rất lớn. Và để tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến phần “Khảo luận phong tục” thì có phần “Khảo luận triết học”. Cuối cùng là phần “Khảo luận phân tích”. Ở phần này nhà văn chỉ ra các nguyên lí của xã hội và con người.

Để có cái nhìn khái quát và toàn diện về bộ tiểu thuyết này, chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt một số tác phẩm tiêu biểu trong bộ tiểu thuyết bằng biểu bảng sau. Đó là bảng thống kê danh mục các tác phẩm tiêu biểu của “Tấn trò đời” mà chúng tôi dựa vào “Giáo trình Văn học phương Tây” do nhiều tác giả biên soạn: Đặng Anh Đào, Hoàng Nhật, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Văn Chính, Phùng Văn Tửu.

Năm xuất bản Phần I

Khảo luận phong tục

Phần II Khảo luận triết học Phần III Khảo luận phân tích
Những cảnh đời tư Những cảnh đời tỉnh lẻ Những cảnh đời Paris Những cảnh đời chính trị Những cảnh đời nhà binh Những cảnh đời nông thôn    

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

1829         Những người Chouans   Sinh lí hôn nhân
1830 Gobseck

Nhà con mèo chơi bóng

    Một giai đoạn của thời kì khủng bố Mối đam mê nơi sa mạc   Thuốc trường sinh
1831 Người đàn bà ở tuổi  ba mươi    

 

Xaraxin

      Miếng da lừa

Kiệt tác chưa ai biết đến

Quán đỏ

1832 Đại tá Sabe Cha xứ ở Tour         Gia đình Marana
1833   Eugénie Grandet       Người thầy thuốc nông thôn Lui Lambe
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
1834 Lão Goriot I   Nữ công tước Đơ Langgie       Đi tìm cái tuyệt đối
1835 Lão Goriot II Bông huệ nơi thung lũng Con gái mắt vàng       Menmôt quy thiện
1836 Lễ cầu hồn của kẻ vô thần Căn phòng chứa đồ cổ I Fanxinô Can       Đứa con bị nguyền rủa
1837   Vỡ mộng I Xêra Birôtô

Những viên chức

     
1838   Căn phòng chứa đổ cổ II Nhà ngân hàng Nucingen     Người cha xứ nông thôn I
1839 Bêatrix Căn phòng chứa đổ cổ III

Vỡ mộng II

Vinh và nhục của người kĩ nữ I     Người cha xứ nông thôn II Maximilia Đôni
1841 Nàng nhân tình hờ Uếcxuyn Miruôt   Macca     Về Catơrin đơ Mêđixix
1842 Kí sự của đôi vợ chồng trẻ Cô gái khua cá Mặt trái của lịch sử hiện đại I      
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
1843 Onôrin Vỡ mộng III        
1844 Môđextơ Minhông         Những người nông dân I
1845     Một tay buôn bán       Những nỗi phiền hà của cuộc sống vợ chồng
1846     Chị Bette      
1847     Ông anh họ Pông

Vinh và nhục của người kĩ nữ II

Đại biểu ở Acxi    
Sau khi mất     Vinh và nhục của người kĩ nữ III

Mặt trái của lịch sử hiện đại II

Những người tiểu tư sản

    Những người nông dân II

Trên đây chỉ là một số tác phẩm tiêu biểu và quan trọng của bộ tiểu thuyết. Tất nhiên, các tác phẩm thống kê trên chưa đủ để hình dung toàn bộ quy mô của “Tấn trò đời”. Nhưng phần nào giúp bạn đọc có cái nhìn khái quát và tổng thể về bộ tiểu thuyết đồ sộ này.

Trong bài viết của mình về “Hô-nô-rô Đơ Banzac” in trong cuốn “Văn học lãng mạn và văn học hiện thực phương Tây thế kỷ XIX” tác giả Lê Hồng Sâm cho rằng “Tấn trò đời là một tổng thể toàn vẹn duy nhất”, các tác phẩm “hợp thành công trình là một đơn vị hoàn chỉnh, độc lập”, và “thống nhất bởi một chủ đề cơ bản, trong đó hai chủ đề nổi bật là đồng tiền và tham vọng cá nhân, hai động lực của xã hội và con người tư sản”. Thật vậy, đồng tiền là huyết mạch của “Tấn trò đời”. Mà cụ thể là huyết mạch của con người, những con người đang vật lộn cùng cuộc sống. Balzac đã phản ánh khách quan và chính xác thực tế xã hội đương thời. Đó là lúc xã hội tư sản đang thắng thế, chế độ phong kiến tạm thời lắng xuống. Và thỉnh thoảng, giai cấp phong kiến lại bật dậy nắm uy quyền. Xã hội lúc bấy giờ xáo trộn hơn bao giờ hết. Trong tiểu thuyết “Chị Bette”, Balzac nhận định rằng “chính ngài Lui Philip cũng biết là bên trên bảng hiến chương của ông còn có đồng tiền thần thánh, tôn kính, kiên cố, khả ái, duyên dáng, xinh đẹp, cao quý, trẻ trung, đồng năm xu vạn năng”. Đồng tiền là hết thảy, là tất cả, là chân lí xuyên suốt bộ “Tấn trò đời”. Nhờ có đồng tiền mà gã Do Thái trong tiểu thuyết “Gobseck” mua được “lương tâm những kẻ giật dây các bộ trưởng”. Còn theo Grandet thì con người thực tế “có tiền mới có hạnh phúc, không thì bánh vẽ”, v.v… Tóm lại tiền vẫn là trên hết như nhà văn Balzac đã từng tổng kết “đồng năm xu nằm dưới đáy mọi lương tâm”. Khi đồng tiền ngự trị, xã hội tư sản Paris lúc bấy giờ hiện nguyên hình là một xã hội lang sói, với quy luật rừng rú “phải giết người để khỏi bị người giết, phải lừa người để khỏi bị lừa”.

Tham vọng cá nhân của những con người trong xã hội tư sản là vấn đề quyết liệt và gay gắt. Là con người ai mà không mơ ước tham vọng. Nhưng tham vọng ở đây không phải là tham vọng chung cho mọi thời đại mà là sản phẩm của xã hội tư sản thế kỷ XIX. Cuộc cách mạng tư sản Pháp đã làm thức tỉnh tham vọng cá nhân ấy. Vì cuộc cách mạng đã xóa bỏ mọi đặc quyền thuộc dòng dõi trong xã hội phong kiến. Điều này có ý nghĩa là công dân có “quyền bình đẳng” trong xã hội. Nhưng thực chất đó là quyền bình đẳng trong sự cạnh tranh và chèn ép lẫn nhau, trong cuộc chạy đua làm giàu. Để có được tham vọng đó, họ đánh đổi tất cả. Lương tâm ư? Chẳng đáng giá một xu. Họ lao vào ngốn nghiến những gì cản chân tham vọng của mình. Điển hình cho những con người có tham vọng ấy là các chàng trai thanh niên tỉnh lẻ. Lúc đầu họ là những chàng thanh niên tốt bụng, có tình yêu thương của trái tim con người. Họ có mơ ước, tham vọng là được gia nhập và trở thành một quý tộc, một con người thuộc giới thượng lưu trăm phần trăm. Lúc đầu họ còn đi bằng hai chân của mình, nhưng sau đó để đạt được chức danh cao quý đó họ sẵn sàng giẫm đạp lên người khác, bán linh hồn cho quỷ sứ. Để rồi, chính bản thân họ đã bóp chết những ảo tưởng ngây thơ của mình, mất dần những phẩm chất tốt đẹp vốn có. Trong “Tấn trò đời” không ít những thanh niên như thế. Họ có số phận khác nhau, có kẻ thành công như Rastignac, Charles, Grandet…; có kẻ thất bại như Lucien… Dù họ thành công hay thất bại thì tất cả đều bị xã hội chinh phục, hủy diệt hoặc về thể chất hoặc về tâm hồn.

      @Tiểu kết

“Tấn trò đời” quả là kho biên niên sử nước Pháp vô cùng quý báu. Nếu như ai đó chưa từng đặt chân đến Pháp hay chưa từng hiểu gì về xã hội Pháp thế kỉ XIX thì hãy tìm đến bộ tiểu thuyết này. Đó là một sản phẩm tinh vi của con người tài hoa, trí tuệ. Balzac không chỉ viết nên một cuốn sách mà là cả thế giới. Ở điểm này, Balzac hơn hẳn thần tượng của mình là Napoléon. Và có thể tin rằng, Balzac còn vượt lên trên tài sáng tác của đức Chúa Trời tối cao! Tất cả được nói lên bằng chính các tác phẩm của nhà văn. Phải có một bộ óc minh mẫn, một năng lực tài ba, một nghị lực phi thường, một niềm đam mê tuyệt đối mới có thể viết nên những trang gây nhức nhói xã hội đến thế. Chắc chắn rằng không chỉ nhân dân Pháp mà tất cả con người trên trái đất này đều nhớ đến Balzac, nhắc mãi cái tên thân quen này. Chính nhà văn “cung cấp một bộ lịch sử hiện thực tuyệt vời của xã hội Pháp, đặc biệt là xã hội thượng lưu Paris” [35].

CHƯƠNG III: CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TIỂU THUYẾT “LÃO GORIOT

 I. Bối cảnh lịch sử – xã hội của tác phẩm

Tiểu thuyết “Lão Goriot” được sáng tác và xuất bản năm 1834. Tiểu thuyết lấy bối cảnh kinh đô Paris năm 1819. Đây là giai đoạn sau khi Napoléon thất bại ở trận Waterloo và nhà Bourbon quay trở lại nắm vương quyền Pháp. Việc Lui XVIII lên ngôi đã châm ngòi cho sự đối kháng về quyền lợi của giới quý tộc cũ vừa quay lại nắm vương quyền và giới tư sản vừa phất lên sau cuộc cách mạng.

Xã hội Pháp thế kỉ XIX có nhiều biến động chính trị dữ dội. Lúc này, xã hội tư sản đang trên đà phát triển. Nó như sự phát triển vượt bậc của cơ thể thanh niên đang trưởng thành. Thật ra từ thời Phục hưng khoảng thế kỉ XIV, XV, XVI thì giai cấp tư sản đã cất tiếng nói khẳng định quyền sống của mình nhưng chưa giành được chính quyền. Đó là sự đấu tranh chống lại phong kiến và lễ giáo thần quyền. Đến thế kỉ XVII là sự hòa hoãn giải lao của giai cấp tư sản và phong kiến. Mãi đến một thế kỉ sau – thế kỉ XVIII, cuộc Cách mạng tư sản 1789 giành thắng lợi và thành lập nền cộng hòa tư sản. Đây là giá trị lớn lao nhất trong lịch sử nước Pháp. Nó có ý nghĩa to lớn vì đánh đổ nhà nước phong kiến cầm quyền thay vào đó là nền cộng hòa dân chủ. Và đến thế kỉ XIX này, giai cấp phong kiến thỉnh thoảng giành lại chính quyền nhưng nó không còn là chính quyền phong kiến như xưa. Mà chính quyền này chấp nhận tư sản trong bộ máy quản lí. Vua, quan về hình thức là phong kiến nhưng thật ra là tư sản. Họ có thể là chủ một ngân hàng hay một giám đốc nào đó… Chẳng những thế, Quốc hội cũng đều là tư sản. Vì vậy sự ngoi dậy của giai cấp phong kiến không làm thay đổi được gì.

Ở giai đoạn này, vẫn có nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống lại nhà nước tư sản như cuộc khởi nghĩa năm 1830-1832, năm 1848, năm 1871. Do mâu thuẫn nội bộ của xã hội tư sản. Xã hội tư sản vẫn chưa thật sự ổn định. Các cuộc khởi nghĩa đó nhằm chống lại những chính sách chưa phù hợp của Pháp. Các cuộc khởi nghĩa đều bị dập tắt. Cuối cùng giai cấp tư sản vẫn là giai cấp chiến thắng tuyệt đối. Tuy nhiên nó lại mắc sai lầm. Tức là, khi công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ thì giai cấp tư sản càng phát triển và trở thành một thanh niên cường tráng. Nếu không đủ cung cấp thì sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt. Giai cấp tư sản Pháp cũng vậy, nó đói thị trường, đói nguyên vật liệu… Để cứu đói, họ tiến hành xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị trường, khai thác tài nguyên.

Dù lịch sử thế kỷ XIX còn phải đi qua nhiều khúc quanh thì thế kỷ XIX dù muốn hay không cũng trở thành một tổng thể lịch sử – văn hóa với rất nhiều thay đổi ngoạn mục. Chính cái tổng thể lịch sử – văn hóa mới sẽ là nguồn chất liệu dồi dào cho giới văn nghệ sĩ. Chứng kiến trước những biến động của xã hội, Hugo, Balzac và các nhà trí thức hầu như rất bất mãn với xã hội tư sản. Hugo nhà lãng mạn tích cực đã cất lên những tiếng nói cảm thương cho “Những người khốn khổ” trong xã hội tư sản bấy giờ. Nhà văn đòi hỏi giai cấp tư sản và quý tộc hãy mở rộng lòng và dành tình yêu thương cho đẳng cấp thứ ba. Bởi tư sản đều xuất thân từ đẳng cấp này. Hugo không đả kích mà chỉ thiết tha yêu cầu, kêu gọi họ hãy thực hiện lời hứa ban đầu. Để chuyển tải những lời kêu gọi đó, Hugo đã tạo ra hình tượng lãng mạn bất hủ Jean Valjean [36].

Giữa thế kỉ XIX, quan niệm thẩm mĩ của giới văn nghệ sĩ cũng thay đổi. Nó có sự chuyển biến rõ rệt. Không bay bổng lãng mạn họ quay về với thực tại cuộc sống, lấy hiện thực xã hội làm chất liệu cho việc sáng tác của mình. Balzac là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Bằng sự quan sát của mình, Balzac đã làm cho bạn đọc thỏa mãn trí tò mò và khao khát hiểu biết hiện thực đang sống. Đó là hiện thực xã hội với quy luật cạnh tranh khốc liệt: kẻ nào mạnh, kẻ nào có tiền thì kẻ đó chiến thắng. Cụ thể là những con người trong tiểu thuyết “Lão Goriot”. Dù Balzac lấy bối cảnh xã hội Paris nhưng qua đó nhà văn đã khái quát toàn bộ xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ XIX. Dù phơi bày những xấu xa trong xã hội tư sản nhưng Balzac không hề phản động hay đứng lên tiến hành một cuộc cách mạng lật đổ tư sản. Mà điều cốt yếu là ông muốn rằng xã hội sẽ không còn những cảnh đau lòng phải rơi lệ. Nhà văn muốn mọi người hãy dùng trái tim mình để sưởi ấm bao trái tim nhân loại.

II. Tiểu thuyết “Lão Goriot”

  1. Giới thiệu vài nét về tiểu thuyết “Lão Goriot”

“Lão Goriot” tên tiếng Pháp là “Le Père Goriot”. Tiểu thuyết “Lão Goriot” là một tiểu thuyết được nhà văn xếp vào “Những cảnh đời tư”. Thuộc phần “Khảo luận phong tục”. Tiểu thuyết được xuất bản năm 1834, đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong con đường nghệ thuật tiểu thuyết của Balzac. Tác phẩm lấy bối cảnh Paris 1819, đề cập đến vấn đề nóng bỏng của xã hội – sức mạnh của đồng tiền trong xã hội tư sản.

Toàn bộ xã hội Pháp thế kỉ XIX được nhà văn thu nhỏ trong tiểu thuyết này, cụ thể là quán trọ Vauquer, nơi dừng chân tạm thời của những con người, những nạn nhân của xã hội kim tiền. Tất cả đều bị cuốn hút theo danh lợi và địa vị. Đó là lão phó mì Goriot suốt đời chỉ biết hy sinh vì hai cô “công chúa” bé nhỏ. Trong khi hai cô này vô tư, không hề để ý đến cảm xúc của cha. Một tên tù khổ sai vượt ngục cáo già chuyên “săn” những thanh niên trẻ tuổi đầy tham vọng như Rastignac, chàng trai hiếm hoi trong tác phẩm có tâm hồn trong sáng nhưng cuối cùng cũng biến chất thành kẻ xấu xa, dối trá.

Như đã nói, “Tấn trò đời” là tập hợp nhiều tác phẩm đơn lẻ. Các tác phẩm đó vừa gắn kết với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập. Cốt truyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đây là thủ pháp tái xuất hiện được xem là độc đáo và tài ba nhất của Balzac. Ở “Lão Goriot”, chàng thanh niên tỉnh lẻ Rastignac vẫn còn là con người lương thiện. Ở chàng chỉ mới là thái độ “thách thức” thông qua việc ăn tối nhà bà ngân hàng Nucingen. Chàng sinh viên ngành luật này thật sự tha hóa và biến thành kẻ tha hóa ở các tác phẩm sau. Đồng thời, tiểu thuyết “Lão Goriot” còn thể hiện rõ bộ mặt xấu xa của giới thượng lưu, quý tộc xa hoa, trụy lạc. Qua đó, Balzac còn cảm thông, thương xót cho số phận những con người bất hạnh trong xã hội Paris. Đó là nàng Victorine Taillefer hiền lành đáng thương cùng với người dì Coutere tội nghiệp. Và một số con người lầm lũi sống âm thầm tẻ nhạt không ánh sáng, không hy vọng vào tương lai nơi quán trọ tồi tàn rẻ tiền ở Paris.

@Tiểu kết

Tóm lại, với “Lão Goriot” Balzac đã tập hợp tất cả mọi loại người, mọi giai tầng xã hội với mọi thói hư tật xấu, mọi cảnh đời ngang trái. Đó là bộ mặt xã hội Pháp lúc bấy giờ khi dòng dõi Bourbon phục hoàng. Thông qua lão Goriot, Rastignac và các nhân vật khác trong tiểu thuyết, nhà văn Balzac muốn bộc lộ cái nhìn bi quan trước sự thay đổi của xã hội đó. Và có thể khẳng định rằng “Lão Goriot” là tiểu thuyết điển hình cho chủ nghĩa hiện thực phê phán.

2. Tóm tắt cốt truyện

Tác phẩm gồm có các nhân vật sau:

– Lão Goriot: Chủ cửa hàng bột mì

– Rastignac: Chàng sinh viên nghèo ngành Luật

– Vautrin: Tên tù khổ sai vượt ngục

– Bà tử tước Beauséant: Dì họ hàng xa của Rastignac.

– Anastasie: Con gái lớn lão Goriot

– Bá tước Restaud: Chồng Anastasie.

– Delphine: Con gái út lão Goriot

– Nam tước (nhà ngân hàng) Nucingen: Chồng Denphine

– Bà Vauquer: Chủ quán trọ

– Coutere: Vợ góa của Ủy viên tư lệnh nước Cộng Hòa Pháp

– Victorine Taillefer: Cô gái hiền lành tội nghiệp, con rơi của tỷ phú ngân

hàng Taillefer

– Bianchon: Sinh viên ngành Y, bạn của Rastignac.

– Sylvie: Chị đầu bếp quán trọ

– Christophe: Cậu làm công ở quán trọ

– Poiret : Người đàn ông bí ẩn

– Michonneau: Cô gái già bí ẩn

Tiểu thuyết “Lão Goriot” đề cập đến nhiều loại người trong xã hội. Trong đó nổi bật là số phận, cuộc đời lão Goriot và Rastignac. Nhờ vào sự chăm chỉ, tần tiện và hơn hết là khả năng nhạy bén biết tận dụng thời cơ nên lão phó mì Goriot giàu lên một cách nhanh chóng và trở thành triệu phú. Lúc nào lão cũng khao khát được trở thành quý tộc nên đã kết hôn với người phụ nữ quý tộc. Vợ lão sinh ra hai cô con gái là Anastasie và Delphine. Gia đình lão sống êm đềm và hạnh phúc. Nhưng không lâu sau vợ lão mất, tất cả tình thương lão dành hết cho con của mình. Càng lớn Anastasie và Delphine càng xinh đẹp. Vì quá thương con, lão muốn con mình trở thành giới thượng lưu quý tộc, một lần nữa lão lại kết thân với gia đình quý tộc. Lão tìm cho Anastasie một bá tước Restaud, tìm cho Delphine một chủ ngân hàng nam tước Nucingen. Khi lấy chồng, lão đã cho hai cô con gái rất nhiều trang sức, vàng ngọc hồi môn nhưng hai cô luôn chạy theo sự phù hoa của quý tộc và bắt đầu sa đọa. Và cứ thế hai nàng thản nhiên bòn rút tiền của bố. Anastasie và Delphine không hề ý thức hành động tồi tệ của mình. Hai nàng vô tình biến cha mình thành cái máy in tiền, muốn lấy bao nhiêu thì đến than khóc với ông lão. Hai chàng rể quý tử mà lão chọn chẳng xem lão ra gì. Chúng xem thường một lão già tư sản chỉ có tiền, mọi thứ thì thấp kém. Chúng khó chịu với ông bố vợ này. Kể cả hai cô con gái cũng bị chồng mình quý tộc hóa. Cảm nhận được sự lạnh nhạt, khó chịu đó, lão Goriot tự mình rút lui để con mình được vui và hạnh phúc. Lão phải ở trong quán trọ bà Vauquer. Lão ra đi mà không hề oán trách con gái mình dù chỉ một lời. Ở nơi quán trọ tồi tàn lúc nào lão phó mì cũng trông chờ hai cô con gái đến thăm. Thỉnh thoảng chúng đến một lần và thay phiên nhau đi. Đến thăm cha mà hai cô cải trang không muốn cho ai phát hiện và rất sợ nếu ai đó nhận ra mình. Bởi một bà quý tộc đi xe có huy hiệu lại có thể đến nơi xó xỉnh và bẩn thỉu như thế này. Mỗi lần họ đến là lão mất đi một món quý giá. Dần dần lão Goriot trở thành một kẻ nghèo túng.

Trong quán trọ có những khách thuê phòng dài hạn như Vautrin – tên tù khổ sai vượt ngục; Victorine – cô gái nhà tỷ phú ngân hàng Taillefer, bị cha ruồng bỏ, dành tất cả tài sản cho con trai; bà Coutere hết mực yêu thương và cưu mang nàng; chàng sinh viên ngành Luật từ tỉnh lẻ lên Paris học, De Rastignac. Và cùng với một số khách trọ ngắn hạn khác.

Rastignac chán ngán cuộc sống nghèo khó, khao khát được gia nhập vào giới thượng lưu. Chàng viết lá thư nhờ người dì họ hàng xa là bà tử tước Beauséant giúp đỡ. Chàng làm quen được với Anastasie. Chàng cũng từng bị hút hồn bởi vẻ đẹp của nàng nhưng sau bị nàng hất hủi. Một lần khác, nhờ vào sự chỉ dẫn của bà Beauséant, Rastignac quen được Delphine và yêu say đắm nàng. Cuối cùng chàng cũng chinh phục được trái tim kiêu kì của Delphine. Dù biết Delphine có gia đình, có nhân tình bảnh bao, Rastignac vẫn không hề bỏ cuộc. Hai người yêu nhau say đắm và chân thành. Khi Rastignac hiểu ra quan hệ giữa lão Goriot, Anastasie và Delphine thì chàng đã thổ lộ thật về mối tình của mình với lão Goriot. Lão vốn thân với Rastignac thì bây giờ càng yêu quý chàng hơn. Lão tìm mọi cách cho họ được ở bên nhau. Lão đã dùng hết số tiền còn lại 12000 franc để mua căn nhà cho hai người và cùng họ sống chung ở đó. Đúng thời gian đó, hết cô chị đến cô em đến khóc lóc về chuyện gia đình. Lão buồn và ốm nặng. Hai cô con gái không hề đến thăm chỉ có Rastignac và Bianchon chăm sóc ông. Khi ông lão sắp trút hơi thở cuối cùng họ cũng không đến dù Rastignac đã đến nhà thông báo.

Thật ra họ không phải hoàn hoàn mất tính người, khi nghe cha mình sắp chết họ cũng hoảng hốt nhưng cả hai cô đều không thể đi vì kẹt chuyện gia đình. Cuối cùng khi lão tắt thở thở, cô chị mới chạy đến một lúc và ngất xỉu. Cô em không đến vì khi chuẩn bị đi thì cãi vã kịch liệt với chồng rồi cũng ngất xỉu. Thế là lão chết trong sự tủi hờn, uất ức, cô đơn.

Lễ tang được tổ chức sơ sài bằng những đồng tiền ít ỏi của Rastignac, thậm chí Rastignac còn vay tiền của Christophe để trả tiền công cho hai phu huyệt. Lúc đưa tang, người ta thấy có hai chiếc xe mang gia huy của hai dòng họ Restaud và Nucingen nhưng trên xe trống rỗng. Tác phẩm khép lại với hình ảnh Rastignac nhìn xuống phố phường Paris với hành động thách thức đầu tiên là đến ăn tối nhà bà ngân hàng Nucingen.

3. Lão Goriot, một bức tranh hiện thực rộng lớn và sinh động

3.1 Cách đặt tên tác phẩm “Lão Goriot”

Trong lĩnh vực nghệ thuật, nội dung và hình thức là hai vấn đề gây nhiều tranh cãi. Thậm chí ở Việt Nam còn sinh ra cả hai phái hoàn toàn đối lập nhau. Một bên cho rằng một tác phẩm chỉ cần mang đến nội dung hay, hấp dẫn người đọc là được, hình thức không quan trọng. Ngược lại, một bên cho rằng văn chương đầu tiên phải là đẹp, vì mục đích nghệ thuật, thẩm mĩ, tức là văn chương phải “vị nghệ thuật” không phải “vị nhân sinh”. Thiết nghĩ, chúng ta cần phải dung hợp cả hai hình thức và nội dung. Có như thế mới thực sự mang đầy đủ ý nghĩa là một tác phẩm văn chương. Nội dung và hình thức phải song đôi với nhau, không thể tách rời nhau. Chính vì thế, khi tạo ra một tác phẩm, ngoài việc nhà văn chăm chút nội dung từng câu, từng chữ của văn bản, điều cũng không kém phần quan trọng là cách đặt tên nhan đề tác phẩm. Vì nhan đề tác phẩm cũng hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Có nhiều cách đặt tên cho nhan đề. Ở nhà văn này thì lấy nội dung bao trùm tác phẩm để đặt tên. Lại có nhà văn lấy tên nhân vật làm nhan đề. Và tiểu thuyết “Lão Goriot” là một trong những số đó – lấy tên của một ông lão làm tên tác phẩm. Cách đặt tên cho nhan đề bằng nhân vật được nhiều giới văn nghệ sĩ ưa dùng. Đó là “Chí Phèo” (Nam Cao), “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), “Anna Karenina” ( L.N. Tolstoi),…

Khi đọc nhan đề “Lão Goriot” người ta có thể hình dung một cách sơ lược về tác phẩm mặc dù chưa tiếp xúc với văn bản. Mọi người sẽ dễ dàng biết được đó là câu chuyện về ông lão tên Goriot. Nhan đề là một trong những ý đồ nghệ thuật của tác giả. Nó là một trong những mật mã giải đáp ẩn số của tác phẩm. Có nhiều cách đặt tên cho tác phẩm nhưng Balzac lại lựa chọn cách đặt tên tác phẩm bằng tên nhân vật mà không đặt tên nhan đề bằng nội dung bao trùm nào đó. Chẳng hạn như: Tình người Paris, sức mạnh đồng tiền, mặt trái Paris,… Nếu muốn biết câu trả lời, chúng ta sẽ giả thuyết từng trường hợp. Nếu lấy nhan đề “Tình người Paris” thì mọi người chỉ thấy được một khía cạnh. Đó là tình người bạc bẽo trong xã hội Paris lúc bấy giờ. Nhan đề này không thể khái quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Tương tự như thế, nếu lấy nhan đề “Sức mạnh đồng tiền” hay “Mặt trái Paris” cũng không ổn. Bởi tác phẩm đâu chỉ có thế mà vốn chứa đựng rất nhiều vấn đề. Chính vì thế, Balzac đã lựa chọn cho tác phẩm mình một cái tên nhân vật cụ thể. Bởi vì thông qua số phận và cuộc đời lão phó mì Goriot, Balzac nói đến rất nhiều vấn đề. Đó là tình người bạc bẽo, phẩm chất nhân cách đang bị tha hóa, con người cam tâm làm nô lệ của đồng tiền với những tham vọng điên cuồng… Khi đó đến với tác phẩm, mọi người sẽ có cách cảm nhận riêng tùy theo khả năng. Điều này có nghĩa là bạn đọc đã đồng sáng tạo cùng nhà văn. Balzac không hề bó buộc, quy định cách hiểu mà cho độc giả dùng kiến thức và sự trải nghiệm của bản thân để giải quyết vấn đề.

Chỉ có một nhan đề mà liên hệ với biết bao nội dung. Đấy là ý đồ sáng tạo nghệ thuật của Balzac. Số phận và cuộc đời lão Goriot nói lên rất nhiều vấn đề gay gắt trong xã hội Paris ngày ấy. Cái tình giữa người và người đã không còn, nó chẳng đáng giá một xu. Và ở giữa hai con người không phải là người – tình – người mà là người – tiền – người. Xã hội chỉ có tiền và tiền. Sức mạnh của đồng tiền làm đảo điên cả xã hội. Bằng chứng là làm đảo điên cuộc đời của lão Goriot đáng thương và những con người nhỏ bé trong quán trọ Vauquer.

Khi đặt tên cho tác phẩm là tên của một nhân vật thì nhân vật đó sẽ là nhân vật chính trong tác phẩm thông thường là như vậy. Nhưng tiểu thuyết này chúng ta cần phải lưu ý. Đồng ý rằng lão Goriot là nhân vật chính trong tác phẩm nhưng không có nghĩa là nhân vật chính chỉ có lão Goriot. Mà ở đó còn có cả chàng sinh viên ngành Luật De Rastignac. Chúng tôi xin làm phép đối chiếu sau. Thứ nhất, đối chiếu lão Goriot với tất cả nhân vật khác ngoại trừ Rastignac thì tất nhiên lão Goriot là nhân vật chính. Thứ hai, đối chiếu lão Goriot và Rastignac. Giữa hai nhân vật này, thiết nghĩ lão Goriot chỉ là cái nền, cái kết quả, một bài học cho chàng sinh viên bước vào đời. Nếu hình dung quãng đường mà Rastignac thâm nhập vào cuộc sống bằng các nấc thang thì lão Goriot chính là nấc thang cuối cùng làm bàn đạp cho chàng tiến sâu vào cái xã hội đáng sợ đó. Bởi vì sao? Chàng sinh viên này đã chứng kiến từ đầu đến cuối cuộc đời bất hạnh của lão Goriot. Lão bị các con đối xử như thế nào và cuối cùng là cái chết đau đớn thương tâm, Rastignac là người thấu hiểu nhất. Để rồi, Rastignac nhận ra được sự bạc bẽo tình người. Xã hội hiếm hoi người tốt, người tốt thì chịu hậu quả cay đắng, bất hạnh như lão Goriot. Chính cái chết của lão Goriot làm cho chàng sinh viên ngây thơ non nớt thức tỉnh. Lão Goriot là một bài học đường đời cay đắng mà bất cứ ai cũng không muốn đón nhận. Lão hiểu rằng, phàm con người sống trên đời quá hiền lành chân thực sẽ bị xã hội đào thải và triệt tiêu. Một bài học cay đắng mà cả cuộc đời lão phó mì đến phút cuối mới nhận ra “Thế giới này chẳng đẹp đẽ gì”. Đó là lời hấp hối sau cùng mà lão nói với Rastignac. Ông lão đã gửi toàn bộ bài học lĩnh ngộ được trao tặng tất cả cho chàng sinh viên. Ông không muốn sẽ có một lão Goriot thứ hai, thứ ba… như chính ông vậy. Và lão Goriot mong rằng Rastignac sẽ có cuộc đời tốt đẹp hơn mình. Đúng như tâm nguyện của ông, chàng sinh viên lăn xả vào đời mà không hề gục ngã. Bởi chàng rất sợ sẽ trở thành lão Goriot tiếp theo. Một chàng sinh viên có trái tim nhân hậu đã biến thành một con quỷ không tình người vô cùng đáng sợ ở các tác phẩm tiếp theo.

@Tiểu kết

“Lão Goriot”, một nhan đề ngắn gọn mà vô cùng độc đáo và đầy ý nghĩa sâu xa. Và tin chắc rằng cái tên này luôn đọng mãi trong lòng người đọc. Đó là hình ảnh Paris tăm tối nhưng thấp thoáng đâu đó lóe lên tia sáng của một người cha có tấm lòng thương con vô bờ bến. Và ở đâu đó có những tiếng thở dài, vài giọt nước mắt rơi giữa đêm tối trong Paris hào nhoáng, xa hoa.

3.2 Nghệ thuật miêu tả và xây dựng cốt truyện

Bất kì một tác phẩm văn chương nào cũng phải đảm bảo hai mặt: nội dung và nghệ thuật. Nội dung hay hấp dẫn người đọc thì nghệ thuật chuyển tải những nội dung đó cũng phải điêu luyện và lôi cuốn. Nếu xem nội dung là cốt lõi thì nghệ thuật sẽ là cái khung giá đỡ vững chắc, tô nền cho nội dung thêm phong phú sinh động. Một tác phẩm dù có nội dung hay đến đâu, cảm động đến mức nào mà không có sự góp mặt của nghệ thuật biểu hiện thì tin chắc rằng tác phẩm đó sẽ không được hoan nghênh đón nhận. Dù có được đón nhận đi chăng nữa cũng sẽ xóa theo thời gian.

Trong tác phẩm của mình, Balzac luôn dung hòa giữa nội dung và nghệ thuật. Chính vì thế các tác phẩm của ông dù cách ta hàng mấy thế kỉ nhưng lại thấy như mới hôm qua. Một trong những tiểu thuyết làm nên sức mạnh to lớn đó là “Lão Goriot”. Ở tiểu thuyết này, Balzac đã vận dụng thành công và có hiệu quả nghệ thuật miêu tả và cách xây dựng cốt truyện.

3.2.1 Nghệ thuật miêu tả

Miêu tả là cách dùng lời văn tả lại, vẽ lại sự việc, vấn đề chính mắt người viết chứng kiến một cách có nghệ thuật, hấp dẫn người đọc. Mục đích của việc miêu tả là gợi trí tưởng tượng và gây tình cảm ở người đọc. Balzac là một trong những cây bút có sức miêu tả dồi dào. Chính vì thế, ông trở thành “mẫu mực của mọi sự miêu tả” [37]. Ở tiểu thuyết “Lão Goriot” nghệ thuật miêu tả đạt đến mức nhuần nhuyễn và tài tình. Nhà văn miêu tả toàn bộ xã hội Pháp chỉ trong một quán trọ. Từ con người cho đến đồ vật, tất cả đều được miêu tả một cách cụ thể và sinh động bằng cặp mắt tỉ mỉ và bộ óc minh mẫn, tinh tường.

Mở đầu tác phẩm nhà văn miêu tả rất tỉ mỉ và chân thật về quán trọ Vauquer “Ngôi nhà trọ gồm có ba tầng, những phòng trên cùng có mái được xây bằng đá và quét một lớp ve vàng, thế là tự nó bỗng dưng tạo ra cho bản thân một sự hèn kém so với tất cả những ngôi nhà thời ấy ở Paris. Những tấm rèm che các khung kính của năm ô cửa sổ không cái nào giống cái nào nghĩa là mỗi cái một màu, chẳng hề ăn nhập vào nhau”. Qua cách miêu tả chi tiết như thế người đọc có thể hình dung được đó là một quán trọ nghèo nàn, tồi tệ, tù túng, rách nát và khủng khiếp nhất ở ngoại ô Paris. Ở đâu đó trong xã hội Paris phồn hoa vẫn có những nơi nghèo hèn và quái dị đến thế. Đồng thời, thông qua cách miêu tả đó, gợi cho nhiều người đọc nỗi buồn sâu xa, một niềm thương vô tận. Quán trọ ảm đạm như thế thì liệu con người nơi đó sẽ như thế nào? Con người cũng như quán trọ, cũng thê lương, tẻ nhạt và buồn chán vô cùng. Quán trọ tồi tàn điều dĩ nhiên là nơi dừng chân của những hạng người bình thường, nghèo nàn. Và nếu có là nơi dừng chân của những khách thượng lưu quý tộc thì họ cũng thuộc dạng “sa cơ lỡ vận”, không còn chốn để đi… Và dù có ở hạng người nào nhưng chắc chắn một điều rằng hầu như tất cả con người trong quán trọ “mỗi người đều có một sự dửng dưng trộn lẫn với việc không tin tưởng đối với những kẻ kia, do cảnh ngộ riêng tư của mỗi người. Nó cho thấy sự bất lực trong việc chia sẻ nỗi đau của họ”. Những con người ấy không chỉ nghèo về vật chất mà còn nghèo nàn về mặt tâm hồn, nghèo nàn tình cảm. Trong tiểu thuyết, Balzac ghi nhận một cách chân thật và tỉ mỉ bằng chính mắt nhà văn chụp được về những con người nơi quán trọ của bà Vauquer. Những con người lúc nào cũng “tỉnh bơ đi trên đường phố trước một người mù, nghe kể chuyện về một người bất hạnh không chút cảm xúc và nhìn thấy ở người chết là giải pháp cho vấn đề nghèo khổ, điều đó làm cho họ lạnh lùng trước cảnh hấp hối kinh hoàng nhất”.

Chỉ vài nét miêu tả, Balzac đã khái quát lên cụ thể tính cách của con người Paris lúc bấy giờ. Họ lạnh lùng, vô cảm, dửng dưng trước những nỗi đau khổ của con người xung quanh. Việc miêu tả những con người như thế là hoàn toàn có dụng ý. Trong một quán trọ nghèo nàn, một góc của Paris, nơi mà con người bình dân có thể gần gũi và giúp đỡ lẫn nhau, thế mà nó còn bạc bẽo đến thế thì ngoài xã hội thượng lưu phồn hoa, xô bồ, nhộn nhịp kia, con người còn tệ hại biết chừng nào. Miêu tả cái này nhằm làm nổi bật lên cái kia là thủ pháp miêu tả tài tình và điêu luyện. Nét tài tình và điêu luyện ấy còn được Balzac thể hiện qua việc miêu tả cụ thể từng chi tiết bên trong nhà trọ. Nhà văn miêu tả từ ngoài vào trong không bỏ sót chi tiết nào. Thậm chí làm cho người đọc như đang đứng trước nhà trọ đó “Chính diện của nhà trọ là vườn hoa nhỏ… Dọc theo mặt tiền này, giữa ngôi nhà và vườn hoa nói trên là một lối đá cuội rộng chừng 2m trũng xuống như lồng chảo, hai bên xếp hai dãy bình lớn màu xanh da trời hoặc trắng trồng toàn cây mỏ hạc, cây trúc đào hoặc cây lựu”. Không chỉ chứng kiến tận mắt toàn bộ nhà trọ mà người đọc còn ngồi vào bàn ăn của bà Vauquer và được leo lên các nấc thang mà các khách trọ thường hay lên xuống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn thể hiện các chi tiết rất thực và gần như là sự chính xác. Đó là những con số cụ thể và ngắn gọn mà Balzac đã dùng trong đám tang của lão Goriot: lễ cầu hồn kéo dài 20 phút, 5 giờ 30 đi ra nghĩa địa, 6 giờ hạ huyệt… Những chi tiết ấy thật ngắn gọn, cụ thể làm cho câu chuyện thêm độ chính xác và hiện thực. Người đọc như đang cùng các nhân vật đưa tang lão Goriot và cùng trải mình thương xót cho số phận con người bất hạnh. Chắc chắn rằng bạn đọc sẽ thắc mắc vì sao Balzac lại miêu tả các chi tiết cụ thể và ngắn gọn như thế? Thiết nghĩ, đó không chỉ đơn thuần nhà văn tuân theo phương pháp sáng tác hiện thực mà đó còn là một ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Balzac như một nhà họa sĩ vẽ lại toàn bộ xã hội Pháp bằng từng nét một và từng nét nhỏ nhất, để cho bức tranh hiện thực của mình thêm sinh động và nhiều góc cạnh. Nhà văn muốn tất cả những gì của xã hội sẽ phơi bày tất cả dù đó chỉ là chi tiết nhỏ, để tất cả mọi người có thể nhìn thấy toàn vẹn hiện thực nhà văn đang sống, đang chứng kiến và đang trải nghiệm. Balzac đứng bên ngoài và chứng kiến tất cả các vấn đề. Nhà văn ghi chép lại bằng sự khách quan lạnh lùng của một người thư kí thời đại. Nhưng đằng sau sự lạnh lùng đó là một trái tim ấm áp tình người, lúc nào cũng đau với nỗi đau của nhân loại.

Một trong những nét đặc sắc ở nghệ thuật miêu tả của Balzac là miêu tả các chi tiết nghệ thuật. Theo như dự định ban đầu, chúng tôi định tách chi tiết nghệ thuật thành  một phần độc lập nhưng sau khi xem xét kĩ chúng tôi nhận thấy khả năng tạo ra những chi tiết nghệ thuật chính là khả năng miêu tả của nhà văn. Hay nói cách khác đó là nghệ thuật miêu tả các chi tiết nghệ thuật.

Chi tiết nghệ thuật được xem như là một bộ phận có ý nghĩa và quan trọng trong tác phẩm nghệ thuật. Nhờ có chi tiết nghệ thuật mà thế giới nghệ thuật trong tác phẩm hiện ra hấp dẫn và sinh động. Chi tiết nghệ thuật có khả năng “thể hiện, giải thích, làm  minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm” [38]. Thật vậy, chi tiết nghệ thuật càng đặc sắc càng làm cho người đọc nhớ mãi và khắc sâu trong trí nhớ mỗi lần nhắc đến tên của tác phẩm. Trong tiểu thuyết hiện thực phê phán, chi tiết nghệ thuật đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vì nó là cơ sở tạo nên những hình tượng điển hình.

Trong tiểu thuyết “Lão Goriot”, Balzac sử dụng nhiều chi tiết nghệ thuật vô cùng đắt giá. Chi tiết “…đúng vào lúc chuyển quan tài lên xe thì có hai chiếc xe trang hoàng lộng lẫy nhưng trống rỗng của hai người con rể tới” làm cho người đọc phải đau xé lòng. Hai chiếc xe mang huy hiệu hai dòng họ báo hiệu sự có mặt của chúng. Lúc còn sống hai con rể quý tử này đã không đối xử tử tế với lão Goriot và đến khi lão lìa khỏi cuộc đời chúng cũng chẳng hề đếm xỉa. Đối với chúng như thế đã là ân huệ quá lịch sự với lão già nghèo nàn và bệnh tật. Tang của cha mà cấm con gái ruột đi đưa, lại xem như không có chuyện gì, chỉ có chiếc xe đưa tang lộng lẫy đủ thấy sự bạc bẽo tình người biết dường nào. Tóm lại, hai chiếc xe mang hai huy hiệu là một biểu thượng mang hai tầng ý nghĩa. Thứ nhất, nó chứng tỏ tình cảm của những cô con gái và những chàng rể cũng trống rỗng như hai chiếc xe đó. Và kể từ đây tình cha con sẽ không còn. Bởi vì hai chiếc xe đó đã cắt đứt hoàn toàn sợi dây tình nghĩa cha con. Thứ hai, hai chiếc xe ngầm báo hiệu mơ ước trở thành quý tộc của lão Goriot đã thành sự thật. Và để có được niềm vinh dự đó, danh hiệu quý tộc cao sang đó, lão Goriot phải đánh đổi tất cả, đánh đổi cả cuộc đời, đánh đổi hai con gái mà ông yêu thương nhất, đánh đổi bằng tất cả hạnh phúc gia đình mình.

Có thể nói trong toàn bộ tiểu thuyết, chi tiết đạt đến mức nghệ thuật nhất, đặc sắc nhất và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc nhất là chi tiết ở cuối tác phẩm. Chàng sinh viên ngành Luật De Rastignac “cúi nhìn lần nữa ngôi mộ, giọt nước mắt cuối cùng của chàng trai trẻ lăn dài, giọt nước mắt trào ra vì những rung cảm thiêng liêng của trái tim trong trắng, nó rơi xuống mặt đất rồi từ từ vút lên trời cao”. Thương xót cho số phận bạc bẽo, hẩm hiu của lão Goriot lúc nào Rastignac cũng bên cạnh động viên, an ủi và chăm sóc những lúc ông buồn, ông vui cũng như lúc ốm đau. Chàng xem ông như một người cha già đáng kính. Trước cái chết cô đơn của ông lão, Rastignac vô cùng đau xót, bên cạnh đó còn là sự căm phẫn cao độ. Chàng chán ghét con người, chán ghét cả xã hội Paris, chán ghét những con người giả tạo sống bằng bộ mặt giả dối sang trọng. Rastignac khóc cho số phận tủi hờn của những con người thấp hèn mà lão Goriot là một trong số đó. Chàng khóc cho lão Goriot nhưng đó không phải là cái khóc nức nở, gào thét, oán than mà là cái khóc ngậm ngùi khó tả “Giọt nước mắt cuối cùng… lăn dài,… rơi xuống đất… từ từ vút lên trời cao”. Hình ảnh giọt nước mắt của chàng sinh viên gợi cho người đọc bao điều suy nghĩ. Ở đây không phải là giọt nước mắt bình thường mà đó là “giọt nước mắt cuối cùng”. Càng đặc biệt hơn giọt nước mắt này “rơi xuống đất” rồi “vút lên trời cao”. Hình ảnh giọt nước mắt mang giá trị nhân văn sâu sắc. Thứ nhất, giọt nước đó xuất phát từ nơi sâu thẳm của những “rung cảm thiêng liêng”, nó xuất phát từ tâm hồn và trái tim trong trắng của người thanh niên trẻ tuổi cảm thông cho số phận bất hạnh của lão phó mì Goriot – một con người đáng thương và đáng trân trọng. Thứ hai, chúng ta cần lưu ý chi tiết lãng mạn “Giọt nước mắt cuối cùng”, giọt nước mắt sau cùng của chàng thanh niên Rastignac. Phàm cái gì cuối cùng thì sẽ không có cái tiếp theo. Điều này có nghĩa là bắt đầu từ đây, từ giờ phút này chàng sinh viên non nớt, giàu tình thương ngày nào sẽ không rơi giọt nước mắt nào nữa. Rastignac sẽ không còn tình thương, không vì ai mà khóc. Chính giọt nước mắt ấy ngầm báo hiệu sự thay đổi về con đường và tính cách về sau của Rastignac. Rastignac ngày nào đã chết, đã không còn một chàng thanh niên tỉnh lẻ đầy nhiệt huyết và tốt bụng mà chỉ có một Rastignac vô cảm không khóc vì người khác mà chỉ làm quen làm cho người khác phải khóc. Bởi lẽ, giọt nước mắt tình thương duy nhất và cuối cùng của chàng đã vút lên trời cao, trao trả lại cho Chúa. Theo quan niệm văn hóa phương Tây thì Đức Chúa trời là tối cao và quyền lực nhất có thể tạo ra vạn vật, tạo ra mọi tình cảm và cảm xúc của con người. Và tình thương là một trong những món quà của thượng đế ban tặng. Khi Rastignac nhận ra bản chất thật sự của xã hội và kinh tởm chúng thì trái tim của chàng không còn ngăn nào chứa tình thương. Một khi con người đã không còn thậm chí không cần tình thương thì trao trả cho thượng đế là điều tất nhiên. Rastignac đã làm điều đó. Chàng trả cho Đức Chúa trời tối cao tất cả tình thương mà Người ban tặng.

@ Tiểu kết

Thật đáng sợ nếu một con người không có tình thương. Càng đáng sợ hơn khi cả Paris toàn là những con người ghẻ lạnh, thiếu tình người, chỉ biết lợi ích bản thân. Balzac đã dùng ngòi bút của mình phơi bày tất cả hiện thực nhức nhói của Paris, hiện thực làm đau lòng người đến tột độ. Bằng những chi tiết nghệ thuật điển hình, mang tính chất biểu tượng cao, nhà văn kí gửi vào lòng người đọc bao điều trắc ẩn. Chi tiết nhỏ nhưng mang ý nghĩa khái quát cao. Đó là một trong những bí quyết, thủ thuật làm cho các tác phẩm của Balzac có một sức sống mãnh liệt không gì cản nổi. Cũng chính vì thế nhà văn được tôn là bậc thầy của giới tiểu thuyết và bậc thầy trong sự miêu tả. Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả các chi tiết nghệ thuật. Những chi tiết đặc sắc đi vào lòng người như có phép mầu nhiệm.

3.2.2  Nghệ thuật xây dựng cốt truyện

Xây dựng cốt truyện là một trong những nghệ thuật khá đặc sắc và đầy dụng ý của Balzac. Cốt truyện là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu về tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản và quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch [39].

Cũng như bao tiểu thuyết cùng thời, “Lão Goriot” cũng gồm nhiều nhân vật. Cốt truyện trong tiểu thuyết là loại đa tuyến. Gồm nhiều tuyến nhân vật. Tác phẩm tập trung tái hiện cuộc đời, quá trình hình thành tính cách của một vài nhân vật chính. Đó là lão Goriot, Rastignac. Tuy nhiên cốt truyện dù có sự đan chéo nhưng rất rõ ràng, mạch lạc và hợp logic. Cuộc đời lão Goriot từ lúc lập nghiệp đến giàu có rồi bệnh tật qua đời song song và đan chéo với quá trình hình thành phát triển tính cách của chàng sinh viên Rastignac khi bước vào thế giới thượng lưu. Và xen vào đó là tên tù vượt ngục Vautrin tại quán trọ. Trong đó chủ yếu cuộc đời của lão Goriot và Rastignac là nổi bật hết thảy.

Trong tiểu thuyết, cuộc đời lão Goriot có liên quan đến nhiều nhân vật. Thông qua cách xây dựng cốt truyện có sự đan xen nhiều nhân vật, Balzac từng bước khắc họa tính cách từng người một. Những tính cách đó bộc lộ cụ thể và sinh động. Khi lão Goriot đến quán trọ Vauquer thì bà chủ nhà trọ càng lộ rõ bản chất ti tiện và hám lợi. Bốn mươi tám tuổi nhưng lúc nào cũng bảo mình ba mươi chín, vẫn còn sức hấp dẫn của một người đàn bà góa. Mụ ăn mặc chải chuốt trưng diện, đôi lúc lố bịch trước lão Goriot nhằm lấy điểm. Vì mụ ta mang trong lòng ý muốn “tái sinh thành người nhà Goriot”, trở thành bà quý tộc giàu có. Hay đó là hai cô con gái lão Goriot, Anastasie và Delphine. Để cha một mình nơi nhà trọ tồi tàn không chăm sóc chỉ lo vui chơi sa đọa “Cha có những vòng bạc, sáu bộ đồ ăn, những thứ đầu tiên mà cha đã từng có trong đời. Cuối cùng cha chỉ còn có một nghìn hai trăm franc tiền lợi tức”. Qua các sự kiện đó, nhà văn để tính cách của Anastasie và Delphine tự bộc lộ. Đồng thời cũng để bạn đọc cảm nhận và tự đánh giá, nhận xét về hai cô. Chắc chắn mọi người sẽ cảm thấy Anastasie và Delphine thật đáng khinh bỉ.

Trong sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật nổi bật nhất là sự phát triển tính cách của Rastignac. Chứng kiến cuộc đời lão Goriot, chàng sinh viên trẻ tuổi dần dần thay đổi tính cách. Lúc đầu, Rastignac từng lên tiếng khuyên ngăn thậm chí là chỉ trích việc làm và hành động của Anastasie và Delphine. Nhưng sau này chính bản thân chàng sẽ còn gian trá tàn nhẫn hơn. Quyến rũ con gái và dan díu với mẹ chiếm gia tài và địa vị

nhà ngân hàng Nucingen… Đó là những việc làm tồi tệ của Rastignac sau khi hoàn toàn là con người khác. Tính cách và quá trình phát triển về tính cách con người Rastignac sẽ được bài nghiên cứu trình bày rõ ràng và cụ thể ở phần nhân vật Rastignac.

Bên cạnh đó, thông qua các sự kiện về cuộc đời lão Goriot, Balzac tái hiện những mối xung đột xã hội gay gắt. Đó là xung đột giữa tình thương và tiền bạc, giữa tình người và tham vọng. Balzac đưa tất cả xung đột không thể giải quyết vào tác phẩm thông qua cốt truyện. Có thể nói đây là xung đột gay gắt và quyết liệt. Trong xã hội Paris bấy giờ để giải quyết xung đột ấy hoàn toàn không phải chuyện dễ. Nó có tính chất một mất một còn. Nếu chọn tình thương sẽ có kết cục như lão Goriot. Ngược lại nếu chọn tiền tài, tham vọng thì tình thương sẽ không còn. Kết quả này được minh chứng qua cuộc đời và số phận của lão Goriot và Rastignac. Xã hội Paris đã bị đồng tiền chi phối. Đồng tiền là thước đo cho các chuẩn mực xã hội. Con người sống với nhau bằng những gương mặt “bôi vôi”, giả tạo. Cũng trong xã hội đó, con người phải biết cách sống, sống phải biết ác, phải biết nhẫn tâm thì mới tồn tại lâu dài.

@Tiểu kết

Tóm lại, cốt truyện được nhà văn xây dựng khá thành công và hấp dẫn. Cốt truyện có nhiều tình tiết sự kiện. Chúng đan chéo nhưng không phức tạp, khó hiểu. Cốt truyện là môi trường tương tác tốt nhất để tính cách nhân vật tự bộc lộ. Tóm lại, từ nghệ thuật miêu tả đến xây dựng cốt truyện, mặt nào Balzac cũng tỏ ra già dặn kinh nghiệm.

3.3 Kết cấu của tiểu thuyết

Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ thì cũng là một chỉnh thể nghệ thuật. Trong chỉnh thể đó có nhiều bộ phận, nhiều yếu tố. Các bộ phận, yếu tố được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Đó là kết cấu. Kết cấu tiếng Pháp là Composition. Cần phân biệt kết cấu và bố cục. Nếu như bố cục chỉ đơn giản là các sự kiện, hành động, biến cố,… trong tác phẩm thì kết cấu là một khái niệm rộng lớn hơn. Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nó là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm.

Ở “Lão Goriot” Balzac lựa chọn cho tác phẩm mình một kết cấu thật hoàn chỉnh và đầy dụng ý. Kết cấu bên ngoài của tiểu thuyết chia làm 4 phần:

Phần I: Nhà trọ bình dân

Phần II: Vào đời

Phần III: Kẻ đào tẩu

Phần IV: Cái chết của người cha

Cách phân chia giữa các phần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bốn phần tương ứng với trình tự phát triển của tác phẩm. Tất cả các nhân vật đều xuất phát từ “Nhà trọ bình dân”. Nơi đây xảy ra nhiều sự việc, nhiều vấn đề. Nó là nơi nung nấu ý chí và tham vọng của chàng sinh viên để bước “Vào đời”. Biết bao lần chàng thất vọng tưởng chừng như gục ngã. Cũng từ “Quán trọ bình dân” đó phát hiện ra một “Kẻ đào tẩu”, tên tù khổ sai vượt ngục và ẩn trốn với bộ dạng và cái tên hoàn toàn khác. Không chỉ thế chính quán trọ này là nơi diễn ra cảnh thương tâm nhất trên đời, một thảm kịch khiến bao người phải rơi lệ “Cái chết của người cha”, một cái chết tủi hờn, cô đơn của lão phó mì Goriot. Có thể hình dung cụ thể bằng sơ đồ sau:

                                         Nhà trọ bình dân

                                                 (Phần I)

Vào đời

(Phần II)

Rastignac

Kẻ đào tẩu

(Phần III)

Vautrin

Cái chết của người cha

(Phần IV)

Lão Goriot

                                 

 

 

Cách kết cấu của Balzac dựa vào các lớp thời gian theo quá trình của các nhân vật chính. Từ quán trọ bình dân các nhân vật chính lần lượt xuất hiện. Chàng thanh niên tỉnh lẻ có tham vọng gia nhập vào giới thượng lưu và có những mối quan hệ phần nào trong xã hội đó, thế là có phần “Vào đời” – Rastignac. Và tương tự như thế có phần “Kẻ đào tẩu” – Vautrin và “Cái chết của người cha” – Goriot. Không phải tác phẩm chỉ có ba nhân vật mà cốt truyện xoay quanh chủ yếu ba nhân vật này. Dù kết cấu trên bề mặt vẫn là kết cấu bên ngoài nhưng cũng thể hiện mối liên kết thống nhất và toàn vẹn giữa văn bản với tư tưởng của nhà văn.

Tác phẩm được kết cấu theo nhiều tuyến nhân vật tịnh tiến và đan chéo nhau nhưng tập trung chủ yếu vào tuyến chính là lão Goriot, nhằm tái hiện nguyên vẹn cuộc sống và quá trình hình thành, phát triển tính cách của Rastignac. Kết cấu tịnh tiến là mỗi nhân vật, mỗi tuyến cứ đi tới. Trong tiểu thuyết, kết cấu tịnh tiến thể hiện ở các nhân vật như Rastignac, Goriot, Vautrin, bà Vauquer, Victorine, Anastasie, Delphine,… tất cả đều được nhà văn miêu tả bình thường và tiếp tục đi tới song song và kết chặt cùng cuộc đời của lão Goriot. Mỗi nhân vật đều có hành động, lời nói, tính cách và kết cục khác nhau. Cụ thể là chàng thanh niên Rastignac nhận cú va chạm mạnh từ giới thượng lưu, tên tù khổ sai Vautrin bị vạch mặt và bị bắt, lão Goriot nhận cái chết thương tâm, Victorine đáng thương cuối cùng được người cha nhìn nhận. Kết cấu đan chéo trong tác phẩm thể hiện ở chỗ Rastignac và lão Goriot đều ở cùng một quán trọ. Rastignac quen và yêu lần lượt hai con gái lão Goriot. Không chỉ thế chính cuộc đời và số phận lão Goriot tác động mạnh mẽ đến Rastignac, đến nỗi chàng thay đổi cả tính cách. Balzac xây dựng hai nhân vật này có sự đan chéo, gắn chặt với nhau. Đan chéo nhưng không rắc rối, vẫn đảm bảo sự mạch lạc của kết cấu.

Cách sắp xếp nhân vật trong tác phẩm phần nào cũng nói lên dụng ý của nhà văn. Đó là bộ ba, lão Goriot – Rastignac – Vautrin. Bộ ba này không thể tách rời nhau. Nếu thiếu một trong ba thì tác phẩm sẽ giảm đi giá trị nghệ thuật. Nếu như Vautrin là kẻ xúi giục, đầu độc, lôi kéo Rastignac tiến sâu hơn vào con đường tội lỗi thì lão Goriot là thiên thần cứu lấy cuộc đời Rastignac. Chính lão Goriot khiến chàng phải xót thương và nhỏ giọt nước mắt dù đó là giọt nước mắt cuối cùng. Điều này chứng tỏ ở đâu đó trong con người chàng vẫn có tình thương. Để rồi, sau cái chết của lão Goriot, chàng sinh viên trẻ

cảm thấy mất lòng tin vào con người, sợ hãi con người. Giữa các nhân vật luôn có sự tác động qua lại dù đó là nhân vật đối kháng.

Bên cạnh đó, người đọc còn thấy ở tác phẩm cách dẫn truyện hấp dẫn, bất ngờ và hợp lí. Tác giả để cho mọi người trong quán trọ tò mò dẫn đến hiểu lầm lão Goriot hết lần này đến lần khác. Tất cả mọi người trong quán trọ kể cả Rastignac – người bạn gần gũi và thông cảm nhất của lão cũng phải có đôi lúc nghi ngờ, khó hiểu. Bởi lão Goriot lúc nào cũng ít nói cứ lầm lì, thậm chí có những hành động vô cùng quái gở. Giữa đêm khuya lão đứng trước cái bàn như người thợ làm mì dùng hết sức đục khoét cạy một vật gì đó, có hành động thân mật với hai cô gái trẻ xinh đẹp, quý phái và kèm theo đó là món tiền kha khá… Chứng kiến lần lượt hai cô gái trẻ đẹp thay phiên nhau đến phòng lão Goriot mọi người rất bất ngờ và không có lời giải thích nào thích hợp hơn là lão đang làm trò giống các thương gia giàu có bỏ tiền ra để mua vui giải trí. Thế là lúc nào nhà trọ cũng lấy lão ra làm chủ đề bàn tán dù lão Goriot đã phân trần bảo đó là con gái. Nhưng ông lão không thể giải thích rõ các món tiền mà ông đã nhờ Christophe gửi cho hai cô gái. Với cách dẫn truyện hấp dẫn như thế nhà văn luôn làm cho bạn đọc tò mò, lý thú tìm hiểu tác phẩm. Nó không gây cảm giác buồn chán và nặng nề khi đọc tác phẩm. Vì đây là một tác phẩm văn xuôi không thuộc dòng lãng mạn trữ tình tuôn chảy như thơ. Nhưng Balzac không hề kể chuyện khô khan mà dẫn dắt bạn đọc từng bước từng bước khám phá và phát hiện vấn đề.

@Tiểu kết

 Tóm lại Balzac đã mở lối đi riêng cho tác phẩm mình bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Kết cấu là một trong những nghệ thuật đó. Nhà văn tạo cho tiểu thuyết của mình một kết cấu chặt chẽ và hợp logic. Từ kết cấu bên ngoài đến kết cấu bên trong,Balzac đều thông thạo. Thông qua việc xây dựng kết cấu, Balzac làm bật rõ chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Và không chỉ riêng ở tiểu thuyết “Lão Goriot” mà toàn bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”, mỗi tác phẩm là một kết cấu độc đáo mang đầy sáng tạo của Balzac.

3.4 Quán trọ Vauquer –  sân khấu nhỏ của “Tấn trò đời”

Trong tác phẩm, nhà văn miêu tả các không gian như: không gian quán trọ Vauquer, không gian phòng khách của bà tử tước Beauséant, phòng khách của bà bá tước Restaud và phòng khách bà chủ ngân hàng Nucingen. Trong các không gian này, không gian phòng khách của giới thượng lưu chỉ là điểm phụ. Điểm chính là không gian quán trọ Vauquer. Bởi số phận và cuộc đời của các nhân vật trong tác phẩm đều diễn ra trong quán trọ bình dân này. Quán trọ được Balzac giới thiệu cụ thể và tỉ mỉ ngay phần đầu tiểu thuyết “Nhà trọ bình dân” (Phần I). Đó là “khu nhà trọ bình dân ở phố Neuve – Sainte – Geneviève nằm lọt thỏm giữa khu la tinh và khu ngoại ô Sainte – Marceau”. Gọi là quán trọ bình dân vì nơi đây “đón nhận tất cả mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi của xã hội tới đây ngủ nghỉ mà không cần phải để ý đến bất cứ lời xầm xì bàn tán nào cả”. Chính vì thế nhà trọ có tên đầy đủ là “Quán Vauquer và nhà trọ bình dân cho nam giới, nữ giới và mọi người”. Cách giới thiệu và quảng cáo nhà trọ gây cho người đọc cảm giác buồn cười. Đồng thời, cũng thể hiện đôi chút về giọng châm biếm, mỉa mai của tác giả. Một cái tên bảng hiệu dài lượm thượm. Có cần thiết phải chú thích nhà trọ dành cho nam giới, nữ giới rồi mọi người. Qua cách đặt tên bảng hiệu có thể hình dung ra chủ của quán trọ đó cũng lố bịch không kém. Đó là bà lão Vauquer, người quản lí toàn bộ khu nhà trọ suốt bốn mươi năm nay. Chính ngôi nhà trọ bình dân này xảy ra một “tấn thảm kịch” làm cho “người ta xúc động tới tận con tim”. Đến nỗi khi “gập trang sách lại, bạn đọc thấy lòng mình xót xa, còn trên khóe mắt thì lệ rơi lã chã”. Vậy đây là nhà trọ như thế nào? Có điều bí mật gì che giấu nơi đây? Hay nhà trọ này mang một lời nguyền truyền kiếp? Xin thưa, tất cả đều không. Quán trọ Vauquer rất bình thường và bình thường như bao quán trọ khác. Nó chỉ có cái khác người nhất là sự tồi tàn, mục nát đáng sợ. Quán trọ thuộc vùng ngoại ô của Paris nằm trong thung lũng giữa các ngọn đồi Montmartre và dãy núi Montrouge. Một thung lũng khi “ngửa mặt nhìn lên chỉ thấy những mảng thạch cao lở toác ra như sắp rơi xuống những suối đặc quánh bùn đen”. Một nơi tạo cho người ta cảm giác ghê sợ và đau khổ. Cái thung lũng luôn dự báo “khổ đau thì đầy ắp và là thực tế, còn những niềm vui thì hiếm hoi đến nỗi trở thành hão huyền”. Chỉ vài lời giới thiệu, Balzac đã vẽ lên bức tranh thủy mặc về khu phố nhà trọ. Một bức tranh thủy mặc vô cùng đặc biệt, chỉ nổi bật hai màu đen và trắng, đó là màu của những đám mây như những “mảng thạch cao” và màu của dòng suối bùn đen đặc quánh. Sự liên tưởng thú vị và đầy chất thơ. Nhưng chất thơ ở đây không thể làm cho cảnh vật sinh động, gợi tình mà nó càng tôn lên vẻ buồn thương sầu muộn, gợi lên bao điều đau khổ .

Khu nhà trọ nằm dưới đoạn phố Neuve – Sainte – Geneiève nên rất “hiếm khi ngựa nghẽo đi qua” vì nơi đây sườn dốc gập ghềnh nguy hiểm. Chính vì vậy đường phố tuy rất nhiều và đan chéo nhau nhưng lại rất yên tĩnh. Khung cảnh nơi này từ đường xá đến nhà cửa, mỗi thứ đều nhuốm màu lạnh lùng tối tăm, nghèo nàn và cũ kĩ. Sự yên tĩnh, buồn tẻ của khu phố còn được bổ sung bởi “hai công trình kiến trúc là nhà thờ Van de Grâce và điện Pastheon. Hai tòa nhà này tung vào bầu không khí nơi đây màu vàng khè và làm tất cả tối tăm hơn bởi màu sắc khô khan tỏa ra từ các mái vòm. Người ta toàn nhìn thấy những viên gạch lát khô cứng, những đường cống rãnh không có cả bùn lẫn nước, còn các bức tường thì cỏ leo bám đầy”. Nếu nội ô Paris phồn hoa, náo nhiệt bao nhiêu thì khu phố nơi nhà trọ này nghèo nàn, buồn tẻ bấy nhiêu. Nhà cửa nơi đây thì vẫn là một chữ nghèo “Những bức tường im ỉm và cũ mốc như tường của nhà tù”. Không gian khu phố hiện lên một nỗi sầu truyền kiếp. Một vẻ mặt buồn rười rượi như đang than khóc, cầu cạnh làm cho khách qua đường dù là người “vô tâm nhất” cũng phải “cảm thấy buồn phiền”. Ôi! thật không còn nơi nào của Paris khủng khiếp và nhàm chán hơn, đến nỗi “tiếng kẽo kẹt của chiếc xe ngựa cũ nát qua đây thôi cũng đủ là một sự kiện”. Có thể nói đây là nơi của sự nghèo khổ – buồn chán, già cỗi – chết chóc, chôn giấu tuổi thanh xuân, tẻ nhạt và khủng khiếp.

Trong dãy phố nghèo nàn, nhà trọ bình dân sừng sững hiện lên cũng không kém phần tẻ nhạt. Nó hòa mình vào khu phố và nổi bật nhất khu phố, nổi bật với sự nghèo nàn, tàn tạ. Có thể nói đây là quán trọ tồi tệ vào hạng nhất ở Paris. Đó là một nơi xó xỉnh giữa đại dương Paris mênh mông không ai biết và càng không ai muốn biết. Và càng đáng sợ hơn khi đó là nơi tàng ẩn của những kẻ bị cơn bão đời xô giạt, sa cơ lỡ bước hay những kẻ ẩn nấp chờ cơ hội xông ra cuộc sống. Vì vậy, thành phần khách trọ nơi này rất phức tạp, đủ mọi loại người, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp… tất cả đều hội tụ. Nào là sinh viên, thương gia, quý tộc, công chức, cả mật thám, thậm chí còn có tù khổ sai vượt ngục … Quán trọ Vauquer tập hợp những con người rất kì quái và vô cùng bí ẩn. Mỗi người mang trong lòng một quá khứ bí mật không thể cho người khác biết. Đó có thể là một quá khứ vàng son của một thời ngang dọc. Cũng có thể là quá khứ của những chuỗi ngày ngây thơ an lành đáng nhớ… Hay là quá khứ của biết bao tội lỗi đầy máu và nước mắt.

Đây là quán trọ bình dân nên khách trọ hầu hết cũng không thuộc loại sang trọng. Nơi đây đàn ông “mặc áo Rơđanhgôt mà màu của nó đã cũ đến nỗi khó nhận ra được, đi những đôi giày giống như những đôi bị vứt ở cột mốc trong những khu phố lịch sự, quần áo lót sờn rách không còn gì nữa”. Phụ nữ thì “mặc những chiếc váy phai màu được nhuộm lại rồi lại phai màu với viền đăngten cũ kĩ và lỗi mốt, đi những đôi găng tay trơ láng vì dùng nhiều, khoác chiếc cổ áo xếp luôn luôn có màu hung và khăn choàng vai rút sợi”. Thế nhưng thượng đế rất công bằng. Ngài đã lấy đi sự giàu sang của họ nên ban tặng cho họ sức chống chịu dẻo dai và mạnh mẽ trước hoàn cảnh. Bởi hơn ai hết họ cần có thể trạng tốt, sức chịu đựng tuyệt vời để chống chọi với những bão táp của cuộc đời. Có lẽ vì va chạm nhiều với cuộc sống nên gương mặt họ lúc nào cũng khô khan và lạnh giá. Ở họ là sự thiếu vắng tình cảm đến đáng sợ. Họ chỉ biết bản thân và lạnh lùng với tất cả mọi người. Thậm chí họ sẵn sàng lấy một con người bất hạnh ra để làm cuộc vui. Họ bất cần cảm xúc của người bị trêu chọc. Họ chế giễu, cười cợt, châm biếm, mỉa mai lão Goriot khi hiểu lầm ông là người có mối quan hệ mờ ám với hai cô gái. Họ vui cười sảng khoái mặc cho lão Goriot tội nghiệp thanh minh.

Tóm lại nhà trọ và con người nơi nhà trọ là một, cùng nghèo hèn và tàn tạ như nhau. Nhưng chúng ta cũng cần thông cảm cho những con người nơi đây. Phải chăng chính sự tàn tạ của cuộc sống, sự nghèo nàn của khu nhà trọ đã biến họ thành những con người nghèo tình cảm đến vậy. Thiết nghĩ họ là những con người bất hạnh chịu nhiều cú va chạm từ cuộc sống, vì thế chúng ta cần dành cho họ một sự cảm thông. Bởi không tình cảm là nguyên nhân dẫn đến những tội lỗi không thể cứu vãn.

Từ nhà trọ nhìn xuống cửa sổ ban ngày sẽ thấy “một cái vòm cung bằng đá xanh do một nghệ sĩ của khu phố trang trí. Bên trong là một bức tượng thần tình yêu bán thân”. Trước cảnh hiền hòa yên tĩnh pha lẫn sự lãng mạn, Voltaire trở về Paris năm 1777, cảm hứng thốt lên:

                             “Dù bạn là ai, đây, muôn thuở người tình

                              Nếu không trước, cũng sau và mãi mãi”

Đây là hai câu thơ Voltaire đề tặng khu phố ngày nào. Có lẽ trước kia khu phố này tuy không giàu có náo nhiệt như nội ô Paris nhưng chắc chắn một điều rằng khu phố khi đó không tồi tàn, mục nát khủng khiếp như bây giờ. Khi đó, nơi đây vẫn còn nữ thần tình yêu che chở nhưng hiện tại cuộc sống quá xô bồ và ồ ạt, con người chỉ biết có tiền không hề để ý tới tượng thần tình yêu, cứ để bức tượng phai mờ theo năm tháng. Có thể nói đây là chi tiết lãng mạn giàu chất thơ. Balzac tạo ra những nét mới lạ độc đáo trong tác phẩm của mình.

Trên đây là không gian bên ngoài, xung quanh nhà trọ bình dân. Đi sâu vào nhà trọ là một cấu trúc được thiết kế bằng con đường kinh doanh của bà Vauquer. Nhà trọ chia làm hai loại khách, khách ăn nội trú và khách ăn ngoại trú. Nhà trọ có ba tầng và chia làm tám phòng riêng biệt. Trong dó có sáu phòng dành cho khách nội trú và hai phòng còn lại bà Vauquer dành cho các loại khách ngoại trú. Cụ thể như sau:

Tầng

Số phòng

Khách trọ

Đặc điểmkhách trọ

Loạiphòng

Tiền phòng

Trệt

2

Phòng khách

Dành cho cả khách ăn nội trú và ngoại trú

 

 

Phòng ăn

 

 

I

2

Bà Coutere

Nàng Victorine

Bà góa của ủy viên tư lệnh

Con gái tỷ phú bị ruồng bỏ

Tốt nhất

1200 phơ-răng

Vauquer (chủ trọ)

Ti tiện, hám tiền

Tốt

II

2

Poiret

Kẻ mật thám ẩn danh

Trung bình

72 Phơ-răng

Vautrin

Tù khổ sai vượt ngục

III

4

Michonneau

Cô gái già

Tệ nhất

45 phơ-răng

Lão Goriot

Lão phó mì (buôn mì sợi) đã nghỉ kinh doanh

Dành cho khách ngoại trú hoặc tạm trú ngắn hạn

Sinh viên nghèo: Rastignac, Khách ăn ngoại trú: Bianchon

Thượng

2

Christophe

Cậu bé làm công

Kho chứa đồ

Sylvie

Đầu bếp quán trọ

Vì mục đích kinh doanh nên căn phòng đầu tiên của tầng trệt “trông khá sáng sủa với hai cửa kính thông ra hành lang làm lối đi vào”… Đây là phòng khách. Tuy nhiên, phòng khách lại trang bị rất kém “Thật là một cảm giác buồn tẻ khi nhìn vào căn phòng được trang bị bởi những chiếc ghế bành và ghế tựa bọc vải nhồi sợi chỗ xỉn chỗ sáng”. Đồ đạt nơi đây cũ kĩ và bình thường như ở các gia đình khu phố “Một chiếc bàn tròn mặt làm bằng thứ đá hoa cương Sainte Anne, trên bàn đặt một khay chén bằng sứ trắng có chỉ vàng đã bị mờ đi một nửa, thứ khay chén ngày nay có thể bắt gặp ở bất cứ nơi nào”. Thậm chí căn phòng ăn này còn tệ thêm bởi những thứ trang trí giả tạo và rẻ tiền “Lò sưởi bằng đá, mặt bếp sạch sẽ đã chứng thực nó chỉ được đốt lửa vào những dịp trọng đại, người ta trang trí bếp lò bằng hai bình cắm đầy hoa giả cũ mèm đi kèm với một chiếc đồng hồ quả lắc bằng đá hoa cương màu xanh nhạt còn kém thẩm mĩ hơn”. Không chỉ cách bố trí phòng kém thẩm mĩ mà phòng đầu tiên này “tỏa ra một thứ mùi không có tên gọi trong ngôn ngữ và có lẽ nên gọi là mùi nhà trọ”. Một thứ mùi “có vẻ như mùi của chỗ không thoáng khí, mùi mốc, mùi oi khét; nó tạo ra sự lạnh lẽo, ẩm ướt xông lên mũi, nó xâm nhập vào quần áo; nó có mùi vị như tất cả các mùi vị hợp lại: mùi nhà tế bần”. Phòng tiếp khách dù không sang trọng cũng sạch sẽ, vệ sinh nhưng ở quán trọ này lại hiện lên tồi tàn và bẩn thỉu.

Có lẽ, do phòng khách ăn thông với phòng ăn mà phòng ăn lại cách nhà bếp chỉ một buồng cầu thang bằng gỗ nên tất cả mùi hôi đều hội tụ nơi đây. Thế nhưng, dù phòng đầu tiên này có đáng sợ và ghê tởm đến đâu thì so với phòng ăn bên cạnh nó còn “quá lịch sự và thơm tho biết bao”. Phòng ăn và phòng khách được bố trí gần nhau và gần với nhà bếp để tiện cho bà Vauquer quản lí và tiết kiệm. Cách bố trí này thật không hợp lí. Phòng ăn phải là nơi sạch sẽ và thoáng mát để khách trọ có thể ăn ngon miệng nhưng nó lại cách nhà bếp một cầu thang. Vốn dĩ nhà bếp là nơi dùng để nấu nướng nên ít nhiều sẽ tạo ra các vết bẩn và những mùi của thức ăn. Trong khi đó, phòng khách là nơi để tiếp khách ở trọ, nơi của những tiệc tùng đình đám, hay là nơi tổ chức những buổi lễ kỉ niệm. Tóm lại đó phải là nơi sạch sẽ và thoáng mát để khách trọ thư giãn và trò chuyện. Thế nhưng phòng khách của bà Vauquer lại không đạt cái tiêu chuẩn đó. Phòng khách – phòng ăn – nhà bếp, cách bố trí này bất hợp lí về cấu trúc lẫn thẩm mĩ và vệ sinh. Không gian hiện lên chật hẹp và tù túng. Không chỉ thế phòng ăn nơi đây còn hiện lên với bộ mặt khủng khiếp và đáng sợ. Đó là phòng được ghép bằng gỗ, phai màu đến nỗi không thể nhận dạng “Phòng ăn đó hoàn toàn được ghép bằng gỗ, không rõ trước kia được sơn bằng gì mà giờ đây không còn nhận biết được nữa, nó trở thành cái nền mà trên đó cáu ghét đã vẽ nên những khuôn mặt kì dị”. Qua chi tiết này, người đọc có thể nhận biết ngay mà không cần phải suy nghĩ. Đó là căn phòng lâu năm quá cũ kĩ và chưa hề được chủ quan tâm tu sửa. Vậy nguyên nhân nào khiến nó tồi tệ đến thế. Phải chăng do chi phí tu bổ không có vì việc kinh doanh không mang lại lợi nhuận cao? Hay do chính bản thân người chủ keo kiệt trong các chi tiêu tu bổ? Dường như cả hai nguyên nhân này đều có thể xảy ra. Chúng đều góp phần cho sự nhếch nhác của quán trọ. Khách trọ nơi đây như đã giới thiệu, hầu như họ không phải thuộc dạng giàu có. Và bà Vauquer vốn tiết kiệm và hám tiền. Chính vì thế, với những khách trọ không sang trọng thì nhà trọ như thế này đã là quá đủ. Thậm chí nhiều lúc bà Vauquer còn tỏ ra mình là người có công trong việc cứu vớt “tế bần” những con người bất hạnh, giúp họ có mái nhà mỗi khi mưa gió và có cái ăn mỗi khi đói lòng với giá bình dân mà bà cho là rẻ mạt, một giá cả khó kiếm nhất nơi đây. Người đời có câu “tiền nào của nấy”. Quán Vauquer là một trong số đó.

Bấy nhiêu chưa đủ để hình dung sự nghèo nàn của quán trọ. Đồ đạc nơi phòng ăn này toàn những thứ tồi tệ và quá hạn “Những tủ đựng chén bát đồ đạc dính dớp, phía trên là những hình nhỏ bụng tròn hoặc những hình chữ V đã bị hỏng”. Những thứ ấy không hư bảy phần mười cũng thuộc dạng bỏ đi. Chẳng những đồ đạc nơi đây xuống cấp mà còn mất vệ sinh “Một góc phòng có đặt một chiếc hộp nhiều ngăn đánh số dùng để đựng những chiếc khăn có vết bẩn hoặc là có vết rượu màu của khách trọ”. Cách trang trí phòng của quán trọ càng tăng thêm sự khủng khiếp. Thông thường đồ trang trí sẽ làm lộng lẫy thêm cho căn phòng nhưng phòng ăn này lại hoàn toàn ngược lại. Bởi đó là những thứ trang trí rẻ tiền, thiếu tính thẩm mĩ, dơ bẩn, bề bộn và lung tung “Những bức tranh kinh tởm làm mất cảm giác ăn ngon miệng được lồng trong khung gỗ đánh vec-ni có mạ vàng; một chiếc khung treo đồng hồ bằng đồi mồi có khảm đồng, một chiếc chảo màu xanh, những chiếc đèn dầu Argrard đầy bụi bặm lẫn vào dầu, một chiếc bàn dài phủ khăn trải bàn bằng vải hồ khá bẩn đủ để một người ngoại trú viết tên của mình lên đó bằng ngón tay, những chiếc ghế tựa khập khễnh, những tấm chùi chân thảm hại bằng hàng đan dịch chuyển lung tung nhưng không bao giờ mất đi đâu và sau nữa là cái lò sưởi vỡ lỗ, bản lề chệch, củi trong đó đã cháy thành than”. Cách giới thiệu của nhà văn có phần hài hước và hóm hỉnh. Phòng ăn bẩn đến nỗi bụi bám dày có thể viết chữ lên được mà không một ai quét dọn. Thật không còn nơi nào đáng ghê sợ và kinh tởm như nơi đây. Chắc hẳn bạn đọc sẽ bất ngờ và ngạc nhiên trước sự miêu tả phòng ăn của Balzac. Liệu có một nhà trọ nào như trong miêu tả của ông không? Hay đó chỉ là sự tưởng tượng phong phú của tác giả. Bởi Balzac là người có bộ óc tài năng và bút lực phi thường. Đồng ý rằng nhà văn phần nào có dùng thủ pháp phóng đại nhưng đó là chi tiết rất nhỏ. Thật sự trong ngoại ô Paris có một “quán trọ bình dân” như thế. Một quán trọ thực sự nghèo nàn như trong miêu tả của nhà văn.

Tóm lại, quán trọ Vauquer hiện lên với tất cả sự “cũ kĩ, nứt nẻ, mục nát, yếu ớt, mòn vẹt, què cụt, tồi tàn, hoang phế, hấp hối”. Và thật khó để lí giải được vì sao nó lại như thế. Bởi nếu đi lí giải sự nghèo nàn đó thì cần đến “một bài văn miêu tả”. Thế nhưng, đây không phải là điều quan trọng mà cái cốt lõi là tấm thảm kịch nơi đây xảy ra như thế nào. Chỉ biết một điều rằng sự nghèo nàn đó “không thể xóa bỏ được, chúng không tồn tại ở khắp nơi nhưng lại hiện diện ở đây như nó phải thế, như những tàn tích đặc trưng cho nền văn minh của những người bị bệnh nan y” và “tóm lại là cái nghèo ngự trị không khoan nhượng lên tất cả đời sống trong sự dè sẻn, cô đọng và trơ sờn. Nếu như nó chưa lấm bùn đen thì nó cũng đang có những vết bẩn và nếu như nó không thủng lỗ cũng không rách rưới, thì rồi nó cũng sẽ rơi vào tình trạng mục nát mà thôi”.

@Tiểu kết

Bằng bộ óc quan sát tinh tế và nhạy bén, Balzac đã chụp lại được một khoảnh khắc “tuyệt vời”, một lát cắt của hiện thực cuộc sống. Đó là cảnh nghèo hèn và đen tối, đen tối như chính bản thân của nó. Chính nơi đây diễn ra những “Tấn trò đời” dở khóc dở cười đau đớn. Qua đó, Balzac phác họa lên hiện thực xã hội Pháp thế kỉ XIX với bao ung nhọt và hôi thối. Ngay phần mở đầu tiểu thuyết nhà văn đã lên tiếng cảnh báo cho toàn xã hội. Chính xã hội đó đã gieo xuống những mầm bệnh cho những con người bé nhỏ đáng thương và đáng được trân trọng. Đó là lão Goriot bất hạnh, chàng thanh niên Rastignac nhiệt tình và nàng Victorine Taillefer đáng thương. Những con người này đáng lẽ phải có cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc. Nhưng không, xã hội đó sẽ không trừ một ai nếu đi ngược lại quy tắc của nó. Hơn nữa, họ sẽ không có kết quả tốt đẹp nếu xã hội vẫn còn những thế lực của bóng đêm, đại diện là Vautrin, gã tư sản Taillefer và các con rể lão Goriot.

3.5 Xây dựng hai nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình

Văn chương là lĩnh vực nghệ thuật làm đẹp trái tim và tâm hồn mỗi con người. Nơi đó con người tự do thể hiện những cảm xúc và tình cảm bản thân. Và đây cũng chính là nơi để nhà văn kí thác những tâm tư hoài niệm, những điều vang vọng của con tim. Phương tiện để nhà văn chuyển tải thành công những suy tư trăn trở đó là hình tượng. Hình tượng trong tác phẩm có thể là sự vật, động vật, con người. Những hình tượng đó là những đứa con đẻ của nhà văn. Trong tiểu thuyết của mình, Balzac luôn xây dựng hình tượng nghệ thuật là những con người, cá nhân cụ thể. Ở “Lão Goriot”, Balzac đã xây dựng khá thành công hai nhân vật điển hình là lão Goriot và Rastignac. Hai nhân vật này đã trở thành những điển hình bất hủ trong những sáng tác văn chương của Balzac.

Nói về điển hình, nhà phê bình Nga Bêilinxki nói “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu nổi bật của tính mới mẻ trong sáng tạo”. Có thể nói rằng “Tính điển hình là huy chương của  nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”. Điều này có nghĩa là nhân vật điển hình đại diện cho một nhóm người nào đó. Như lão Goriot là nhân vật điển hình, đại diện cho những nhà tư sản có quan niệm hạnh phúc lầm lạc – ước mơ trở thành nhà quý tộc. Và Rastignac điển hình cho những thanh niên đầy những tham vọng. Còn vấn đề hoàn cảnh điển hình thì Balzac cũng đã giải thích rõ ràng thông qua tác phẩm. Đó là hoàn cảnh để nhân vật tự bộc lộ tính cách và việc làm của bản thân. Hoàn cảnh điển hình trong chủ nghĩa hiện thực là hoàn cảnh chứa đầy mâu thuẫn và thách thức. Nếu con người không có sức chống chọi sẽ bị hoàn cảnh đó bóp chết hạnh phúc, làm biến dạng con người. Để hiểu rõ nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình như thế nào, nó biểu hiện ra sao chúng ta sẽ lần lượt khám phá và tìm hiểu hai nhân vật Lão Goriot và Rastignac.

3.5.1 Lão Goriot – người cha thương con vô bờ bến nhưng quan niệm sai lầm về hạnh phúc

Để khẳng định mình, bất cứ nền văn học hay một trường phái nghệ thuật nào đều xây dựng cho mình một hình tượng nghệ thuật điển hình. Thông qua mẫu người đại diện đó người nghệ sĩ thể hiện tư duy nghệ thuật, quan niệm sáng tác, tài năng nghệ thuật và thái độ trước cuộc sống. Hình tượng điển hình nghệ thuật đó là dấu ấn phong cách cá nhân và thể hiện sở trường của nhà văn. Balzac tạo ra một lão Goriot như một nhân vật rất “sống” và rất “người”. Trong quán trọ Vauquer, lão Goriot là nhân vật nổi bật nhất. Một lão phó mì khôn ngoan và nhạy bén. Nhờ sự xoay trở, may mắn và nhạy bén trong kinh doanh, lão già làm mì sợi trở thành một tư sản giàu có “Jean-Joachim Goriot trước cách mạng, đơn giản lão chỉ là một công nhân làm mì chuyên cần, thành thạo, tiết kiệm và khá là táo bạo khi mua lại hẳn cả cơ nghiệp của ông chủ mình, ông này là nạn nhân trong cuộc nổi loạn năm 1789”. Không chỉ lão Goriot là người duy nhất được tài sản kếch sù mà đây là vấn đề chung của số người nhạy bén biết nắm bắt thời cơ. Đó là lão Grandet, nhờ cuộc cách mạng đã tậu được vườn nho. Hay là lão Séchard cũng tậu được xưởng máy in với giá rẻ mạt.

Khi đến quán trọ Vauquer, lão Goriot mang theo quá khứ bí mật, chẳng một ai trong quán trọ biết rõ về quá khứ và cuộc đời trước kia của ông. Họ chỉ biết lão là một thương gia mì sợi giàu có và hiện tại đang nghỉ việc kinh doanh. Với giọng thương xót thông cảm sâu xa, Balzac đã giới thiệu một cách khái quát và sơ lược về cuộc đời của lão Goriot “Lão Goriot, mà trên đầu lão, một họa sĩ cũng như một nhà sử học đã đổ vào đấy tất cả ánh sáng của bức tranh. Bởi sự tình cờ nào mà sự miệt thị nửa thù hằn, sự không tôn trọng kẻ bất hạnh trộn lẫn với lòng thương xót lại đập vào người khách trọ cao tuổi nhất? Có phải ông lão đã gây ra một vài trò nực cười và kì cục mà người ta khó tha thứ cho nó hơn là tha thứ cho những thói hư tật xấu khác chăng? Những câu hỏi này liên quan đến phần nhiều những sự bất công trong xã hội. Có thể nó nằm trong bản chất của con người là khiến cho những ai hoàn toàn đau khổ bởi sự tự ti, bởi sự yếu đuối hay sự lãnh đạm đều phải chịu đựng tất cả”. Qua cách giới thiệu của Balzac người đọc có thể phần nào hình dung về cuộc đời và số phận của lão Goriot. Cuộc đời ẩn chứa bao nỗi đau khổ và bất hạnh. Một nhà tư sản kết thân cùng dòng dõi quý tộc thì làm sao bất hạnh? Các bạn chớ vội tưởng rằng người giàu có thì không đau khổ. Đôi khi chính sự giàu và địa vị đó là nguyên nhân dẫn đến những bi kịch không thể tưởng tượng. Nghèo hèn có nỗi đau khổ riêng của nghèo hèn. Giàu sang phú quý thì có sự đau khổ của giàu sang phú quý. Lão Goriot là một trong số đó. Bi kịch cuộc đời lão chính thức bắt đầu ở quán trọ Vauquer. Thật ra, bi kịch này đã nhen nhóm từ rất lâu, ngay trong cái gia đình bé nhỏ êm ấm của Goriot. Sau bảy năm chung sống hạnh phúc thì bất hạnh ập xuống ngôi nhà bé nhỏ:“vợ ông chết”. Thế là “tình yêu dành cho người vợ đã chết không tròn vẹn nên ông chuyển hết sang cho hai cô con gái và lúc đầu họ làm cho ông lão cảm thấy mãn nguyện”.

Khi miêu tả và giới thiệu về lão Goriot Balzac không trực tiếp miêu tả mà thông qua cuộc đối thoại với các nhân vật khác làm bật nổi tính cách của người cha thương con này. Qua cuộc đối thoại với bà chủ Vauquer, lão Goriot hiện lên với đầy đủ chi tiết và hình ảnh. Đó là một lão già ngoài sáu mươi đã nghỉ việc kinh doanh đặt phòng thượng hạng nhất. Trước sự giàu có và kiểu cách sang trọng của vị thượng khách làm mọi người trong quán trọ phải ngưỡng mộ và ganh tị “Goriot đến ở mang theo một tủ quần áo đầy, những quần áo đẹp của một thương nhân”. Rồi bà chủ quán phải “thán phục mười tám chiếc áo sơ mi kiểu Hà Lan mà nét tinh tế của nó lại càng nổi bật hơn khi lão Goriot đeo trên cái lá sen cố định trước ngực hai chiếc ghim gắn liền với nhau bởi một sợi dây chuyền nhỏ, mỗi chiếc có gắn một viên kim cương lớn”. Dường như ông lão sắp định cư ở đây mãi mãi. Bởi lão mang theo tất cả kỉ vật của gia đình “Hộp đựng thuốc lá của lão cũng bằng vàng, đựng một chiếc dây chuyền hình trái tim đeo ảnh và bên trong đầy tóc, làm ông cụ ra vẻ phạm vào chuyện nhân tình nhân ngãi gì đấy”. Không một ai trong nhà trọ biết đó là kỉ niệm duy nhất của lão và hai con gái. Rồi “những chiếc tủ của lão đầy ắp bát đĩa bằng bạc…những chiếc muôi, chiếc bát đựng nước sốt, rất nhiều đĩa, bộ chén đĩa ăn sáng với món mì sợi, tóm lại là các loại ít nhiều đều đẹp” mà “ông không muốn bán đi”. Bởi chính những món đồ đó “gợi cho lão nhớ lại những chuyện trọng đại trong đời sống gia đình”. Và hơn hết là kỉ vật quá cố của vợ “Cái này – lão nói với bà Vauquer trong khi nắm chặt một chiếc đĩa và một chiếc cốc nhỏ trên nắp có hình hai con chim cu gáy đang gậm mỏ nhau âu yếm – là món quà đầu tiên vợ tôi tặng cho tôi. Vào ngày kỉ niệm ngày cưới… Tôi thà phải bốc đất để ăn còn hơn phải xa rời những thứ này”. Thậy vậy, chúng là những thứ quan trọng mà cả cuộc đời lão còn lưu lại.

Có thể nói, lão Goriot là một người đàn ông hoàn mĩ. Tuy không phải thuộc người đẹp trai lịch lãm nhưng trong con đường kinh doanh lão là một người thành đạt và khôn khéo. Trong gia đình là một người cha hết lòng thương con, một người chồng chung thủy và có trách nhiệm “Nhiều người giàu có muốn gả con gái cho Goriot, nhưng ông nhất định không ưng ai mặc dù họ đưa ra rất nhiều cám dỗ”. Bởi vì lão không muốn ai thay thế vợ mình, lão luôn cho rằng không một ai có thể như bà. Người đã ban cho ông Anastasie và Delphine đáng yêu và tuyệt trần. Phải chăng lão Goriot thấu hiểu cảnh mẹ ghẻ con chồng, ông lo sợ. Và điều quan trọng là lão không muốn san sẻ tình cảm của mình dành cho con đến một ai khác. Tức là lão toàn tâm toàn ý yêu thương hai con gái mà ông quý như thiên thần. Có thể thấy lão Goriot là người cha có tấm lòng yêu thương con vô bờ bến, một người cha “cho chúng cuộc sống, đã cho mỗi đứa năm hoặc sáu trăm nghìn franc của hồi môn để tạo hạnh phúc khi gả chồng cho chúng và chỉ giữ lại cho mình từ tám đến mười nghìn franc lợi tức”. Thậm chí lão Goriot còn cho cả cuộc đời mình. Thế mà những đứa con thiên thần đó “chỉ trong hai năm…đã đuổi ông ra khỏi cuộc đời chúng như một người khốn khổ”. Thật là những đứa con lầm lạc. Lão Goriot yêu thương họ hơn cả tính mạng bản thân vậy mà họ không hề trân trọng. Hai mươi năm, một con số không nhỏ chút nào. Có lẽ, hậu quả ngày hôm nay mà lão Goriot nhận được là một phần do sự lầm lạc trong việc giáo dục con “Sự giáo dục con cái của của ông ngày càng vô lý. Một người có tới hơn sáu mươi ngàn franc lợi tức nhưng chỉ dành cho cuộc sống của mình một nghìn hai, còn bao nhiêu chỉ lo thỏa mãn những đòi hỏi ngông cuồng của các cô con gái và điều ấy là hạnh phúc của ông”. Vì quá được cưng chiều nên hai cô nàng trở nên kiêu kì và đỏng đảnh thậm chí dối gạt cha, lấy cha mình ra làm cuộc vui chơi tùy thích “Một hôm, do sự ghen ghét của hai cô con gái, một cô đã nói rằng chiếc xe chở cô chị vừa bị lật ngược, mong muốn ông đi khỏi nhà để tâm tình với một gã cùng buôn bán”. Để rồi, người cha đáng thương đã lập tức mắc mưu, “sợ hãi tái nhợt mặt mũi” và “ốm mấy ngày liền”. Chính tình yêu thương mù quáng dần dần đẩy lão Goriot tiến gần đến thảm kịch.

Không chỉ thế, ước mơ bước tới giới thượng lưu, trở thành một quý tộc của lão Goriot là một nguyên nhân chính dẫn đến tấm thảm kịch gia đình. Lão tung ra cho hai con gái của hồi môn kếch sù nhằm quyến rũ giới quý tộc. Thế là Anastasie được bá tước Restaud “đưa cô rời khỏi nhà bố đẻ mình để bước chân lên những nấc thang xã hội quyền lực”. Còn Delphine được giám đốc ngân hàng gốc người Đức Nucingen rước về và trở thành nam tước Saint –Empire. Kết quả là hai cô con gái ông tư sản bột mì trở thành giới quý tộc như lão mong ước. Và chính cái địa vị quý tộc đó đã phá tan tành gia đình bé nhỏ mà bấy lâu lão gầy dựng và vun đắp.

Tóm lại, yêu thương con quá mức, nuông chiều chúng một cách điên cuồng quá đáng sẽ là con dao hai lưỡi. Nếu sử dụng không đúng thì nó sẽ gây ra hậu quả khôn lường. Và hậu quả đó đã ập xuống đầu lão Goriot. Qua đó, Balzac muốn cảnh tỉnh đến người đọc và hơn hết là cho những ai sắp làm cha và đang làm cha, một chân lý vĩnh hằng: nếu anh quá nuông chiều con cái tức là anh đang tự đào mồ chôn bản thân. Cái chân lý này lão Goriot đến lúc sắp tắt thở mới nhận ra “Ta phải đền tội vì đã quá yêu thương chúng”. Và vấn đề thứ hai, nhà văn muốn nhắn gửi đến bạn đọc: đừng quá tham vọng, mơ ước những địa vị cao sang quý tộc, nếu không sẽ trả giá rất đắt. Chính lão Goriot đã trả giá cho ước muốn đó – sự tan vỡ gia đình. Đây là hai nguyên nhân chủ quan dẫn đến bi kịch gia đình lão Goriot. Bên cạnh nguyên nhân chủ quan đó còn có nguyên nhân khách quan. Đó là hiện thực xã hội bấy giờ, một xã hội nửa tư sản, nửa quý tộc lẫn lộn. Và dẫn đến những lẫn lộn về các giá trị đạo đức và thẩm mĩ. Xã hội đó gồm toàn những sự tàn bạo và lợi dụng lẫn nhau. Mọi thứ bị đảo lộn, con người dần dần mất đi những phẩm giá tốt đẹp ban đầu.

Tất cả tiền tài, danh vọng, địa vị và cả tình thương, thậm chí là mạng sống của Anastasie và Delphine đều do lão Goriot ban cho. Vậy mà họ vô tư không nhận ra tình cảm của cha mình. Thế tại sao lão Goriot đến phút cuối mới nhận ra bản chất thật sự của hai cô con gái. Trong tác phẩm lão là một “nhà buôn bán đại tài” biết “nhìn xa trông rộng” nhưng quay về cuộc sống gia đình ông là “một người thợ ngu độn và thô lỗ, một con người không hiểu biết thậm chí không biết suy luận, không mảy may ham muốn những niềm vui tinh thần, tóm lại chỉ là người giỏi ngu ngốc mà thôi”. Phải chăng đây là một nguyên nhân. Thật ra dù không hiểu hết bản chất thật sự của họ thì lão Goriot cũng hiểu đôi điều. Nhưng tình yêu thương con quá lớn, lão không thể cưỡng lại. Chính điều này đã làm trái tim lão bị tổn thương và rỉ máu. Khi nhận thấy “các con lão phải xấu hổ vì mình”, lão tự cảm thấy mình là kẻ có tội, cái tội “gây ra mối nguy hại cho các cậu con rể của mình mà các cô con gái của ông thì yêu thương chồng chúng”. Trước những nhận thức và lập luận đau đớn đó, lão Goriot tự nhận thấy “cần phải hy sinh”. Tình yêu của lão Goriot dành cho con thật mù quáng và có phần bản năng. Để biện hộ cho việc làm của mình, biện hộ cho sự hy sinh mù quáng đó, lão bảo rất đơn giản chỉ vì “ông là bố”. “Ông là bố”, nghe đơn giản nhưng lại gây chua xót bao lòng người. Người bố đáng thương, tội nghiệp đã hy sinh, loại trừ cả bản thân dù đau khổ và bế tắc. Bởi khi thấy “các cô con gái hài lòng, ông lão hiểu rằng ông lão làm thế là đúng”. Dẫu biết rằng bậc làm cha làm mẹ phải hy sinh vì con cái. Điều này tất nhiên. Nhưng đó không phải là một phía mà nó đòi hỏi ở cả hai. Bổn phận con cái phải hiếu thảo đáp trả công ơn trời biển của cha mẹ. Sự hy sinh của cha mẹ sẽ trở nên vô nghĩa nếu đó là sự hy sinh một phía, một phía kia thì vô tâm hờ hợt. Anastasie và Delphine là những đứa con như thế. Dù bản chất hai nàng không độc ác tàn nhẫn nhưng hai nàng đã mù quáng, lầm lạc trong cuộc sống quý tộc, không quan tâm đến người cha già. Khi bước lên đỉnh vinh quang của quyền lực và địa vị hai cô con gái quên mất xuất thân ban đầu của mình, dường như muốn quên luôn bố. Để rồi, ông lão phải tự rút lui cùng với tất cả kỉ vật thân thương nhất đến quán trọ Vauquer, bắt đầu chuỗi ngày đau đớn – bi kịch cuộc đời ông. Lão Goriot làm tất cả vì niềm vui của hai cô con gái. Người đọc cảm thấy mình nhỏ bé trước tấm lòng của lão Goriot, tấm lòng sâu hơn cả đại dương mà đại dương thì không thể thấy bến bờ.

Một mình nơi quán trọ chờ đợi con đến thăm, dù chỉ một thoáng “Nếu như tôi được ở chỗ chúng, chỉ cần được nghe giọng chúng nói, biết là chúng ở đấy, nhìn chúng đi lại, ra vào, như khi chúng còn ở với tôi, chỉ chừng ấy đủ cho tôi vô cùng vui sướng”. Bấy nhiêu là hạnh phúc của lão Goriot. Những cô con gái yêu quí đến với ông không vì chuyện tiền bạc cũng vì chuyện gia đình. Nhưng không sao, đối với lão điều đó vẫn tốt, lão vẫn gặp chúng. Lúc nào Anastasie và Delphine cũng than vãn, kể lể này nọ, rồi khóc lóc kêu than. Điều đó làm lão Goriot buồn phiền đến sinh bệnh và cuối cùng là cái chết thương tâm “Cứ đến, các con cứ đến đây mà than thở, lòng cha rộng lớn, đón nhận được hết. Phải, dù các con đã làm lòng cha tan nát, tấm lòng tả tơi muôn mảnh vẫn là lòng người bố. Cha muốn gánh nỗi buồn cho các con, đau thay các con”. Một thương gia giàu có với số tiền lợi tức lên đến tám nghìn franc mỗi năm thì khách sạn hạng sang nơi Paris là không thiếu. Nhưng lão Goriot lại chọn quán trọ Vauquer, nơi tồi tàn bẩn thỉu và hẻo lánh. Thật ra quán trọ càng hẻo lánh lão Goriot càng thích. Đó không phải là cái sở thích quái gở mà đó là vì con. Lão biết rõ, nếu trọ trong nội ô Paris thì sẽ gặp được con nhiều hơn. Nhưng lão càng biết rõ hơn, số tiền dưỡng già chỉ cho phép mình ở nơi quán trọ này đến hết quãng đời còn lại. Ở quán trọ, lão Goriot có thói quen rất kì lạ làm mọi người phải thắc mắc. Ông lão thường ra ngoài rất sớm và trở về đúng buổi cơm trưa. Vậy khoảng thời gian đó lão làm gì? Chỉ có lão mới biết. Có phải lão Goriot đang mưu đồ làm việc gì đây? Những thời gian đó lão “bí mật” theo sau cô con gái. Lão gặp con mà không dám gọi, không dám đến gần chỉ biết đứng từ xa dõi mắt theo từng bước chân con. Nhìn thấy các con gái xinh đẹp lộng lẫy và mạnh khỏe, bấy nhiêu là lão đủ vui. Và nếu chạm mặt nhau trên đường thì cô nàng chỉ dành cho lão một nụ cười thắm thiết. Đối với lão thế là đủ. Dù có xấu xa, bẩn thỉu, thấp hèn hay bệnh hoạn, rách rưới thì cha mẹ vẫn là cha mẹ, vẫn là người thân yêu nhất, cao quý nhất – người đã nuôi dạy chúng ta khôn lớn. Và khi khôn lớn rồi phải biết phụng dưỡng cha mẹ. Anastasie và Delphine làm cho người đọc dâng lên niềm khinh bỉ dù hai nàng không thực sự độc ác. Nếu đọc Eugénie Grandet, người đọc căm ghét lão Grandet keo kiệt tàn nhẫn với người con gái ngây thơ Eugénie bao nhiêu thì càng khinh bỉ Anastasie, Delphine và càng yêu quí lão Goriot bấy nhiêu. Trên giường bệnh, lão Goriot đau quằn quại và miệng gọi tên hai đứa con không ngớt “Tối nay, ông ấy đã nói với tôi hàng trăm lần rằng: “Chúng đang nhảy kìa! Con bé đã có cái áo của nó”. Ông ấy gọi tên của họ. Ông cụ làm tôi phát khóc với cái giọng thế này: “Delphine! Delphine bé nhỏ của cha! Nasie!”. Nỗi đau về thể xác đối với lão Goriot chẳng là gì, mà chính nỗi đau tinh thần đã giết chết ông. Một “khuôn mặt co giật, trắng bệt và hết sức yếu ớt” lúc nào cũng muốn gặp mặt con lần cuối “Hãy nói với chúng rằng ta cảm thấy không khỏe, rằng ta muốn ôm hôn chúng, muốn gặp chúng một lần cuối trước khi chết. Hãy nói với chúng như thế nhưng đừng làm chúng hoảng sợ”. Cái chết gần kề, lão Goriot không hề sợ mà chỉ lo sợ con mình phải hoảng hốt, lo sợ rồi ảnh hưởng đến sức khỏe và càng không muốn chúng khóc “Ta không muốn chết để khỏi làm cho chúng phải khóc”. Bởi đối với ông “địa ngục chính là không có những đứa con”. Một mong ước nhỏ nhoi của một người sắp chết “Nếu chỉ cần có những bàn tay của chúng trong tay ta, ta sẽ không còn đau một chút nào nữa” thế mà “không có đứa nào…không, chúng không đến!”. Trong suốt thời gian dài, chính xác là cả đời, lão Goriot dành tất cả cho họ. Từ một phú thương lừng lẫy biến thành một lão già kiết xác “Lão nằm trên chiếc giường cũ kỹ chỉ có một tấm chăn mỏng và một tấm đệm được làm với những mảnh vải giống như cắt từ những chiếc áo dài cũ của bà Vauquer. Cửa sổ thì ẩm ướt và đầy bụi bặm”. Thậm chí nơi ở ông lão tồi tàn đến nỗi “kẻ ở đợ trong quán của bà Vauquer chắc còn được bố trí khá hơn là tình cảnh của lão Goriot”. Lão Gioriot không nghèo khốn sao được khi mỗi lần hai cô con gái yêu đến là những thứ quý giá lần lượt không cánh mà bay mất. Kể cả kỉ vật người vợ thân yêu, thứ mà ông thà chết đói chứ không bán. Cứ mỗi lần Anastasie và Delphine đến, lão Goriot vừa vui lại vừa buồn. Vui vì được gặp chúng, ôm chúng vào lòng. Lão buồn vì cuộc sống của chúng không hạnh phúc như lão tưởng. Có thể nói, lão Goriot ngày càng nghèo về vật chất lẫn suy kiệt tinh thần và sức khỏe. Để người đọc dễ tiếp nhận sự thay đổi đó, chúng tôi xin tóm lược quá trình từ lão Goriot giàu có đến ông già nghèo hèn kiết xác bằng bảng sau:

 

Năm đầu àĐầu năm thứ 2

– Ở phòng tốt nhất của quán trọ à Gọi là ông Goriot.

– Ăn tối ở ngoài phố.

– Sau đó ăn tối 2 lần/tháng ở ngoài.

– Và cuối cùng ăn tối đều đều ở quán trọ.

 

Cuối năm thứ 2 à Đầu năm thứ 3

– Xuống tầng 2 và giảm tiền trọ xuống 9 franc.

– Tiết kiệm mọi thứ, thậm chí không đốt lò sưởi vào mùa Đông.

– Mọi người gọi là lão Goriot.

– Cuối cùng hạ mức giá ăn ở xuống 900 franc.

– Bà Vauquer gọi lão là con mèo già.

Cuối năm thứ 3

– Giảm hẳn chi tiêu.

– Lên tầng 3 à loại tệ nhất.

– Không hút thuốc.

– Chẳng cần đến việc rắc phấn lên tóc.

– Màu tóc xám bạc lem nhem.

– Nét mặt mang vẻ buồn rầu bí hiểm ngày càng trở nên sầu muộn hơn.

– Tình trạng thể lực và tinh thần giảm súc trầm trọng.

– Quần áo bị sờn, lão mua những mảnh vải trúc bâu rẻ tiền để thay thế những cái cũ.

– Kim cương, hộp đựng thuốc lá bằng vàng, dây chuyền, đồ trang sức dần dần biến mất.

– Lão mặc áo riđinhgôt bằng dạ màu vàng nặng nhọc, cả mùa đông cũng như màu hè, một áo gi lê bằng lông dê, một chiếc quần xám bằng len.

– Lão trở nên gầy gò hơn, bắp chân nhão ra, bộ mặt béo phì vì cuộc sống sung túc trước kia nay đã hoàn toàn biến mất: trán thì nhăn nheo, hàm nhô ra.

Năm thứ 4

Lão hoàn toàn đổi khác

– Lão buôn mì ở độ tuổi ngoài 60 đã không còn cái vẻ bề ngoài của độ tuổi 40. Giờ đây như đã mang sức nặng của tuổi 70 đần độn, đi đứng lảo đảo, vẻ mặt nhợt nhạt.

– Đôi mắt màu xanh vốn lanh lợi đã hơi lờ đờ, nhuộm màu xám xịt, chúng có vẻ bị mờ đi, không còn chảy nước mắt nữa, viền mắt đỏ như màu máu.

Qua bảng liệt kê đó, chúng ta có thể thấy được tấm lòng lão Goriot bao la biết dường nào. Tất cả mọi người đều thấy chỉ ngoại trừ Anastasie và Delphine là vô tư đến phút cuối mới nhận ra. Trái tim người cha với bao hy vọng và tình thương tan vỡ thành từng mảnh vụn và làm cho “giọt nước mắt chảy quanh mắt mà không sao rơi xuống được”. Goriot khóc không phải vì căn bệnh mà lão khóc vì nhận ra được chân lý đau đớn “tiền không mang lại tất cả kể cả những đứa con”. Và giọt nước mắt ấy đã nhận ra rằng “ít nhất khi một con người bất hạnh được yêu thương, thì ông ta có thể chắc chắn mình được yêu thương thật”. Người duy nhất yêu thương lão thật sự không phải con gái lão mà là Rastignac – người bạn, người con chăm lo cho lão suốt khoảng thời gian ở quán trọ. Chỉ có chàng thanh niên đó không chê bai một lão già nghèo hèn vô tích sự “A! con trai yêu quý của ta, đứa con duy nhất của ta, ta lại yêu quý việc bị bỏ rơi và nỗi khổ của ta”. Lúc nào lão Goriot cũng tự lừa dối bản thân “Ta biết điều này từ mười năm nay. Ta tự nhủ với mình vài lần nhưng ta lại không dám tin điều đó”. Lão bào chữa cho con mình, tự an ủi bản thân. Vì tình yêu ông dành cho con là thứ tình yêu “vô tiền khoáng hậu”. Một thứ tình yêu “hoàn toàn không bị tì vết vì một chút lợi ích cá nhân nào”. Trong tác phẩm, Balzac không ngớt lời ca ngợi tình yêu cao cả đó “Thần tượng của người cha luôn trong sáng và đẹp đẽ, và tình yêu con tha thiết đã lớn dần lên trong quá khứ cũng như trong tương lai”. Thế rồi, sự thật vẫn là sự thật. Sự thật thì bao giờ cũng phũ phàng không như mong tưởng “Một người cha cần phải luôn luôn giàu, ông ta cần kìm chặt những đứa con như kìm chặt những con ngựa xảo trá”. Những đứa con bé bỏng, người thân yêu duy nhất trong đời lại là người làm tim lão rỉ máu. Họ tạo cho lão một vết thương lòng không thể xóa mờ “Tất cả đều rất khéo léo và chúng đã đâm thủng trái tim ta. Ta thấy rõ ràng đó là những điều giả dối, những nỗi đau này không có thuốc gì chữa được”.

Nếu lúc đầu lão Goriot còn biện hộ cho hai đứa con gái thì đến khi nhận ra điều tuyệt vọng, ông lão đã lên tiếng nguyền rủa hai đứa con và nói rất nhiều với Rastignac những bài học đường đời đau đớn. Hai mươi năm “ông dành trọn tình thương của một người mẹ, tình yêu của một người cha cho các con mình; rồi một ngày ông cụ cho đi tất cả cơ nghiệp của mình”. Để rồi, “Ôi chúa ơi, làm sao ngài có thể hiểu được nỗi khốn khổ, những nỗi đau đớn mà con đã phải chịu, làm sao ngài có thể đếm được hết sự phản trắc mà con đã nhận được vào lúc mà con già đi, thay đổi, kiệt sức, bạc đầu, vì sao ngày hôm nay ngài còn làm con đau đớn đến như vậy?”. Lão đau đớn nói trong mê sảng và giận dữ. Nhưng có lẽ đây là lúc lão tỉnh táo nhất. Lão vô cùng tỉnh táo khi nhận ra nỗi đau khổ mà mình mang không phải tại Chúa mà là lỗi của bản thân “Tất cả đều là lỗi của ta”, “ta phải đền tội vì đã quá yêu thương”. Dù đau đớn oán trách, nguyền rủa con nhưng từ trong thâm tâm lão lúc nào cũng muốn gặp con “Con gái của ta, con gái của ta, Anastasie, Delphine! Ta muốn gặp chúng”.

Cuối cùng, lão Goriot cũng tìm ra được nguyên nhân sâu xa của sự sa đọa ở hai cô con gái “Ta đã làm hư hỏng chúng”. Ông nhận ra được lối giáo dục sai lầm của mình trong suốt thời gian qua: “Ta đã luôn cho phép chúng thỏa mãn sự ngông cuồng của những cô gái trẻ. Khi mười lăm tuổi chúng đã có xe riêng! Không có gì có thể chống lại chúng. Chính ta là thủ phạm nhưng ta làm thế vì tình yêu”. Sự đau khổ và tuyệt vọng làm cho lão Goriot gần như mê sảng “Tôi đã bị con cái bỏ rơi, đó là phần thưởng cho tôi sao? Thật là độc ác và bẩn thỉu. Ta ghê tởm chúng, ta nguyền rủa chúng, kể cả khi đêm đến, ta cũng sẽ thức dậy từ quan tài để nguyền rủa chúng, bởi vì chúng ăn ở quá tệ”. Lão Goriot vẫn không hề biết mình nói gì: “Ta vừa nói gì nhỉ”. Nhưng lão luôn tỉnh táo khi nghĩ đến con “Delphine đến rồi đấy chứ? Nó là đứa con gái tốt nhất của ta đấy. Eugène ạ cậu như con trai của ta. Cậu cũng yêu quý nó chứ. Hãy đối xử với nó như một người cha ấy”. Dù nhận ra sự lầm lạc của con nhưng lão vẫn không hề oán ghét, dù lão có vài tiếng nguyền rủa. Tình yêu thương đó không phải ai cũng hiểu. Chỉ có chàng sinh viên nghèo Rastignac mới có thể thấu hiểu và chia sẻ thứ tình yêu bao la “Còn Nasie bất hạnh nữa. Số phận của chúng ra sao đây! Ôi chúa ơi, ta sắp chết rồi, ta đau đớn quá. Cắt bỏ đầu ta đi, chỉ để lại cho ta mỗi trái tim thôi”. Lão Goriot không cầu mong gì hết, không cầu mong được sống mà chỉ là cầu mong mãi mãi là trái tim yêu thương và che chở cho hai đứa con những lúc khó khăn nhất, những lúc chúng cần đến lão.

Qua bi kịch đau đớn của lão Goriot, Balzac muốn người đọc nhận ra rằng nếu sống trong xã hội, con người quá chân thực, sống bằng tình thương thì sẽ có kết cục đau đớn. Khi đó, người ấy sẽ bị chính tình thương đè bẹp. Phải biết chôn chặt tình yêu thương đó, không cho nó nảy nở dù chỉ một thoáng. Quy luật xã hội này, bà Beauséant, người từng là nạn nhân của chính tình yêu thương đã kịp nhận ra và dạy cho Rastignac “Nếu có tình cảm thành thực, giấu kín như một vật báu, đừng bao giờ cho người khác đoán thấy. Cậu sẽ không được là đao phủ nữa mà thành nạn nhân”. Bi kịch của lão Goriot là một minh chứng hùng hồn nhất. Số phận lão Goriot không hề mang tính chất cá nhân, riêng biệt mà nó mang ý nghĩa chung cho xã hội. Trong xã hội đương thời xấu xa bẩn thỉu đó, xã hội của tiền tài và địa vị, tham vọng và mưu đồ, thì con người sẽ là nạn nhân đau đớn và bất hạnh. Càng bất hạnh hơn khi đó lại là người quá giàu tình thương như lão Goriot. Lão là nạn nhân của môi trường xã hội đó. Chính xã hội thượng lưu “tăm tối mù mịt” cũng đã tha hóa nhân cách của Anastasie và Delphine. Có thể cho rằng, sự tan vỡ của gia đình lão Goriot là hậu quả của xã hội mà thế lực đồng tiền ngự trị.

Bi kịch cuộc đời lão Goriot gợi người đọc nhớ đến bi kịch nổi tiếng của Shakespeare “Vua Lia”. Lão Goriot và vua Lia là hai người cha đáng thương và đáng trân trọng. Họ đều là nạn nhân của những cô con gái yêu quý. Để rồi, hôm nay “Vua Lia của thế kỉ XIX” – Lão Goriot, nhận thấy tính chất chung của sự đổ vỡ cá nhân “Tổ quốc sẽ bị diệt vong nếu như những người cha bị giày xéo dưới chân. Điều đó rất rõ, xã hội, thế giới dựa trên tình cảm cha con, tất cả sẽ sụp đổ nếu những đứa con không còn yêu thương cha chúng nữa”. Những lời lẽ kêu than của lão Goriot như ngàn mũi kim xâu xé tim gan người đọc. Thượng đế đã ban cho con người cuộc sống tốt đẹp nhưng bản chất thực sự của nó thì vô cùng tồi tệ “Chúa ơi! Ôi chúa ơi! Người đã muốn cho chúng con một thế giới tươi đẹp nhất mà thế gian lại vô nghĩa”. Tình thương và tiền bạc, đây là hai con đường mà tất cả mọi người phải chọn. Hai con gái lão Goriot đã chọn con đường tiền tài địa vị mà tạm thời quên lãng tình cha con.

Đến đây tấm thảm kịch cuộc đời lão Goriot hiện lên nguyên hình của nó. Đỉnh điểm của thảm kịch đó là cảnh đám tang ở phần cuối tác phẩm. Một đám tang sơ sài, ảm đạm, thê lương khiến người đọc phải rơi lệ. Không một ai thân thích, không con cái người thân, chỉ duy nhất người bạn Rastignac. Cả cuộc đời lão chẳng thu lại kết quả gì tốt đẹp. Một chiếc “quan tài…mua ở bệnh viện với giá rẻ mạt”. Có con là các bà hoàng quý tộc Paris mà một cỗ quan tài ra trò cũng không có. Nhìn cảnh tượng đó Rastignac đau đớn rơi lệ “Chàng nhìn thấy chiếc quan tài được phủ tấm ga giường màu đen, đặt  trên hai chiếc ghế dựa. Nhìn cảnh tượng đó, chàng không cầm nỗi nước mắt”.

Cũng như bao nghi lễ khác, lão Goriot cũng được đưa đến nhà thờ. Đó là một giáo đường gần phố Neuve Sainte – Geneviève , “một giáo đường thấp và tối om”. Cũng lại là Rastignac, chàng cầm cố chiếc đồng hồ lo đám tang cho lão. Trên chiếc xe tang chật hẹp chỉ có bốn người “một linh mục, một chú bé cùng Eugène và Christophe”. Đám tang chỉ có bốn người, thật buồn cười, cười đến trào nước mắt. Có thể nói, đây là đám tang chưa từng thấy, chưa từng thấy bởi sự bi hài của nó. Tang lễ sơ sài “kéo dài chừng hai mươi phút” với những vị linh mục “tiến hành tất cả những nghi lễ xứng đáng với giá tiền bảy mươi quan”. Ngoại trừ Rastignac, tất cả đều chỉ biết tiền “Sylvie cũng đòi mười franc tiền công khâm liệm cho lão”. Một nghĩa địa với hai gã đào huyệt “hất vài xẻng đất lên nắp quan tài” thì “chạy vội tới bên Rastignac đòi tiền công”. Ở đây, Balzac rất chú ý đến thời gian. Thời gian diễn ra nhanh chóng, gấp gáp, nghi lễ đơn giản, vị linh mục thì “chúng ta cũng phải thật nhanh lên, giờ đã là năm rưỡi rồi”. Hay “sáu giờ đúng – chiếc quan tài bắt đầu hạ huyệt, đầy tớ của hai con gái lão Goriot chuồn ngay lập tức cùng các tu sĩ khi mà một bài kinh ngắn mà Eugène trả tiền dứt lời”. Đặc biệt, Balzac cũng rất chú ý đến không gian. Không gian ở đây là “một cảnh hoàng hôn ảm đạm”. Nó làm cho cảnh đám tang thêm thê lương đau đớn. Thời gian – không gian – hành động, ba yếu tố này Balzac vận dụng nó một cách linh hoạt trong việc tạo dựng một đám tang bi hài.

Qua cảnh đám tang, nhà văn còn nói lên một vấn đề liên quan đến tôn giáo. Tôn giáo vốn có địa vị rất cao trong xã hội phương Tây ở những thế kỉ trước. Nhưng đến đây tôn giáo thật rẻ mạt. Trong xã hội tư bản bấy giờ, tôn giáo chỉ là công cụ, là nô lệ của đồng tiền và địa vị, thế giới tâm linh chỉ là phù phiếm. Tất cả đều bị cuốn hút vào đồng tiền.

Hai cô con gái để cha mình phải chết trong tủi hờn, cô độc. Chỉ có “hai chiếc xe trang hoàng lộng lẫy nhưng trống rỗng của hai người con rể tới”. Hai con rể bố thí cho ông lão như bố thí cho một kẻ xa lạ, một kẻ ăn xin ngoài đường, bố thí cho ước vọng trở thành quý tộc lão Goriot. Hai chiếc xe mang huy hiệu quý tộc là cái danh hiệu cao quý nhưng rỗng tuếch mà hai con rể ban bố cho lão.

@Tiểu kết

Qua tiểu thuyết “Lão Goriot”, Balzac đã xây dựng thành công hình tượng điển hình bất hủ lão Goriot. Đó là một người cha giàu lòng yêu thương con và vô cùng lương thiện “Ông lão quả là người nhân hậu, chất phác chưa bao giờ ông ấy làm hại ai và coi thường ai cả”. Nhưng điều đáng trách nhất là lão có quan niệm hạnh phúc lầm lạc, ước mơ trở thành quý tộc. Bên cạnh đó, còn có cách giáo dục con vô lý. Đồng thời, qua bi kịch gia đình lão Goriot, Balzac chứng minh quy luật của xã hội tư bản thế kỉ XIX. Quy luật ấy nằm ở mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Tức là con người tạo ra hoàn cảnh, đồng thời là nạn nhân của hoàn cảnh.

3.5.2 Rastignac – điển hình cho thanh niên tỉnh lẻ đầy tham vọng – nhân vật chính của tiểu thuyết

Song song với nhân vật lão Goriot, Balzac còn xây dựng hình tượng khá độc đáo là Rastignac, một sinh viên khoa Luật. Gorki từng nhận xét về “Lão Goriot” rằng đây là “cuốn sách thứ hai mà tôi được đọc… Lần này tôi hoàn toàn bị thuyết phục và trong một thời gian dài tôi cảm thấy mình là Rastignac đang hăm dọa thế giới sẽ trả thù phẩm giá của con người bị chà đạp, trả thù cho những nỗi đau thương mà thế giới đã làm tràn đầy cả tâm hồn con người” [40].

Rastignac theo lời giới thiệu của Balzac là một thanh niên có “khuôn mặt đặc biệt của người miền Nam, nước da trắng trẻo, tóc đen, mắt xanh”. Chàng xuất thân trong dòng dõi quý tộc nhưng đến đời của chàng chỉ còn danh hiệu. Từ nhỏ, Rastignac được giáo dục trong truyền thống tốt đẹp. Chàng ăn mặc tiết kiệm, giản dị và là thanh niên có ý chí “Chàng thường mặc chiếc áo Rơđanhgốt cũ, một chiếc gi lê xấu xí, thắt chiếc cà vạt đen nhầu nhĩ đáng ghét, cẩu thả theo kiểu sinh viên, một chiếc quần dài vừa vặn và đi đôi giày bốt đã được thay thế mới”. Cũng như bao chàng sinh viên khác Rastignac có khát vọng và hoài bão riêng. Chàng rời vùng quê thanh bình với bao kỉ niệm tuổi thơ yên ả đến nơi náo nhiệt Paris để học hành và lập nghiệp. Khi đến nơi này “chàng sinh viên thông minh hơn, có những tham vọng cuồng nhiệt xuất phát từ những ý nghĩ về người cha và gia đình”. Cũng chính nơi này “anh lột bỏ nhưng điểm yếu, trưởng thành dần và cuối cùng thì nhận được liên tiếp những thăng tiến trong xã hội”. Một sinh viên nghèo với mức chi tiêu một năm là 1200 franc thì quán trọ Vauquer là nơi thích hợp nhất. Vì là gia đình quý tộc sa sút nên chi tiêu hằng năm của cậu sinh viên này được trích ra từ “phần thu nhập khoảng 3000 franc không ổn định được đem lại từ sản phẩm rượu nho công nghiệp” của gia đình. Vì thế Rastignac luôn sống trong “những ngày tháng thiếu thốn”. Rastignac rất yêu thương những người thân trong gia đình, đó là những người thân yêu lúc nào cũng “chắt chiu tiết kiệm từng li từng tí trong những vụ thu hoạch, rồi thì việc cả gia đình phải uống một thứ nước ép lại từ bã nho đã ép kiệt”. Mục đích Rastignac lên Paris là để tạo dựng cuộc sống mới đem lại hạnh phúc cho người thân. Cuộc sống nghèo khổ, tù túng nơi quê nhà đã gieo vào đầu chàng sinh viên biết bao niềm đam mê và khát vọng. Đó là khát vọng đổi đời “và còn không biết bao thứ nữa đã khiến chí tiến thủ, lòng khát khao danh vọng của chàng tăng thêm gấp mười lần. Và chàng muốn bằng tài trí của mình để đạt được những tham vọng đó”. Khát vọng của Rastignac vô cùng chân chính. Bởi vì Rastignac đi bằng hai chân của mình chứ không hề dựa dẫm người khác. Chàng như một chú chim non ngây thơ và trong sáng say sưa với vòm trời Paris tráng lệ. Lúc đầu, trước những lời cám dỗ và dạy đời của Vautrin, Rastignac không hề nghe theo, thậm chí còn chán ghét hắn. Tâm hồn, suy nghĩ và hành động của Rastignac luôn trong sáng “Thời thanh xuân của mình vẫn còn xanh trong như bầu trời không một gợn mây, mong muốn được trở nên vĩ đại và giàu có, thế mà phải dối trá, phục tùng, luồn cúi, gắng gượng, nịnh bợ, che giấu ư? Vì thế mà tự chấp nhận trở thành đầy tớ của những kẻ dối trá, xu nịnh và luồn cúi ư? Trước khi trở thành đồng bọn chúng thì phải phục tùng chúng. Thật lầm lạc! Không. Mình muốn làm công việc thanh cao, trong sạch; mình muốn làm việc cả ngày lẫn đêm, chỉ để tạo ra cơ đồ bằng chính nghề nghiệp của mình. Đó là cách tạo lập cơ nghiệp chậm nhất, nhưng mỗi ngày đầu mình sẽ được đặt trên gối mà không mảy may một ý xấu xa nào. Có gì đẹp hơn là lặng ngắm cuộc đời mình và thấy nó thanh khiết như một bông hoa bách hợp”. Thế nhưng “chàng vốn dĩ là con người có tố chất miền Nam. Nên khi chàng bất đầu vào việc thì lại phân vân y như một người lần đầu tiên đi biển, giữa đại dương không biết hướng con thuyền đi về đâu”. Khi đến với Paris chàng chứng kiến biết bao điều phải suy nghĩ. Xã hội thượng lưu giàu có, xa hoa đối lập hoàn toàn với sự nghèo nàn nơi quán trọ. Và rồi, ý chí chàng thanh niên càng bị nung nấu quyết liệt “Ở đây chàng đã nhận ra, như những con vật vục đầu trong những cái máng, mười tám vị khách mời đang ăn thỏa thích. Cảnh tượng về những kẻ khốn cùng và khung cảnh của căn phòng này đã làm cho chàng phát ớn đến kinh tởm. Sự chuyển biến thật quá đột ngột, sự tương phản thì quá lớn, chúng làm tăng thêm khát vọng của chàng”. Bởi “một bên là bức tranh với những hình ảnh tươi đẹp duyên dáng của xã hội thanh lịch, những bộ mặt tươi trẻ sâu sắc say mê thi ca say sưa với những vẻ đẹp nhất của nghệ thuật. Một bên là bức tranh bi thảm xấu xí được viền bằng lớp bùn mà những bộ mặt trên đó chỉ còn lại sự cũ kĩ và trần trụi”. Chàng sinh viên chợt nhận ra được con đường thực hiện khát vọng ban đầu chỉ là hư ảo, không thực tế trong hoàn cảnh Paris lúc bấy giờ. Rastignac muốn bước tới khát vọng một cách nhanh chóng và tuyệt đối vì chàng không còn đủ kiên nhẫn. Chàng không đủ kiên nhẫn với những cám dỗ của sự hào nhoáng từ xã hội thượng lưu. Nếu như “lúc đầu chàng toàn tâm toàn ý vào việc học hành” thì “chẳng bao lâu chàng nhận thấy phải gây dựng mối giao du với những người phụ nữ mà theo chàng thì họ có một thế lực rất lớn trong đời sống xã hội”. Rastignac quyết định “hòa nhập với thế giới thượng lưu của Paris bằng việc tìm cho được một người phụ nữ có thế lực đỡ đầu”. Đến đây chàng sinh viên ngây thơ trong sáng ngày nào đã không còn, chỉ còn hiển hiện một chàng sinh viên với bao toan tính. Điều này có nghĩa là Rastignac đã mất dần đi khát vọng chân chính và thanh cao của mình. Giờ đây khát vọng đã biến thành tham vọng điên cuồng. Chàng Rastignac đã bị xã hội thượng lưu đầu độc và thiêu cháy. Xã hội ấy đã tiêm nhiễm vào Rastignac một chất độc và nó đã ăn sâu vào máu của chàng. Vậy Rastignac đến với tham vọng đó bằng cách nào? Các quý bà hạng sang là bàn đạp vững chắc và nhanh chóng nhất. Nhưng làm thế nào để có được mối quan hệ đó? Điều này đối với Rastignac luôn là câu hỏi làm chàng phải đau đầu. Nhưng với chàng trai “thanh lịch có thể nói là cũng có đôi chút vẻ đẹp cơ bắp cộng với lòng nhiệt tình và có óc hài hước thì lẽ nào lại không có người phụ nữ quan tâm đến”. Rastignac quyết định chinh phục thế giới bằng mối quan hệ của người dì “Chàng trai đầy nhiệt huyết đó sực nhớ ra bà dì trước đây đã từng sống trong triều đình và có mối quen biết với rất nhiều các gia đình đại quý tộc”.

Rastignac là một trong số hiếm hoi thanh niên mang phẩm chất tốt đẹp. Chàng và Bianchon là hai nhân vật mà Balzac ưu ái nhất. Cả hai người bạn này đều có lòng thương người và trân trọng con người. Dù biết rằng con đường Rastignac chọn có phần lầm lạc nhưng trong tiểu thuyết chàng sinh viên này vẫn hiện lên với những việc làm tốt đẹp. Chàng vẫn là “con người đẹp”, chưa tha hóa phẩm chất. Chàng vẫn còn đó những cảm xúc yêu, ghét, thương, giận. Tại nơi quán trọ tồi tàn Rastignac dành trọn tình yêu thương cho lão Goriot. Một thứ tình thương chân thành và thiêng liêng “Tình bạn thiêng liêng của họ được xây dựng trên cơ sở tâm lí đối lập hẳn với thứ tình cảm giữa Vautrin và chàng sinh viên”. Mọi người trong nhà trọ trừ bà Coutere, Victorine, Bianchon, tất cả đều tìm mọi cách để trêu chọc lão Goriot, lấy lão ra làm trò vui thì Rastignac là người duy nhất đứng ra bảo vệ ông “Từ nay nếu ai làm nhục lão Goriot tức là đã làm nhục tôi, Eugène nhìn người ngồi cạnh cụ làm mì nói, tất cả chúng ta ngồi đây không ai có thể tốt hơn cụ”. Hơn ai hết Rastignac là người thấu hiểu được tấm lòng người cha thương con vô bờ bến, mù quáng và mang chút ít bản năng thói tật “Tôi yêu những con ngựa kéo xe cho chúng, tôi muốn làm con chó mà chúng đặt chân lên đầu gối”. Nhờ tấm vé thông hành của người dì họ – phu nhân Beauséant Rastignac dần dần lui tới được thế giới thượng lưu. Mà cụ thể là thế giới của hai con gái lão Goriot, bà tử tước Restaud và bà chủ ngân hàng Nucingen sang trọng và kiều diễm. Từ khi gia nhập vào thế giới thượng lưu Rastignac học được rất nhiều bài học kinh nghiệm. Để giữ và bảo vệ được người mình yêu thương trước tiên phải có tiền, phải biết đấu kiếm và bắn súng giỏi “Cậu muốn làm người bảo vệ cho ông cụ một cách có trách nhiệm thì phải biết đấu kiếm và bắn súng giỏi đấy”.

Khác với lão Goriot, Rastignac có điều kiện thâm nhập vào cả hai môi trường. Môi trường thứ nhất là nơi của sự tồi tàn nghèo khổ, nơi của những con người bất hạnh với những cảnh đời ngang trái và mọi khổ đau. Môi trường thứ hai là chốn xa hoa tráng lệ với những kiểu cách sang trọng và không ít sự dối lừa của giới thượng lưu. Chính vì lẽ đó, Rastignac có khả năng đánh giá, nắm bắt được ý nghĩa của hoàn cảnh và “thấu hiểu được những bí ẩn của một tình cảnh kinh khủng mà kẻ gây ra cũng che giấu kĩ càng như người chịu đựng”.

Trong tác phẩm, Rastignac có tính cách và số phận hoàn toàn độc lập. Chàng tiêu biểu cho những thanh niên tỉnh lẻ đầy tham vọng, một gương mặt khá quen thuộc trong bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”. Nhưng hình tượng Rastignac được Balzac xây dựng hoàn toàn khác hẳn và độc đáo. Không giống Xôren của Standhal có thể thấu hiểu tất cả mọi khía cạnh, rõ từng ngõ ngách trong tâm hồn của người khác trong khi bản thân mình là một khu rừng bí ẩn và khó hiểu đối với mọi người xung quanh. Rastignac hoàn toàn ngược lại, chàng cảm thấy thế giới xung quanh mình toàn là điều bí ẩn “Cái quán trọ này sao mà lắm chuyện bí mật thế!”. Bởi chàng không tài nào giải thích được những hành động kì lạ. Trong đêm khuya vắng, lão hàng xóm Goriot “đang nhào nặn cái gì đó” rồi “ngắm nhìn thỏi bạc mà nước mắt giàn dụa rồi lại thở dài”. Chàng không hiểu tại sao Vautrin lại có thể vào nhà trọ khi Christophe đã khóa chặt cửa ra vào và tiếng bước chân, tiếng vàng va vào nhau trong phòng của hắn… Không chỉ thế, xã hội thượng lưu cũng làm cho Rastignac không kém phần kinh ngạc. Bà bá tước De Restaud đi bộ một mình trong phố vắng, ngài bá tước Restaud tỏ ra không hài lòng khi Rastignac nhắc đến tên người hàng xóm, lão Goriot… Quá trình Rastignac nhận thức thế giới cũng là quá trình chàng thay đổi nhân cách. Rastignac mất dần những phẩm chất tốt đẹp, không còn mang lí tưởng cao đẹp như ban đầu khi “chợt nhận ra cuộc chinh phục thế giới thượng lưu còn quan trọng hơn rất nhiều tấm bằng tốt nghiệp trường Đại học”. Xã hội thượng lưu Paris đã dạy dỗ chàng rất nhiều bài học thực tế. Mà người thầy đầu tiên của Rastignac là phu nhân Beauséant “Từ gian biệt thất màu xanh của bà De Restaud đến phòng khách màu hồng của phu nhân De Beauséant, anh đã học được ba niên khóa bộ luật Paris mà người ta không nói ra lời mặc dù nó là một thứ phán lệ xã hội cao cấp, học thông và ứng dụng tốt thì điều gì cũng đạt”. Người dì họ hàng xa – Beauséant là người thầy và cũng là người đỡ đầu của Rastignac. Bà đã dạy cho người học trò mình con đường đạt đến tham vọng một cách hiệu quả, đó là “muốn thành công” thì không nên “vội vàng”. Phải biết tính toán “càng tính toán lạnh lùng, cậu sẽ càng đi đến đích trước. Đánh không thương tiếc cậu sẽ được thiên hạ sợ. Chỉ chấp nhận những người đàn ông và những người đàn bà như những con ngựa đưa thư mà cậu sẽ để nó mệt lử qua mỗi trạm nghỉ tiếp sức thôi, cậu sẽ đến đỉnh cao của dục vọng”. Không chỉ thế, Rastignac còn được Vautrin, tên tù khổ sai giấu mình chỉ dạy “Phải tiêu diệt lẫn nhau như những con nhện cùng trong một cái bình,… phải lao vào những người ấy như một viên đại bác hay phải len lỏi như bệnh dịch hạch. Lương thiện chẳng được việc gì ráo”. Hai nhân vật, hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người xuất thân từ thượng lưu quý tộc cao sang, một người là tên tù khổ sai bí ẩn nhưng cả hai khi nhìn nhận xã hội lại tiến tới cùng một điểm chung. Họ là người từng trải và phải chăng bản thân họ đã từng như Rastignac. Để rồi, họ thốt lên “Hãy đối xử với cuộc đời này như đúng bản chất của nó”. Thấu hiểu được phần nào những lí lẽ đó, Rastignac lao vào xã hội và đã kiểm chứng được những lời dạy đó hoàn toàn đúng. Chàng sinh viên này dường như tuyệt vọng, không muốn tiếp tục dấn thân vào xã hội thượng lưu đó. Ở chàng có sự đấu tranh nội tâm dữ dội. Bởi chàng thấy mình đôi lúc không thích hợp với môi trường này. Chàng sợ sẽ trở nên đáng ghét và xa lạ. Và càng đau đớn hơn khi chàng biết được để có tiền cho chàng tiêu vào những việc đi xe ngựa, đi xem hát với quý bà… làm cho mẹ và dì phải bán tất cả những đồ trang sức, kỉ vật quý giá và thậm chí cầm cố đất đai “Chúng ta đã phải lấy miếng đất nhà ra thế chấp, đảm bảo cho con có được số tiền lớn như vậy”. Và còn đó những đứa em ngây thơ trong trắng luôn hy sinh cho người anh này. Lòng Rastignac đau đớn mỗi khi phải gửi những lá thư mà chàng không hề muốn “Con cần 1200 franc và con cần chúng với bất cứ giá nào”. Khi nhận được tiền và bức thư hồi đáp thì chàng đã khóc “Bất giác những giọt nước mắt trào ra trên đôi gò má chàng trai, chàng đi lại trong phòng với nỗi chua xót dâng trào”. Vì ở con người trẻ tuổi đầy tham vọng này “đã nhận thấy rất rõ sự cao thượng trong trắng của những tâm hồn bị chôn vùi trong sự cô đơn, chàng cũng đã biết được những vất vả mà chàng gây ra cho hai em gái của mình, cũng như những niềm vui của họ do chàng đưa tới; với niềm vui sướng họ sẽ kín đáo trao đổi với nhau về ông anh yêu quý”. Những giọt nước mắt chan hòa ấy phát hiện “trái tim của những cô em gái như những viên kim cương của sự thuần khiết”. Chàng cảm thấy mình xấu hổ và thật tồi tệ không xứng đáng với những tâm hồn thanh cao thuần khiết đó. Với sự dằn vặt này chừng tỏ chàng vẫn chưa hoàn toàn mất nhân cách “Chàng cảm thấy tâm can như bị một ngọn lửa thiêu đốt. Chàng muốn từ bỏ xã hội thượng lưu mà chàng đang đeo đuổi, chàng không muốn nhận số tiền này nữa”. Một bên là những người thân yêu với cuộc sống nghèo khổ và một bên là sự cám dỗ đầy xa hoa, lòng Rastignac giằng xé, đau đớn tột cùng. Dù vậy, Rastignac không thể chống lại sự cám dỗ, tham vọng của chàng là tham vọng tột cùng. Chàng tự nhủ với bản thân “ta sẽ thành công”. Dù biết số tiền đó là tất cả của gia đình, là mồ hôi nước mắt của người thân nhưng tương lai của Rastignac hoàn toàn nằm trong khoản tiền cứu trợ này.

Để đạt được mục đích, Rastignac yêu lần lượt hai con gái lão Goriot. Nhưng thứ tình yêu mà Rastignac dành cho Anastasie là thứ tình yêu choáng ngợp của sắc đẹp và giàu sang. Nhưng đối với Delphine lại là tình yêu nam nữ. Chàng bị hút hồn trước sắc đẹp kiều diễm của bà nam tước “Khi nhìn thấy bà, lúc đi vào tôi đã cảm thấy bị hút về phía bà như thể như lực hút của một khối nam châm. Tôi đã nghĩ thật nhiều về bà nhưng tôi không nghĩ bà đẹp đến thế này”. Bà nam tước Nucingen sẽ là người giúp chàng hoàn thành tham vọng. Mặc dù khi đến với Delphine, Rastignac mang một ý định vụ lợi nhưng dần dần tiếp xúc với nàng, Rastignac thật sự đã yêu. Đối với Delphine thì Rastignac cũng chỉ là kẻ làm cho miệng mỉm cười khi buồn và lòng ấm lên mỗi khi trống vắng. Nhưng cuối cùng nàng cũng bị chàng sinh viên nghèo chinh phục. Chiếm được lòng của một phụ nữ quý tộc xinh đẹp và quý phái, đối với Rastignac đây là bước thành công đầu tiên của cuộc đời chàng. Cả hai người đều cảm thấy hạnh phúc và muốn xây dựng hạnh phúc tương lai. Nếu như không chứng kiến cái chết của lão Goriot thì có lẽ Rastignac và Delphine sẽ có một mái ấm gia đình tuyệt vời và Rastignac cũng không tha hóa nhân cách.

Tính cách của Rastignac có sự giằng xé, mâu thuẫn. Trước việc làm của Anastasie, Rastignac lên tiếng oán trách việc bà bá tước “cầm cố cả cái chết của cha”. Và hôm nay chàng cũng giống bà bá tước, cũng “bóc lột” tiền cha mẹ “Mi có quyền gì nguyền rủa Anastasie… Mi với Anastasie ai hơn ai?”. Dù nhận thức được việc làm đó nhưng chàng không thể cưỡng lại tham vọng. Thậm chí khi Delphine không có ý định đến thăm bố vì nghĩ ông lão giả bệnh. Rastignac cũng không hề lên tiếng la mắng chỉ trích “Chàng đoán trước một cách mơ hồ rằng nàng có thể bỏ mặc cha mình để đi vũ hội và chàng không có đủ khả năng để trở thành một người giảng giải lẽ phải trái, cũng không có lòng can đảm để làm mất lòng nàng: “Nàng không bao giờ tha thứ cho mình vì đã lấy lí do chống lại nàng trong hoàn cảnh này”. Rastignac tự lừa dối bản thân và tìm mọi cách biện hộ cho người yêu bé bỏng “Nàng không biết tình trạng bây giờ của cha mình, nếu nàng đến thăm lão, lão lại sẽ đuổi nàng đến buổi lễ hội”. Rastignac đang yêu nên rất sợ làm phật lòng người yêu. Điều này cũng thật thông cảm với chàng. Chàng sợ làm phật ý “người phụ nữ làm hỗn loạn cuộc sống của chàng, đã làm mờ đi gia đình, đã tịch thu tất cả để mưu cầu sung sướng cho họ”. Tình yêu của hai người xuất phát từ dục vọng thường thấy trong tình yêu “Rastignac và Delphine gặp nhau trong những điều kiện nhất định để gây cho nhau thấy niềm thích thú nhất. Niềm đam mê được chuẩn bị rất tốt của họ đã lớn dần lên do một cái nó giết chết mối tình say đắm, đó là khoái lạc”. Tình yêu của hai người lúc này không phải dựa trên quan hệ mua bán, bởi ở đó có những cung bậc khác nhau của tình yêu.

Giữa lão Goriot và Rastignac có mối quan hệ khắng khít với nhau. Đối với Rastignac, lão Goriot là chiếc cầu nối gần nhất để chàng đến với Delphine. Ngược lại, đối với lão Goriot thì chàng sinh viên là người duy nhất có thể đem Delphine đến với lão. Tình yêu của Rastignac đã làm Delphine dần dần thức tỉnh và nhận ra những hành động sai trái của mình đối với cha. Mặc dù đó chỉ là sự vô tình gây ra cho ông lão. Nếu các con làm lão buồn thì Rastignac lại là người mang đến niềm cho lão. Niềm vui mà chàng sinh viên mang đến cho ông lão không phải những điều gì lớn lao, phi thường mà chỉ đơn giản là kể cho lão nghe những việc về hai con gái. Họ đi đâu, nói những gì, làm những gì và vẫn khỏe mạnh… chỉ đơn giản thế. Nói dối người khác là điều không tốt nhưng có lúc lời nói dối không hề có tội nếu nó không hại ai và ngược lại còn đem đến niềm vui cho người khác thì đôi lúc chúng ta cũng cần phải nói dối. Rastignac có lần đã nói dối lão Goriot vì chàng không muốn làm mất đi nụ cười của ông lão.

–         Lạy chúa ! Vậy thì cậu đã nghe con bé nói gì về tôi?

–         Chẳng có gì cả, Eugène tự nói với chính mình – Cô ấy nói với tôi, chàng trai cao giọng trả lời, rằng cô ấy gửi tới ông một cái hôn thắm thiết.

Rastignac cũng mang những nét tính cách bình thường như bao người khác. Dù biết rằng Rastignac là chàng thanh niên tốt bụng, có trái tim nhân hậu nhưng đôi lúc ở chàng vẫn có sự tính toán. Khi biết lão Goriot là cha của Delphine thì Rastignac càng yêu thương, chăm sóc lão hơn. Vì lão là cha của người tình và cũng là cha của người sẽ đưa chàng vào giới thượng lưu, quý tộc. Không một đồng xu dính túi nhưng Rastignac cùng người bạn Bianchon chăm lo chạy chữa cho lão. Chàng còn cầm cố tất cả tài sản mình có được để làm đám tang. Nói là tài sản chứ chàng sinh viên nghèo lấy đâu ra của quý, chỉ có chiếc đồng hồ mà Delphine tặng “Cậu cầm lấy và mang đi cầm đi… tôi không còn một xu nào cả”. Rastignac chôn cất lão Goriot trong một chiều ảm đạm và tuyệt vọng. Chàng chôn lão Goriot và chôn luôn giọt nước mắt cuối cùng, chôn bao niềm thương niềm uất hận câm phẫn. Chàng khóc cho lão Goriot và khóc cho chính mình. Để tang cho lão Goriot là cũng để tang cho chính mình. Đám tang chôn vùi tất cả, lão Goriot, Rastignac, Anastasie và cả Delphine, tất cả bị chôn vùi dưới lớp đất kia. Sẽ không còn một Rastignac của ngày nào mà chỉ có một Rastignac hoàn toàn mới, một Rastignac “thách thức” với xã hội Paris “bây giờ chỉ còn lại ta và ngươi”. Và hành động đầu tiên thách thức với xã hội đó là “đến ăn tối ở nhà bà Nucingen”. Cụm từ “ta và ngươi” là từ dùng để chỉ hai người đang trong tư thế quyết đấu, một chọi một. Vậy Rastignac sẽ làm thế nào để chiến đấu với xã hội, khi chàng không hề có gì trong tay? Chẳng tiền bạc và địa vị. Đến lúc này, Rastignac mới thật sự thấm thía tường tận những lời dạy của phu nhân Beauséant và Vautrin. Những lời dạy đó hoàn toàn đúng, chàng không còn nghi ngờ hay phân vân suy nghĩ. Nói là thách thức nhưng thật ra đó là sự đầu hàng phục tùng xã hội. Lời tuyên chiến của Rastignac là lời tuyên bố hòa mình vào xã hội đó. Hành động ăn tối ở nhà bà giám đốc ngân hàng là hành động chứng minh Rastignac và xã hội cùng trận tuyến. Chàng đang đối xử với xã hội theo đúng bản chất của nó. Rastignac sẽ thích nghi với hoàn cảnh và điều này dự báo rằng chàng bước lên địa vị cao trong xã hội chỉ trong nay mai. Chính cái chết của lão Goriot và sự bạc bẽo tình người “Hôm nay có đến sáu mươi người chết. Các người muốn chúng tôi phải thương hại những người dân Paris đã chết ư? Lão Goriot đã chết rồi còn tốt cho lão ấy!… mười lăm người khách trọ lại nói chuyện bình thường. Lúc mà Eugène và Bianchon ăn xong, tiếng động của thìa và đĩa, tiếng cười đùa của các câu chuyện, những thái độ khác nhau của những kẻ háu ăn và vô tâm, sự vô tâm của họ đã làm cho Bianchon và Eugène cảm thấy ghê sợ” làm cho Rastignac nhận ra được chân lí sống còn: làm con người phải biết ác và tàn nhẫn. Càng độc ác, càng tàn nhẫn thì càng được xã hội nâng niu. Có thể nói lão Goriot là người thầy thứ ba của Rastignac. Không trực tiếp dạy chàng cách bước vào xã hội thượng lưu nhưng cuộc đời và cái chết của ông lão lại là những lời dạy đắt giá nhất.

Lão Goriot và Rastignac có cuộc đời hoàn toàn đối lập. Nếu Rastignac càng tiến lại gần môi trường mà ban đầu mình phủ nhận thậm chí căm ghét và ghê tởm thì lão Goriot hoàn toàn ngược lại, ông lão ngày càng tránh xa và cự tuyệt hẳn với nó bằng cái chết. Giữa hai nhân vật có sự nối tiếp. Bởi, khi tác phẩm kết thúc cuộc đời lão Goriot khép lại, cuộc chinh phục xã hội thượng lưu của Rastignac mở ra. Nếu lão Giriot được xem là giai đoạn đầu mới phất của chủ nghĩa tư bản thì Rastignac là giai đoạn sau, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến một bước vượt bậc nào đó. Lão Goriot – Rastignac là một cặp đôi mà Balzac đã dụng công thể hiện nhằm phơi bày tất cả bộ mặt của xã hội tư bản mà giai cấp tư sản đã và đang thắng tuyệt đối.

Bằng thủ pháp tái xuất hiện Balzac cho Rastignac xuất hiện đi xuất hiện lại trong hơn 20 tác phẩm. Từ đó người đọc có thể thấy được toàn bộ sự phát triển tính cách của chàng trong sự tác động của hoàn cảnh. Những nét tính cách rõ nhất cũng như giai đoạn thành công nhất của Rastignac thể hiện ở các tác phẩm như “Bảo trợ tài sản”, “Nhà ngân hàng Nucingen”, “Đại biểu thành Acxi”. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi hai mươi năm từ năm 1819 đến năm 1939, từ một chàng sinh viên nghèo kiết xác trở thành nhà ngân hàng rồi đại biểu Hội đồng cấp thành phố. Để được vinh quang này, Rastignac phải đánh đổi hai mươi năm cuộc đời trai trẻ “Cậu sướng thật đấy! Cuối cùng cậu đã lấy được cô gái thừa tự bậc triệu phú Nucingen, mà kể cũng đáng… Hai mươi năm khổ sai mà!”. Hai mươi năm Rastignac là người thật đáng sợ. Dan díu với mẹ vợ, âm mưu đoạt gia tài. Trong “Vỡ mộng” Rastignac là nhân vật phụ, chỉ xuất hiện qua lời kể của nhân vật. Lúc bấy giờ Rastignac trở thành một quý ông thật sự. Khi ấy chàng được các quý bà bao quanh nâng niu, chiều chuộng. Điều này khiến Lucien phải ganh tị và thèm khát được như thế. Hình ảnh Lucien làm cho Rastignac nhớ lại bóng dáng của mình ngày nào. Vẫn là sinh viên nghèo với bao tham vọng cuồng nhiệt gia nhập vào thế giới thượng lưu. Dường như thấy được điều này, Rastignac đã làm một việc bất ngờ. Rastignac bảo chị của Lucien hãy ngăn chặn em trai mình khi Lucien chưa lún sâu vào vũng bùn nhơ. Chàng sợ sẽ có một Rastignac thứ hai, chàng không muốn người đồng hương phải giẫm lên con đường như mình. Dù nhận ra được việc làm của mình nhưng Rastignac không thể quay trở lại, không thể làm gì khác ngoài việc đi tới. Nếu dừng lại Rastignac sẽ có kết cục giống như lão Goriot. Không bao lâu, khoảng năm 1826 đến năm 1836 ở “Ngân hàng Nucingen” Rastignac đã có cổ phần và cùng chồng nhân tình tham gia các việc mờ ám dẫn đến phá sản. Đây là một trong những kế hoạch của Rastignac. Để đạt được mục đích và thành công phải đạp người khác xuống làm giá đỡ nâng mình lên. Đến “Đại biểu thành Acxi” Rastignac xuất hiện đậm nét nhất. Đây là giai đoạn thành công nhất của chàng. Rastignac đắc cử đại biểu trong những vụ tranh cử năm 1939. Lúc này, Rastignac đã là bộ trưởng lần thứ hai và chàng được phong bá tước gần như ngoài ý muốn. Bởi vì lúc ấy bố vợ Rastignac là nguyên lão nước Pháp. Và thế là Rastignac không thể thiếu chân trong hàng ghế nội các. Điều này chứng tỏ con đường tiến thân của Rastignac đang thênh thang mở rộng. Rastignac sẽ tiến xa hơn nữa, tiến xa ngoài dự định của mình.

 

@Tiểu kết

Đề tài về thanh niên tỉnh lẻ nhiều tham vọng được Balzac thể hiện rất nhiều trong “Tấn trò đời”. Nhưng có lẽ hình tượng thành công nhất là chàng sinh viên De Rastignac. Những thanh niên trong “Tấn trò đời” đa số thuộc lớp người trí thức sinh viên. Tuy không trực tiếp lãnh đạo xã hội nhưng tầng lớp trí thức có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển xã hội. Thông qua hình tượng người trí thức, Balzac muốn phơi bày hiện thực xã hội. Xã hội sẽ không thể phát triển, văn minh tiến bộ nếu vẫn còn xuất hiện những trí thức có con đường lầm lạc như thế. Trong “Tấn trò đời” Balzac không hề hô hào đấu tranh chống lại giai cấp tư sản mà chỉ phê phán giai cấp đó nhằm cải tạo xã hội. Balzac cũng giống như Hugo muốn giai cấp tư sản ban bố tình thương cho những con người bất hạnh thấp kém.

3.6 Kí họa một số nhân vật khác tiêu biểu cho hiện thực Paris lúc bấy giờ

              3.6.1 Bà Vauquer – một tiểu tư sản đầy tham vọng và ti tiện

Qua lời giới thiệu của tác giả, bà chủ quán trọ hiện lên với tất cả sự lố bịch và đáng buồn cười như một bức tranh biếm họa “Bà góa xuất hiện với chiếc mũ nồi bằng vải tuyn kì cục trên một vòng tóc giả không được chải chuốt tử tế, bà ta vừa đi vừa kéo lê đôi giầy nhăn nhúm. Gương mặt bà có vẻ già cũ, béo tròn như hạt mít, ở giữa mọc lên một cái mũi khoằm giống như chiếc mỏ của con vẹt, đôi tay nhỏ béo mũm mĩm, thân hình mập mạp như một con chuột trong nhà thờ, chiếc áo nịt ngực đầy ắp và phập phồng; tất cả như hài hòa với căn phòng này, nơi sự bất hạnh đang rò rỉ và sự bóc lột đang ẩn nấp, còn bà Vauquer thì hít thở mùi hôi thối một cách nhiệt tình và không cảm thấy buồn nôn”. Không chỉ dừng lại ở đó, Balzac còn hình dung độc đáo về bà chủ này “Toàn bộ con người bà thể hiện tính chất nhà trọ cũng như ngôi nhà trọ bao hàm hình ảnh con người bà. Địa ngục trần gian sẽ không ổn nếu như không có cai ngục, bạn sẽ không thể nào tưởng tượng ra cảnh này mà không có thứ kia. Tình trạng phì nộn và nhợt nhạt của người phụ nữ nhỏ bé đó là sản phẩm của cuộc sống này giống như bệnh truyền nhiễm là hậu quả của mùi xú uế từ một bệnh viện”. Và “khi bà có mặt thì bức tranh ở đây hoàn tất”. Dù là quán trọ tồi tàn nhưng bà Vauquer vẫn có cái ăn cái mặc, vẫn là người chủ đầy uy quyền. Cũng như bao người khác bà vốn có nhiều tham vọng. Đó là tham vọng tiền tài vật chất tầm thường. Thật ra chính bà cũng từng là nạn nhân của những tham vọng đó. Ở độ tuổi chừng 50 bà Vauquer giống như tất cả những người phụ nữ đã từng đau khổ “Đôi mắt lờ đờ với vẻ vô hại của một người môi giới sẽ phản khán quyết liệt để được trả giá cao hơn”. Có ai biết rằng người phụ nữ này đã từng chịu nhiều bất hạnh. Bà có gia đình như bao người nhưng “ông ta đối xử với bà tồi tệ, chỉ để lại cho bà đôi mắt dành để khóc,…bà hứng chịu tất cả những gì có thể chịu đựng được”. Dù hiện tại bà là một mụ già ti tiện, hám tiền nhưng xét cho cùng bà vẫn là “người phụ nữ tốt bụng như những khách trọ thường nói và bà chẳng có của nả gì khi nghe bà phàn nàn rên rỉ và ho giống như họ”.

Bà Vauquer đại diện cho bộ phận tiểu tư sản có tham vọng ngoi lên hàng ngũ tư sản. Cũng như người phụ nữ khác, bà cũng có khát vọng tình yêu bình thường. Từ khi gặp lão Goriot, lòng bà “như đang bị thiêu đốt, giống như một con gà bọc trong lá mỡ dưới làn lửa thiêu cháy, bởi lòng ham muốn rời bỏ tấm vải liệm nhà Vauquer để tái sanh thành người nhà Goriot”. Bà góa chồng, lão Goriot góa vợ, họ đến với nhau là việc bình thường. Để rồi, hàng ngày bà Vauquer lúc nào cũng gây sự chú ý cho lão Goriot. Khao khát “trở thành một nhà quý tộc trong khu phố” cứ nung nấu tim gan bà. Lúc nào bà cũng tự hào cho rằng “mình rất xứng đáng với người đàn ông ấy”.

Thế nhưng, bà Vauquer đặt tình cảm mình không đúng chỗ, đã đặt nhằm đối tượng. Lão Goriot vốn chung thủy, từ ngày vợ mất lão đặt hết tình cảm vào hai đứa con gái của mình. Trước sự từ chối của lão Goriot, bà Vauquer cũng chẳng hề trả thù hay một việc làm tội lỗi. Bà làm công việc mai mối, giới thiệu lão Goriot cho bà bá tước vùng Ambermesnil 36 tuổi, cũng là góa phụ như bà. Thứ nhất, một mặt nhờ bà bá tước này nói tốt về mình. Thứ hai, là để mong kiếm chác chút lợi nhuận hoa hồng. Việc tính toán của bà giống như những người tiểu tư sản khác. Thế rồi, bà tử tước cũng bất lực trước lão Goriot “Bạn thân mến, bà ta nói với mình, bạn sẽ chẳng kiếm chác được gì từ ông ta đâu, ông ta thật là nực cười, đó là kẻ chẳng có chút tình cảm nào cả, thật tồi tệ, ngu ngốc, ông ta chỉ gây cho bạn những phiền toái thôi”. Vậy là phi vụ của bà Vauquer thất bại thảm hại. Không chỉ thế, bà còn nhận cú đòn đau đớn, khi “ngày hôm sau bà bá tước đi mà quên trả tiền sáu tháng trọ, và để lại một mớ quần áo cũ đáng giá năm franc. Mặc dù đã cố gắng tìm kiếm nhưng bà Vauquer chẳng thể tìm thấy một thông tin nào về bà bá tước Ambermesnil ở đất Paris cả”. Bà Vauquer tự làm cho bản thân mình phải chịu thiệt chỉ vì thói tham lam, ti tiện “Có một vài kẻ có lẽ thấy không kiếm chác được gì ở những người gần gũi thân thiết, lại bị người thân phê phán nghiêm khắc một cách đích đáng; những kẻ đó lại cảm thấy thèm muốn khát khao những lời phỉnh nịnh cũng như họ thèm tỏ ra những đức tính không phải của họ, cho nên họ hy vọng ăn trộm được lòng quý mến hoặc tình cảm của những người xa lạ cho dù đến một ngày có bị mất nốt những tình cảm đó cũng cam lòng. Có những kẻ vốn đầu óc con buôn chẳng làm điều gì tốt đẹp cho bạn bè người thân như trách nhiệm họ phải làm; trái lại họ giúp đỡ những người xa lạ để nhận được cái lợi là sĩ diện! Thế là thành ra “xa thương gần thường!” Bà Vauquer có được cả hai điều ấy: ti tiện, giảo trá, và khả ố”. Trong hoàn cảnh này bà Vauquer thật đáng thương hại. Tham vọng của bà không đáng lên án vì bà chưa gây ra tội ác, mà chỉ có hành động lầm lạc xuất phát từ bản chất ti tiện, tham lam. Chỉ có chi tiết bà ta tính toán với cả người chết là đáng giận. Dù được Rastignac trả tiền ga trải giường dành để liệm lão Goriot nhưng bà ta lại bảo Sylvie “Cô mang cất những tấm ga đó lại đi, lấy cái số 7. Vì chúa, nó vẫn còn khá tốt với người sắp chết”. Tại sao bà lại ti tiện đến thế? Điều này cũng bình thường và dễ hiểu. Lúc trước, còn yêu lão Goriot và chưa bị lão từ chối thì bà xem trọng và dành cho lão một tình cảm đặc biệt nhưng sau khi lão Goriot từ chối tình cảm thì bà chủ quán quay trở lại bóc lột người khách. Sự thay đổi về tính cách của bà cũng bình thường như bao người trong xã hội.

@ Tiểu kết

Bằng ngòi bút tài tình của Balzac, bức chân dung mụ chủ quán hiện lên với tất cả đường nét và màu sắc. Qua đó, làm cho người đọc có thái độ giễu cợt và xem thường bà, dù biết những phẩm chất của bà tiêu biểu cho những loại người tiểu tư sản, nhỏ nhen, hám lợi, nhiều tham vọng.

3.6.2 Hai con gái lão Goriot – Nàng Rêgan và Gônơrin của thế kỉ XIX

Vẫn tiếp nối đề tài tình cha con của nhà soạn kịch Shakespeare nhưng Balzac có sự sáng tạo độc đáo và vượt bậc. Anastasie và Delphine không độc và tàn nhẫn như hai nàng công chúa thời Phục hưng, Rêgan và Gônơrin, mà ở họ là sự lầm lạc dẫn đến việc bỏ rơi người cha.

Hai nàng công chúa của thế kỉ XIX này cũng được Balzac dành cho một số tình cảm. Anastasie và Delphine quen sống trong nhung lụa giàu sang có kẻ hầu người hạ, kẻ đưa người rước. Hai nàng luôn là sự tự hào của lão Goriot. Để cho con gái mình mãi mãi hạnh phúc lão đã tìm cho các nàng những chàng rể quý tộc xứng tầm. Theo lão cuộc sống giàu sang và địa vị của quý tộc là niềm hạnh phúc nhất. Anastasie được “bá tước Restaud đưa cô rời khỏi nhà bố đẻ mình để bước chân lên những nấc thang quyền lực”…. Delphine thì trở thành bà giám đốc ngân hàng. Như vậy đã thỏa chí nguyện của lão Goriot. Thế nhưng, chính lúc lão bắt đầu say sưa tận hưởng hương vị của quý tộc thì gia đình lão đang có nguy cơ rạn nứt. Trong xã hội Pháp lúc bấy giờ, giới quý tộc rất coi thường giai cấp tư sản. Cần phân biệt rõ tư sản và quý tộc. Giai cấp quý tộc là giai cấp mẫu mực, là giai cấp tạo ra mọi giá trị thẩm mĩ. Nói đến quý tộc là nói đến sự sang trọng. Giai cấp tư sản không tạo ra giá trị thẩm mĩ. Họ chỉ có tiền. Chính vì thế những người quý tộc rất coi thường những người tư sản. Hai con rể lão Goriot không hề xem lão ra gì. Dù không lên tiếng chửi mắng xua đuổi nhưng chúng có những thái độ không thiện cảm và ưu ái với lão. Chúng cảm thấy ông lão chẳng ra gì, thấp hèn như chính giai cấp của lão.  

Anastasie và Delphine từ khi về nhà chồng cũng nhiễm đủ mùi quý tộc. Họ bất đầu ngại ngùng mất tự nhiên khi có mặt cha trong phòng tiếp khách. Khi không có mặt người khác các cô mới gọi ông là bố và yêu thương ông. Sự ra đi của lão là tất yếu. Hai cô con gái lão Goriot đã vô tình làm trái tim người cha bị tổn thương. Họ ngại ngùng vì khi mình đi xe ngựa có huy hiệu còn lão thì chỉ đi xe ngựa thuê.

Cuộc sống quý tộc xa hoa biến Anastasie và Delphine thành quý tộc sa đọa. Họ tiêu sài hoang phí thậm chí mắc nợ vì nhân tình bên ngoài. Cả hai cô không dám nói với chồng dù một lời và thay phiên nhau đến khóc than với bố. Hai nàng cho rằng đến xin tiền bố là chuyện bình thường vì hai người chỉ còn lão là người thân duy nhất. Thế nhưng hai cô không biết mình đang làm tổn thương ông bố. Con xin tiền cha là chuyện bình thường trong xã hội. Balzac dùng ngòi bút của mình để ghi lại những chuyện bình thường nhưng bên trong sự việc bình thường đó lại có sự vận động hủy diệt con người. Anastasie và Delphine là trường hợp như vậy. Họ đã bị tư sản hóa nên dẫn đến những bi kịch tình cha con. Cả hai đều do hoàn cảnh, cuộc sống lôi cuốn chứ không thật sự tàn nhẫn với bố.

Càng về cuối tác phẩm hai nàng dần dần nhận thấy việc làm của mình. Khi Delphine yêu Rastignac, nàng mới thật sự nhận thức được việc làm của mình. Thì ra từ bấy lâu nay nàng sống trong nhung lụa thì cha nàng lại phải đối diện với từng cái ăn, nàng cứ vô tư gây ra vết thương trong lòng ông lão. Để rồi, Delphine chợt nhận ra chân lí “Tình cảm yêu thương của gia đình là bền chặt nhất. Gia đình luôn mang đến những tình cảm yêu thương mặn mà”. Gia đình, người thân không bao giờ từ bỏ chúng ta, dù chúng ta có lầm lỗi, có xấu xa, thậm chí bị xã hội tẩy chay căm ghét. Khi đó gia đình sẽ là nơi thân yêu nhất bảo vệ chúng ta.

Lúc người cha hấp hối, trên sự thật là hai cô gái không đến. Thật ra hai nàng không đến là có lí do riêng. Anastasie vì nhân tình Maxime thiếu nợ đến 12000 franc, bị chồng phát hiện và thế là không thể đi thăm bố. Rastignac đến nhà bà tước Restaud thì thấy “bà ta đang nằm dài trên giường khóc sướt mướt như thể không muốn sống nữa”. Bà bá tước bị cơn khủng hoảng trầm trọng, mắt sợ hãi nhìn chồng. Bà nhờ Rastignac bày tỏ tình cảm và tấm lòng của mình đối với cha “Hãy nói với cha tôi rằng nếu ông ấy biết được tình cảnh tôi bây giờ ông sẽ tha thứ cho tôi”. Bà bá tước không còn tự do đi thăm cha. Khi hay tin “cha nàng không còn gì để có thể mua nỗi một tấm vải liệm mà ông sẽ mặc tối nay” Delphine hoảng hốt “Tôi sẽ đến đó ngay, đến ngay”. Nhưng cũng tại những tên rể quý tộc của lão, chúng tàn nhẫn đến tột cùng “Thưa cậu Eugène đã xảy ra một trận cãi vã kịch liệt giữa ông bà chủ tôi vì số tiền mà người phụ nữ tội nghiệp ấy đã lấy cho cha mình. Bà chủ ngất đi…luôn miệng kêu “cha tôi sẽ chết, tôi muốn gặp cha tôi. Đấy là những tiếng kêu thét xé lòng”. Cả hai nàng đều đã hối hận nhận ra được những việc làm của mình nhưng chồng họ lại không cho phép. Họ là những tên quý tộc độc ác, tàn nhẫn mất hết tính người.

Có lẽ tình cha con đã chiến thắng nỗi sợ hãi. Anastasie đã lén chồng đến quán trọ Vauquer nhưng đã quá muộn “Bà bá tước bất ngờ xuất hiện đưa mắt nhìn cái giường của người chết, lờ mờ dưới ánh sáng yếu ớt của một ngọn nến duy nhất và bật khóc khi nhận thấy trên khuôn mặt của cha bà vẫn còn đọng lại những cảm giác run rẩy cuối cùng của sự sống”. Bên cạnh thi hài cha, bà bá tước khóc thảm thiết và tự trách bản thân mình “Cha ơi! Tha thứ cho con. Cha đã bảo là tiếng nói của con có thể gọi cha từ dưới mồ trở về được cơ mà! Cha sống lại đi, chỉ một lát thôi để cầu phúc cho đứa con gái đang ăn năn hối lỗi của cha”. Bà tử tước thấy mình là đứa con bất hiếu và tồi tệ nhất vì “đã phản bội người yêu tôi hết mực” đã “không quan tâm đến cha” và làm cho “cha chán ghét”. Trong khi tất cả mọi người quay lưng với bà, nào là chồng và nhân tình thì chỉ có lão Goriot yêu thương bà “Tất cả mọi người đều chán ghét con, chỉ có cha là yêu con”. Những lời đau đớn đó làm cho người nghe phải đau xé lòng. Ăn năn, hối lỗi dường như đã quá muộn màng. Lão Goriot vẫn nằm yên trong lòng đáy sâu kia với niềm uất ức. Nhưng thật lòng hai nàng đã hối hận và tự trách bản thân như thế là điều đáng mừng. E rằng cả hai nàng cứ chạy theo những ảo tưởng phù hoa mà tăm tối không nhận ra lối về.

@Tiểu kết

Có lẽ khi gấp lại trang sách sẽ có rất nhiều người khinh bỉ Anastasie và Delphine. Khinh bỉ vì hai nàng chỉ nghĩ đến cảm xúc của riêng mình mà chưa bao giờ nghĩ đến cha. Khinh bỉ vì họ vô tâm làm cho ông lão phải chết trong sự cô quạnh. Thế nhưng, cũng sẽ có người thông cảm cho hai nàng. Những hành động mà các nàng gây ra dù làm tổn thương người cha già nhưng đó không phải là sự cố ý của một tính cách độc ác. Suy cho cùng cả hai nàng đều là nạn nhân của xã hội.

3.6.3 Vautrin – Tên tù vượt ngục “săn người” chuyên nghiệp

Nếu Rastignac, lão Goriot đại diện cho thế lực ánh sáng thì trong tác phẩm này Vautrin là đại diện của thế lực bóng tối. Và chính nhân vật này có sự tác động mạnh mẽ đến cuộc đời của chàng sinh viên Rastignac. Đồng thời Vautrin là một trong những nhân vật được Balzac tái xuất hiện ở các tác phẩm khác trong Tấn trò đời. Đây là nhân vật có vai trò khá quan trọng trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Rastignac.

Trong tiểu thuyết, Vautrin là hàng xóm của Rastignac nơi quán trọ. Nơi đây hắn đã tiêm nhiễm vào tâm trí của Rastignac bao điều đen tối. Hắn lên mặt vì là người từng trải, chỉ dẫn cho Rastignac mọi thứ về xã hội thượng lưu với những triết thuyết mà hắn thu nhặt bằng kinh nghiệm. Thế nhưng những vấn đề Vautrin dạy Rastignac không đẫm máu cũng là rơi nước mắt. Chính điều này đôi lúc làm Rastignac căm ghét và xa lánh hắn. Nhưng nhiều lúc Rastignac cũng có chút lung lay trước những lời lẽ của hắn.

Thật ra Vautrin là tên tù khổ sai đã vượt ngục. Đến với quán trọ Vauquer, hắn ta thay tên đổi họ và che đậy cả về ngoại hình. Hắn là tên tù khét tiếng cầm đầu băng nhóm “mười nghìn tên cướp”. Đó là tổ chức “của những tên trộm có đẳng cấp cao và của những kẻ chuyên hoạt động trên quy mô lớn”. Tổ chức nguy hiểm này rất thông minh và vô cùng xảo nguyệt “Tổ chức này gồm toàn những tên kì cục nhất trong số những tên trộm nguy hiểm. Bọn này nắm rõ luật nên chúng chẳng bao giờ bị kết án tử hình khi bị bắt cả”. Tất cả mẹo cướp này do Collin – Vautrin – kẻ đào tẩu “luôn đem lại niềm tin về những lời khuyên bảo quý giá cho bọn chúng”. Và thế là dưới sự cầm đầu của Collin băng nhóm này “dùng tiền bạc và cả bản chất ranh mãnh của chúng để mở rộng thêm, gây tội ác tày trời và hoạt động như kiểu nhà binh nhưng với mục đích xấu xa đầy hận thù với xã hội”. Chỉ cần tóm được “kẻ đào tẩu” là bới tróc được gốc rễ cái mầm mống nguy hại này. Gã vượt ngục đó vẫn ung dung sống một cách bình thường như bao người trong quán trọ. Hắn đổi tên thành Vautrin với bộ tóc hoàn toàn khác “Bộ tóc của bác ta bám chặt gớm. À! Thì ra nó được dán keo, bác ta đeo tóc giả vì tóc thật của bác đỏ quạch đây này”. Không chỉ ngoại hình mà tính cách hắn cũng không hề biểu lộ rõ một tay sát nhân. Có thể nói, hắn ẩn nấp nơi quán trọ một mặt tránh tai mắt mật thám và mặt khác hắn như một con sói đang nhe sẵn móng vuốt chờ đợi vồ lấy con mồi. Và món săn ngon nhất của hắn là Rastignac, chàng sinh viên non nớt với bao tham vọng cuồng nhiệt.

Vautrin là kẻ biết lấy lòng mọi người, hầu như đa số mọi người trong quán trọ cảm thấy dễ chịu và yêu thích đối với sự hào phóng của hắn. Tuy nhiên trong số đó vẫn có người không thích thậm chí muốn tránh xa hắn, Rastignac là một trong số đó. Bởi ánh mắt hắn “dường như đi sâu vào tận cùng mọi vấn đề, mọi ý thức và mọi tình cảm”. Hắn có một ánh mắt có thể làm người ta khiếp sợ nhưng đôi lúc làm người đối diện cảm thấy thương yêu trìu mến. Đây là chiến thuật của một “kẻ đào tẩu đã từng khoác chiếc áo một người ngay thẳng… từng giao du với giới tư sản Paris và ở trong một nhà trọ bình dân với vẻ bề ngoài: Rất tử tế”.

Mọi người trong quán trọ không một ai biết rõ về hắn. Họ chỉ biết được loáng thoáng vài điều. Hắn là một người đàn ông 40 tuổi được điểm tô bởi chòm râu má vẽ sơn. Một người được dân chúng nhận xét “láu lỉnh nổi tiếng”. Vautrin có “đôi vai rộng, thân trên nở nang, các cơ bắp nổi rõ, đôi bàn tay dài, vuông và nổi bật các ngón bởi những túm lông rậm rạp với một màu hung dữ dội”. Gương mặt hắn có nhiều nếp nhăn, hiện lên “dấu hiệu của một sự khắc khổ trái ngược với phong cách mềm mỏng hòa nhã của ông ta”. Qua cách miêu tả đó người đọc có thể hình dung ra một điều rằng: có lẽ Vautrin là một kẻ từng trải qua nhiều đau đớn về thể xác. Thế nhưng hắn ta là người nhanh nhẹn và luôn tươi cười. Điều này làm cho mọi người trong quán trọ rất thích. Họ càng nể phục người hàng xóm này với tài hiểu biết rộng “Nếu như một ổ khóa nào đó bị hỏng, ông ta lập tức tháo nó ra, lắp ghép, tra dầu, giũa, ráp lại, vừa làm vừa nói “Cái này tôi biết”. Vả chăng ông ta biết tất cả, những con tàu, biển cả, nước Pháp, nước ngoài, các vụ làm ăn, những con người, những sự kiện, các luật lệ, dinh thự, nhà trọ và cả nhà tù”. Ở con người đó hiện lên sự lạnh lùng khó hiểu. Vautrin là một tay lão luyện “Ông ta biết hoặc đoán biết được công việc của những người ở xung quanh mình trong khi đó thì không gì có thể xâm nhập vào ý nghĩ cũng như công việc của ông ta”. Gã Vautrin hiện lên là một tên không tốt lành. Bản chất của Vautrin càng hiện rõ qua những lời hắn dạy Rastignac “Trước tiên cậu phải xơi hết cái bộ Luật đã… cậu cứ việc cắn thằng trộm, bênh vực thằng giàu và chém đầu những người tốt”. Vautrin là tay săn người chuyên nghiệp nhưng không có nghĩa gặp ai hắn cũng săn. Gã luôn có sự lựa chọn, tính toán kĩ càng. Hắn ta chỉ săn những kẻ trí thức, thông minh, tử tế có khả năng thực hiện những phi vụ lớn của hắn. Rastignac là miếng mồi béo bở đối với Vautrin. Vautrin là người từng trải qua cái thời của Rastignac và đã từng có tham vọng như chàng sinh viên này nên việc thu phục Rastignac đối với tay kinh nghiệm như hắn là chuyện không khó khăn. Hằng ngày Vautrin đều tung vào đầu của Rastignac không phải cách làm giàu nhanh chóng thì cũng là con đường gần nhất để đi đến thành công. Vautrin chỉ cho Rastignac thấy được toàn bộ xã hội Paris “Cậu quá trẻ để hiểu rõ Paris. Sau này cậu sẽ hiểu được đây là nơi gặp gỡ của những con người đầy dục vọng”. Và Vautrin còn định nghĩa rõ ràng về loại con người dục vọng “Những kẻ đó thường có một ý định nào đó nhưng lại không biết thực hiện nó như thế nào. Họ chỉ khát một thứ nước duy nhất được lấy từ một nguồn nước nhất định mà thường lại là nước tù đọng: Để uống được thứ nước đó, họ bán vợ bán con bán luôn cả tâm hồn họ cho quỷ dữ. Đối với kẻ này thì nguồn nước đó là cờ bạc, là thị trường chứng khoán, là bộ sưu tập tranh hoặc côn trùng, âm nhạc, còn với kẻ khác lại là một phụ nữ biết làm các kiểu loại bánh kẹo”. Những lời nói của Vautrin rất chính xác với xã hội. Hắn ta có cách nhìn nhận xã hội tư sản thật sắc sảo. Hắn bất mãn với xã hội, hắn căm phẫn với giới tư sản, quý tộc. Phải chăng Vautrin đã từng sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong chính xã hội đó. Bốn mươi năm Vautrin lăn lộn trong chiến lược làm giàu độc đáo “Để làm giàu, vấn đề là phải đánh những quả lớn; nói một cách khác là lừa đảo. Nếu như trong hàng trăm nghề muốn làm, ngươi gặp mười đàn ông chớp nhoáng trở nên giàu có thì cả mười tên đều bị công chúng gọi là những tên kẻ cắp. Hãy rút ra bài học học cho mình đi, đời là vậy! Điều đó chẳng đẹp hơn gì cái bếp bẩn bốc mùi, nếu đôi bàn tay có sự nhơ bẩn bởi sự ăn vụng thì phải biết rửa sạch khi xong việc. Cái đó là một đạo lí trong thời kì hiện nay”. Nếu là một người tốt thì Vautrin sẽ không thốt lên những lời như vậy. Hắn ta đang làm tê liệt đầu óc của chàng sinh viên nhằm mục đích lôi kéo chàng về phía mình, làm tay sai cho những việc làm xấu xa. Vautrin đánh đòn tâm lí mạnh vào Rastignac vì hắn hiểu rõ về chàng “Còn ngươi, ngươi có tham vọng, ngươi có gia đình nhà Beauséant làm đồng minh mà vẫn phải đi bộ, ngươi muốn một gia sản kếch sù nhưng lại chẳng có lấy một xu. Ngươi thường ăn những món ở quán này nhưng lại thích những buổi tối xa hoa ở Saint-Germain, ngươi ngủ trên chiếc giường tồi tàn thế mà lại muốn có cả tòa nhà sang trọng. Cậu bé của tôi có quá nhiều tham vọng đấy nhưng ta cũng hiểu được”. Đứng trước một người quá hiểu về mình như Vautrin, Rastignac có cảm giác khó chịu. Làm sao không có cảm giác đó khi có kẻ nhìn thấu tim gan của mình. Thêm vào đó là những lời lẽ không trong sáng làm cho chàng càng muốn tránh xa hắn. Thế nhưng, Rastignac đôi lúc bị ám ảnh bởi những lời ma quái đó. Vì khi bước vào thế giới thượng lưu, chàng nhận thấy những lời dạy của Vautrin không phải hoàn toàn sai. Nhưng lúc này chàng vẫn chưa hoàn toàn tha hóa, vẫn còn tình người.

Không chỉ thế, tên tù khổ sai còn tiêm vào Rastignac những định nghĩa kì quái về xã hội  Paris, đó là “một khu rừng của Tân thế giới, nơi trú ngụ của hai mươi loài của các bộ tộc hoang dã, người Illinois, người Huons, sống nhờ vào các chiến lợi phẩm từ các cuộc chiến đấu với các bộ lạc khác, cậu là một tay săn bạc triệu. Để lấy được nó, cậu sử dụng bẫy, ống sáo có lưỡi gà, còi nhử. Có nhiều cách để săn: kẻ này săn của hồi môn, kẻ khác lại săn các loại hối phiếu có giá trị thanh toán; lại có kẻ câu tư tưởng của người khác hoặc ngược lại tự bán những gì vốn có”. Và sau những cuộc săn đó “những kẻ nào trở về với cái túi đầy tiền sẽ được xã hội thượng lưu chào mừng, cổ vũ và đón nhận”. Thông qua lời nhận xét của Vautrin, Balzac đã phơi bày tất cả hiện thực của Paris thế kỉ XIX. Đó là xã hội “người săn người”. Một xã hội hiện thực rất bình thường nhưng bên trong có sự vận động và biến đổi không ngừng. Xã hội mà tiền tài vượt lên trên đạo đức, thẩm mĩ. Những nhà triệu phú bỉ ổi sẽ được “Paris chìa tay đón nhận, sẽ ăn tối và cụng ly để chúc mừng những chiến công mà hắn đạt được”.

Dù Rastignac là con mồi của mình nhưng Vautrin rất khâm phục và dành một tình cảm đặc biệt cho chàng. Có lẽ, đây là con mồi cừ khôi nhất, béo bở nhất mà từ trước đến nay hắn gặp. Một chàng trai lịch lãm, có nhân cách, có chí hướng và tham vọng tột cùng. Thế nhưng, thứ tình cảm của Vautrin không hề mang lại điều tốt đẹp cho Rastignac. Với lòng tốt mà hắn cho là đấng cứu tinh đã biến Rastignac thành kẻ đồng phạm. Đây là bước đầu trong kế hoạch chinh phục của hắn ta “Tôi giống Don Quichotte. Nếu Chúa bỗng nhiên mang đứa con trai duy nhất của lão ta thì lão Taillefer sẽ dành mọi của cải cho đứa con gái… Victorine dịu dàng và tốt bụng… Cô ta có cảm tình với cậu và cậu sẽ lấy cô ấy. Tôi, tôi sẽ đảm nhiệm vai trò của một thiên sứ, tôi sẽ mang đến những điều tốt lành của Chúa”. Điều tốt lành của gã là dùng tay chân của mình – những người giống như Rastignac, từng là đối tượng trong chuyến săn của hắn; tạo ra cuộc thách đấu với ý đồ đen tối. Trong chuyến săn đó để đạt được con mồi, gã bất chấp tất cả, giết luôn cả anh trai cùng cha của Victorine “Frédéric đã đánh nhau tay đôi, anh ta đã nhận được một nhát kiếm trên trán, các bác sĩ phải chịu bó tay về vết thương đó”. Để được mục đích hắn không trừ một thủ đoạn. Mạng người mà Vautrin xem như cỏ rác, như một con kiến. Dù không chính tay giết người nhưng hắn là tên chủ mưu đầu sỏ. Hắn không mang tội giết người ngược lại còn được tiếng ông mai tốt. Điều hắn cho là tốt đẹp nhưng đối với người khác lại là máu và nước mắt.

Người đọc có thể thấy Vautrin là người thầy thứ hai của Rastignac sau phu nhân Beauséant. Người thầy luôn mong muốn Rastignac theo con đường tội lỗi. Bên cạnh sự xảo trá, quỷ quyệt, nham hiểm, cáo già thì Vautrin vẫn có những nét tính cách gan dạ và cứng cỏi. Dù có điều kiện trốn nhưng hắn không làm vậy, bởi “gã cho rằng làm vậy là hèn”. Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Tên tù khổ sai hiện nguyên hình với bộ mặt dữ tợn “Với mái tóc cắt ngắn màu đỏ gạch cùng với tính cách dữ dội, khiến đầu hắn trông có vẻ như nổi bật hẳn lên như ngọn đuốc được thắp sáng. Mọi người giờ mới hiểu về quá khứ của ông ta, hiện tại của ông ta và cả tương lai của ông ta nữa”. Dù bị bắt nhưng Vautrin không hề khiếp sợ “Tôi là Jacquers Collin, biệt danh kẻ đào tẩu, đã bị kết án hai mươi năm tù; và tôi vừa nhận ra rằng tôi không xứng đáng với biệt danh của tôi”. Bị xiềng xích nhưng Vautrin vẫn không quên Rastignac, vẫn dành cho chàng sự ưu ái “Trong trường hợp gặp bất hạnh, hãy nói với tôi điều đó. Người hoặc tiền, tôi có thể bố trí được tất cả”. Đây là sự thỏa hiệp, gieo kèo sau khi hai bên đã thương lượng và đồng ý. Dù Rastignac không nói nhưng phải chăng chàng đã ngầm thỏa hiệp với Vautrin. Qua cách nói của Vautrin, người đọc có thể nhận thấy hắn ta là tên tù khổ sai tài ba và ghê sợ.

Từ hình tượng tù khổ sai Vautrin, chúng ta có thể liên tưởng đến ngay Jean Valjean trong “Những người khốn khổ” của Hugo. Cả hai đều là tù khổ sai vượt ngục. Nhưng nếu Jean Valjean được mọi người yêu quý thì Vautrin là kẻ bị mọi người căm ghét. Giữa hai người này có sự khác biệt về tính cách. Một người đại diện cho tình thương, lương thiện; một người tiêu biểu cho hạng người xấu xa, độc ác. Sau những hành hạ dã man tàn khốc của chế độ nhà tù, Jean Valjean vẫn là người hiền lành tốt bụng. Còn Vautrin thì ngược lại, y ta trả thù đời. Thiết nghĩ, đây là vấn đề phân biệt được lãng mạn và hiện thực. Hugo là nhà lãng mạn nên hình tượng của ông mang màu sắc lãng mạn, tốt đẹp từ đầu đến cuối. Còn Balzac là nhà văn hiện thực, nên ông luôn tuân thủ quy luật của hiện thực. Vautrin từ tù khổ sai trở về vẫn độc ác và tàn nhẫn. Thậm chí mức độ càng tăng. Hình tượng này làm ta nhớ đến Chí Phèo của Nam Cao. Vẫn là nạn nhân của chế độ nhà tù khắc nghiệt.

@Tiểu kết

Như Rastignac, Vautrin cũng là nhân vật tái xuất hiện. Nhân vật này đeo đẳng Rastignac đến khi chàng sinh viên này thành tay sai của hắn. Và không chỉ dừng lại ở đó, hắn ta còn săn tiếp những chàng thanh niên tỉnh lẻ đầy tham vọng như Rastignac. Đó là Lucien trong “Vỡ mộng”, Vautrin xuất hiện dưới áo khoác của một vị linh mục. Tóm lại qua ngòi bút của Balzac, Vautrin hiện lên khá sinh động, từ ngoại hình đến tính cách nhân vật đều hiện lên rất chân thực và sống động. Vautrin là sản phẩm hoàn hảo của xã hội tư sản, là hiện thân của những kẻ láu lỉnh và cơ hội, những kẻ xuất hiện đầy trong xã hội Pháp thế kỉ XIX.

Balzac và Hugo là những nhà phản biện mạnh mẽ đối với chủ nghĩa tư bản phương Tây thế kỉ XIX. Và đến thế kỉ XX, giai cấp tư sản đã dần dần tiếp thu. Tức là họ đang khắc phục những nhược điểm của xã hội tư sản, họ đang cố gắng thay đổi và cải thiện mình.

   3.6.4 Giới thưng lưu, quý tộc

Nếu quán trọ Vauquer nghèo nàn đến khiếp sợ thì những dinh thự của giới thượng lưu quý tộc sang trọng và rực rỡ đến choáng ngợp “Cánh cửa kính được mở ra và chàng trông thấy bọn gia nhân nghiêm trang như những con lừa đang được chải lông… những nét huyền diệu và thanh lịch của ngôi nhà mà nó phản ánh linh hồn và phong thái của những người đàn bà quý tộc”. Đó là những choáng ngợp đầu tiên của Rastignac đến dinh thự bà Beauséant. Không chỉ thế, Rastignac còn đi trên “chiếc cầu thang lớn trang trí đầy hoa, tay vịn bóng loáng, nền trải thảm đỏ dẫn tới phòng bà phu nhân Beauséant”. Cuộc sống nơi đây như một cung cấm của các bậc vua chúa. Bà tử tước này có mối quan hệ tình cảm với quý ông giàu có và nổi tiếng Bồ Đào Nha, ngài hầu tước Ajuda Pinto. Đối với bà tử tước đây là mối tình trong trắng và gắn bó sâu sắc, không hề chấp nhận kẻ thứ ba. Thật ra bà có gia đình hẳn hoi nhưng nó không hạnh phúc. Chồng bà là một “kẻ chán ngắt không còn niềm vui nào khác hơn là những thú vui rẻ tiền; thực ra ông là một tên phát xít của đế chế Louis 18 và của công tước Escars”.

Người phụ nữ thượng lưu này là người đỡ đầu, người thầy đầu tiên của Rastignac. Bà là quý tộc có tình người, biết căm phẫn trước những việc làm không tốt. Bà tử tước từng lên tiếng khinh bỉ việc làm của Anastasie và Delphine và ghê tởm cả xã hội “Con người thật bẩn thỉu”, “thế gian này là một vũng bùn, chúng ta hãy cố gắng giữ lại những gì gọi là thanh tao”. Biết nhìn nhận cái xấu phê phán cái xấu bà Beauséant hiện lên với vẻ “đẹp” khó tả “Lúc này, bà thật đẹp, bà bạn thân mến của tôi ạ. Bà có những sắc thái đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy”. Đẹp ở đây có ý nghĩa cao hơn sự nhìn thấy. Đó là vẻ đẹp ẩn sâu bên trong tâm hồn của bà. Đối với Rastignac bà tử tước luôn có thái độ hòa nhã gần gũi và hết lòng giúp đỡ “Bà Beauséant nhìn chàng sinh viên với ánh mắt chứa chan tình cảm chỉ có ở những tâm hồn cao thượng’’.

Dù ở hai đẳng cấp khác nhau nhưng phu nhân Beauséant và Vautrin lại có cùng một cách nhìn về xã hội Paris “Cậu Rastignac hãy đối xử với đời này đúng với bản chất

 của nó”. Đó là xã hội mà “cậu sẽ nhìn thấy sự hư hỏng của người đàn bà nó sâu đến mức nào. Rồi cậu sẽ cảm thấy khinh bỉ đến độ nào trước tính sĩ diện kiêu căng đến khốn khổ của bọn đàn ông”. Cái xã hội mà bấy lâu bà vẫn thơ ngây cho là nó tốt đẹp nhưng đến giờ phút này bà tử tước đã nhận ra được bộ mặt thật sự của nó. Để rồi, bà thốt lên đau đớn “Bây giờ thì tôi biết tất cả”. Bà tử tước dạy cho chàng sinh viên chiến thuật để đứng vững trong giới thượng lưu và cả xã hội Pháp: phải tính toán lạnh lùng và “càng tính toán lạnh lùng, cậu sẽ càng đến đích trước. Đánh không thương tiếc, cậu sẽ được thiên hạ sợ. Chỉ chấp nhận những người đàn ông và những người đàn bà như những con ngựa đưa thư mà cậu sẽ để mặc cho nó mệt lử qua mỗi trạm nghĩ tiếp sức thôi, cậu sẽ đến đỉnh cao của dục vọng”. Qua lời dạy của bà tử tước, chứng tỏ bà cũng từng là nạn nhân của xã hội, là nạn nhân của những con người mà bà đặt tất cả niềm yêu thương và tin cậy. Bà tử tước học được bài học đau đớn và san sẻ cùng Rastignac “Nhưng nếu cậu có tình cảm thật sự, hãy giấu nó đi như một tài sản, đừng bao giờ để tài sản đó bị nghi ngờ, anh bạn sẽ mất tất cả đấy. Cậu sẽ không còn là kẻ tàn nhẫn nữa nếu cậu trở thành nạn nhân” và “nếu cậu chưa bao giờ yêu hãy giữ lại thành bí mật của mình, đừng giao nó trước khi biết rõ về người mà cậu muốn mở cửa trái tim mình”. Bài học đường đời đau đớn về tình cảm đã làm cho con tim bà tử tước chai sạn. Người bà đặt hết niềm hy vọng yêu thương lại tàn nhẫn ruồng bỏ bà “Ông Ajuda sắp lấy vợ. Ông sẽ lấy cô Rochefide”. Dù đau đớn nhưng phu nhân Beauséant vẫn giữ nét mặt thanh cao, không hề tàn tạ vì đau khổ “Bà có vẻ bình tĩnh và không biểu hiện niềm vui giả dối. Không ai có thể đọc được tâm hồn bà ta… Nụ cười của bà với những người bạn thân thiết đôi khi có vẻ chế nhạo và bản thân bà, vẫn phong độ như hồi bà ta đang sống trong hạnh phúc thắm tươi, những cử chỉ của bà đã làm cho những người vốn vô cảm nhất cũng phải ngưỡng mộ bà, cũng như đám thiếu nữ Roma tán thưởng đấu sĩ người biết cười trong khi đang hấp hối”. Xã hội thượng lưu thật phức tạp, nó không phù hợp cho những người giàu tình cảm. Cuối cùng bà tử tước đầu hàng trước xã hội và quyết định ra đi “Tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thấy Paris và cái thế giới này nữa. Năm giờ sáng mai, tôi sẽ ra đi để sống ẩn dật ở tận cùng của vùng Normandie”. Người phụ nữ này bề ngoài tỏ ra cứng rắn của một quý tộc không dễ khuất phục nhưng bên trong cũng yếu mềm như bao người phụ nữ khác. Bà cũng khát khao yêu thương và cũng cần một vòng tay ấm áp nhưng tất cả chỉ là giả dối để lại trong lòng bà niềm đau đớn đến “không một lời thốt ra được”. Với sự ra đi của bà tử tước, Balzac đã chứng minh cho một quy luật của xã hội không thể chối cãi “Điều đó đã chứng tỏ rằng những người ở tầng lớp cao quý nhất cũng không nằm ngoài quy luật của trái tim và cuộc sống của họ không phải là không có những điều phiền muộn như một vài kẻ mị dân muốn làm cho mình tưởng như vậy”.

Trong tác phẩm, Balzac nhắc đến nhiều cái tên quý tộc nhưng họ chỉ xuất hiện với vai trò tên gọi không mang tính cách và hành động. Bên cạnh bà tử tước Beauséant, Balzac còn tập trung thể hiện hai gã quý tộc tàn nhẫn và độc ác, Nam tước Restaud và nhà ngân hàng Nucingen. Hay quý ông này bạc bẽo tình người đến đáng sợ, khinh rẻ bố vợ, gian dối, xảo trá trong kinh doanh“Hắn đang đóng kịch đấy! Cha đã từng gặp người Đức trong kinh doanh, hầu hết họ là những người có thiện tâm thật thà, nhưng đó là cái cần thiết. Họ lại trở nên quỷ quyệt và bịp bợm ngay… Chồng con đang lợi dụng con”. Đây là lời của Delphine khi nhận ra bộ mặt thật sự của người chồng quý tộc. Thậm chí “hắn vừa gian xảo, vừa bất nghĩa; hắn là một kẻ tồi tệ”. Không chỉ nhà ngân hàng Nucingen tồi tệ mà cả ngài Nam tước Restaud cũng hèn hạ không kém. Cả hai là kẻ bất nghĩa với bố vợ. Họ tàn nhẫn không cho vợ mình đến gặp cha lần cuối. Gã quý tộc Restaud lạnh lùng trả lời Rastignac khi chàng đến thông báo lão Goriot đang hấp hối “Cậu cũng đã thấy đấy, tôi cũng cố gắng để yêu quý ông ấy nhưng ông ấy đã làm loạn tính nết của vợ tôi, gây tai họa cho đời tôi, tôi coi ông ấy là kẻ thù của sự yên vui trong gia đình mình. Cho nên, ông ta sống hay chết tôi không hề quan tâm… Còn bà Restaud, bà ấy không thể ra ngoài”. Đến lúc cuối lão Goriot đã nhận ra chính những đứa con rể quý là “kẻ độc ác, nó làm hư hỏng con gái ta…thật khủng khiếp, ta căm thù chúng: Chính những thằng con rể đã ngăn cấm các con ta đến thăm ta”.

@Tiểu kết

Chỉ vài nhân vật mà Balzac có thể phát họa một cách đầy đủ và sắc sảo về giới thượng lưu quý tộc. Thế giới này vốn rất phức tạp và để gia nhập vào nó phải có những chiến thuật hẳn hoi. Và những chiến thuật đó được chàng sinh viên Rastignac lĩnh hội sâu sắc thông qua người thầy đáng kính của mình – phu nhân Beauséant.

3.6.5 Những số phận con người lầm lũi bất hạnh trong quán trọ Vauquer

Quán trọ Vauquer vốn là nơi tập hợp tất cả mọi loại người. Có thể nói là hỗn tạp. Nổi bật lên trong quán trọ là số phận những con người thấp bé sống lầm lũi không hoài bão, khát vọng.

Đó là Victorine đáng thương, gã Poiret, cô gái già Michonneau, chị đầu bếp Sylvie, Christophe… Những con người này có đặc điểm chung là nghèo hèn. Victorine là một cô gái hiền lành tốt bụng nhưng lại chịu nhiều bất hạnh “Một cô gái trắng trẻo ốm yếu, giống như nước da của các cô gái bị bệnh xanh xao, và dù cô hòa mình với sự đau đớn, nó làm nền cho bức tranh này bởi một nỗi buồn quen thuộc, bởi một phong cách e ấp, ngượng ngùng, bởi một vẻ nghèo túng và yếu đuối thì gương mặt cô cũng không cằn cỗi, các cử chỉ và giọng nói của cô vẫn còn nhanh nhẹn, hoạt bát”. Nàng giống như “một cây con đã có lá vàng, mới bị trồng trong một mảnh đất không phù hợp”. Trời phú cho Victorine một vẻ đẹp thuần khiết giản dị “sắc diện của cô ửng đỏ, mái tóc màu vàng hung, dáng người quá mảnh mai, thể hiện sự duyên dáng mà các nhà thơ hiện đại tìm thấy trên các bức tượng nhỏ thời trung cổ”. Qua ngòi bút của mình, Balzac vẽ nên chân dung tuyệt đẹp về người con gái ngoan đạo “Đôi mắt màu xám đen biểu hiện một sự dịu dàng, sự ngoan đạo của một tín đồ Cơ Đốc giáo”. Tóm lại, Victorine có vẻ đẹp thuần khiết và trong sáng. Cuộc đời của nàng có thể viết thành một cuốn sách. Đáng lẽ nàng có cuộc sống giàu sang, phú quý nhưng người cha tàn nhẫn không thừa nhận cô, chỉ “cho cô sáu trăm franc mỗi năm và sẽ làm thay đổi số tài sản của cô để chuyển toàn bộ sang cho con trai của ông ta”. Victorine là đứa con rơi mà gã tỷ phú Taillefer không thừa nhận. Trước sự tàn nhẫn của bố, Victorine không hề căm hận. Đối với nàng lão ta vẫn là người cha đáng kính. Nàng là cô gái có tấm lòng lương thiện “Cô yêu mến cha mình, cô hàng năm tìm đến nhà ông ta để đem lời xin lỗi của người mẹ mà cánh cổng ngôi nhà ấy không bao giờ mở ra”. Nàng không phải vì số tiền tài sản của bố mà yêu thương ông, cầu phúc cho ông mà đó là sự xuất phát từ tình cảm chân thành tuyệt đối. Cuộc đời của Victorine tưởng chừng như vô vị và nhạt nhẽo nhưng bỗng lóe sáng lên tình yêu với Rastignac “Victorine nghĩ rằng mình đang được nghe lời nói của một thiên thần, thiên đường đang mở ra trước mắt cô, ngôi nhà trọ của bà Vauquer nhuốm đầy những sắc màu kỳ diệu như trong những bức họa trên sân khấu vậy: cô đang yêu và cô được yêu !”. Victorine ngây thơ dành tất cả tình yêu cho chàng sinh viên. Rastignac thấu hiểu được nhưng tình yêu tất cả chàng đã dành cho Delphine, có chăng đối với Victorine chỉ là tình cảm anh em đáng tôn trọng.

Victorine lương thiện không mừng vui khi sắp được tài sản của cha mà cô đau đớn, khóc thương cho người anh trai từng đối xử tệ với mình “Victorine hai mắt đẫm lệ, nhìn Eugène như muốn nói: Tôi không tin là niềm hạnh phúc của chúng ta lại có những giọt nước mắt”. Bởi đối với nàng hạnh phúc mình sắp có được là do sự đánh đổi mạng sống của anh trai “Nếu anh trai con cần phải chết để cho con được hạnh phúc thì con thà cứ mãi ở đây”. Cuối cùng người lương thiện cũng được đền đáp “Ông Taillefer đã nhận Victorine và đồng ý để bà Coutere ở cùng”.

Có thể nói Victorine là một hạt giống thanh cao thánh thiện hiếm hoi mà Balzac đã gửi gấm vào tác phẩm. Nàng có trái tim nhân hậu luôn ban phát tình yêu thương cho mọi người. Làm cho mọi người vẫn còn niềm tin và nhận thấy đời vẫn tươi đẹp và đáng sống.

Poiret và Michonneau là hai nhân vật mờ nhạt trong tác phẩm. Ở hai người, có cái gì đó bí ẩn, mà mọi người xung quanh không thể khám phá hay đúng hơn mọi người chẳng thèm tìm hiểu. Cô gái già Michonneau có đôi mắt mệt mỏi. Ở bà hiện lên sự chua chát khổ não “Chiếc khăn san của cô với những viền nhỏ và có hình giọt lệ giống như phủ lên một bộ xương, những gì mà nó che giấu được đều có hình dạng rất xương xẩu. Sự chua chát nào đã chi phối việc tạo ra những đường nét phụ nữ của cô?”. Phải chăng người phụ nữ này “đã từng quá yêu, đã từng là người bán phấn buôn son hay chỉ là một cô gái đĩ?”. Đây là những giả thuyết về quá khứ của cô gái già. Nhưng điều chắc chắn rằng người phụ nữ này đã hứng chịu bao điều đau khổ “Ánh mắt nhìn của cô trắng dã lạnh lẽo, gương mặt cằn cỗi đe dọa”. Bởi bà đã từng chăm sóc một ông già bị chứng chảy nước mũi, được ông ta đền đáp khoản tiền nhưng lại bị giành giật bởi những đứa con bất hiếu của lão.

Về phía Poiret, ông là “loại người kỳ cục” bí ẩn không kém. Người đàn ông này “giống như là một con lừa ở cối xay gió công cộng của chúng ta, một trong những con chuột Paris”. Cả hai người này luôn tạo cho mọi người xung quanh những cảm giác xa lạ khó gần. Cũng giống như những người khác, cả hai cũng cần tiền và tham tiền. Chính Michonneau và Poiret hợp tác cùng kẻ mật thám lật tẩy tên tù khổ sai Vautrin – người hàng xóm, để nhận thù lao 3000 franc. Và rồi, hai người phải lầm lũi ra đi, rời khỏi quán trọ với cái tên “kẻ tố giác”.

Bên cạnh đó vẫn có chị đầu bếp to béo Sylvie, cậu làm công Christophe. Tất cả đều hiện lên ảm đạm không tương lai hy vọng. Họ cứ lầm lũi sống cuộc đời tù túng, nghèo hèn.

@Tiểu kết

Bức tranh xã hội Paris sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu vắng những khuôn mặt của họ. Chính họ đã làm cho bức tranh thêm sinh động và đầy đủ đường nét. Họ là những con người bất hạnh, là nạn nhân của xã hội. Cuộc đời của họ rồi sẽ ra sao và đi về đâu ? Đó là câu hỏi mà Balzac luôn trăn trở và đi tìm câu trả lời.

  III. KẾT LUẬN

“Tấn trò đời”, bộ tiểu thuyết được xem là vĩ đại nhất trong trào lưu văn học hiện thực chủ nghĩa. Qua bộ tiểu thuyết, Balzac thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo. Đó là khả năng đi sâu vào phản ánh hiện thực. Từ cốt truyện đến các nhân vật Balzac không bỏ sót chi tiết hiện thực nào. Những chi tiết đó bình thường nhưng bên trong lại diễn ra sự biến đổi không bình thường. Balzac thật xứng với danh hiệu nhà hiện thực tài ba.

Nhà nghiên cứu văn học Pháp Jean Fréville đã từng nói “Balzac đã mô tả xã hội tư sản bằng một bức tranh hết sức tỉ mỉ, hết sức chân thực, hết sức quyết liệt đến nỗi nó mang lời kết án và người chứng kiến trở thành quan tòa” [41]. “Tấn trò đời” là lời kết án đó. Balzac đã mổ xẻ và phơi bày mọi góc cạnh của hiện thực đời sống. Tiểu thuyết “Lão Goriot” được xem là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Ở tiểu thuyết này Balzac đi sâu vào khai thác các mối quan hệ gia đình và tham vọng cuồng nhiệt của thanh niên trí thức. Tuy vấn đề không phải mới mẻ nhưng nó được ngòi bút Balzac thể hiện một cách độc đáo. Độc đáo ở khả năng quan sát, miêu tả và tái hiện lại cuộc sống. Bi kịch tan vỡ gia đình của lão Goriot đã chứng minh cho một chân lí: Hạnh phúc gia đình không phải là những thứ cao sang quyền quý phù phiếm. Bởi tiền tài và danh vọng không mang đến hạnh phúc thật sự cho con người. Nó chỉ mang đến cho chúng ta những thứ hạnh phúc rẻ tiền và giả dối. Hạnh phúc là cái gì đó rất bình thường và đơn giản. Nó ở ngay trước mắt mọi người. Nó có thể là một cái hôn ấm áp, một sự quan tâm chân thành hay đơn giản là một lời chúc tốt đẹp… Ấy vậy mà đã không ít người cố vươn xa để tìm hạnh phúc. Để rồi, bản thân phải trả giá xứng đáng cho hành động tìm kiếm hạnh phúc đó. Lão Goriot là một ví dụ. Khát vọng là điều chính đáng của con người nhưng phải xem con đường thực hiện khát vọng đó như thế nào. Nếu để thực hiện khát vọng đó con người phải đánh đổi tất cả thì đó không còn là khát vọng chân chính mà là tham vọng điên cuồng. Đó là chàng Rastignac.

Có thể nói, đỉnh cao trong tiểu thuyết hiện thực nói chung và tiểu thuyết “Lão Goriot” nói riêng là xây dựng thành công những điển hình nghệ thuật. Tức là xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Không phải Balzac viết tác phẩm này sau khi đã có những lí thuyết hoàn chỉnh về “điển hình hóa”. Mà đó là cả một quá trình tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo của Balzac. Đồng thời qua tác phẩm của mình, Balzac cũng thể hiện được mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Hay nói một cách khác là vấn đề “cái thật trong nghệ thuật”. Nói về vấn đề này, trong “Những bức thư về văn học”, ông nói “Tôi không ngừng nhắc lại rằng cái thật của tự nhiên không thể, sẽ không bao giờ cái cái thật của nghệ thuật; nếu nghệ thuật và tự nhiên gặp nhau đúng hệt trong tác phẩm, thì là vì ở đấy tự nhiên, mà những ngẫu nhiên thật vô kể, đạt tới những điều kiện của nghệ thuật. Thiên tài của nghệ sĩ là ở chỗ lựa chọn những tình huống tự nhiên trở thành yếu tố của cái thật văn học và nếu anh ta không hàn gắn chúng lại tốt, nếu những kim loại không làm thành một bức tượng đẹp màu, nguyên khối, thế thì anh ta đã làm hỏng tác phẩm”. Thật vậy, nghệ thuật không phải là sự sao chép máy móc hiện thực mà nghệ thuật là sự tinh luyện diệu kì. Ở đó, nhà văn biết sàn lọc và tạo ra những tình huống rất bình thường như trong xã hội nhưng cách thể hiện và lí giải của nhà văn lại không đơn giản. Bấy lâu nay, con người luôn hít thở trong bầu không khí hiện thực và chỉ biết chấp nhận nó như một điều lệ mà không hề đi sâu giải thích và cũng chẳng biết nguyên nhân vì sao. Chẳng hạn hành động Anastasie và Delphine luôn đến xin tiền cha tiêu vào những cuộc ăn chơi. Xã hội khi ấy không thiếu những con người như thế. Mọi người cho rằng đó là việc rất bình thường và không hề đi sâu lí giải. Thế nhưng khi đọc tác phẩm của Balzac người đọc ngoài việc cảm nhận được hơi thở của hiện thực còn thấy được sự vận động nội tại của cuộc sống. Sự vận động đó sẽ phá hủy nhân cách của con người. Balzac đã chọn những hoàn cảnh rất bình thường nhưng sự nhìn nhận và giải thích của nhà văn thật đáng khâm phục.

Không phải là nhà cách mạng càng không phải là nhà cầm quyền, Balzac không hề kêu gọi một cuộc đấu tranh cải tạo xã hội hay một cải cách nào đó. Mà ở đây, nhà văn dùng ngòi bút của mình để phơi bày hiện thực, giúp mọi người trong xã hội thấy được những tình trạng tha hóa của con người. Người giàu có địa vị chẳng hề có tình thương trong khi người nghèo đang rên la thảm thiết. Qua đó, nhà văn muốn gửi lời nhắn nhủ tha thiết đến tất cả mọi người mà đúng hơn là những người giàu có và địa vị – giai cấp tư sản và quý tộc, hãy yêu thương và biết quan tâm những người nghèo khổ.

Tóm lại, Balzac hay Hugo đều muốn con người hãy yêu thương nhau. Lời yêu thương đó được Balzac thể hiện thông qua các hình tượng chân thực và sống động như lão Goriot, Rastignac,Victorine, Bianchon… Còn ở Hugo, ông gửi hết vào nhân vật Jean Valjean, thông qua câu phát ngôn “Trong đời chỉ có một điều, ấy là yêu thương nhau”. Bởi khi trao đi những tình cảm yêu thương chân thành chúng ta sẽ nhận lại những hạnh phúc xứng đáng. Khi đó mọi khổ đau chẳng là gì. Nó đã vơi đi một nửa trong khi hạnh phúc thì được nhân đôi. Thomas Merton đã từng nhận xét “Nếu chúng ta chỉ biết tìm hạnh phúc cho riêng mình thì có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Hạnh phúc đích thực là biết sống vì người khác – một tình yêu không vị kỉ, không đòi hỏi phải được đền đáp”. Thật vậy, được yêu thương là hạnh phúc, nhưng yêu thương người khác còn hạnh phúc hơn. Tình thương sẽ mang lại hạnh phúc cho con người. Đó chính là lí do tại sao mỗi người phải biết yêu thương và san sẻ lẫn nhau “Cái đẹp cứu vớt thế giới” [42]. Tình thương là nét đẹp tiềm ẩn sức mạnh vĩ đại, là niềm hạnh phúc quý giá của con người. Cần biết trân trọng những gì ta đang có, yêu thương và san sẻ để cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Đó là tất cả thông điệp mà Balzac muốn gửi đến bạn đọc.

Nghiên cứu tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết Lão Goriot là đề tài nghiên cứu hấp dẫn và cần thiết. Không chỉ làm rõ vấn đề chủ nghĩa hiện thực mà quan trọng hơn hết là chỉ ra tài năng độc đáo của tác giả. Với khả năng và trình độ hạn hẹp, người viết chắc chắn sẽ có những vấn đề chưa được giải quyết hiệu quả. Và rất mong quý thầy cô và bạn đọc thông cảm và góp ý kiến để bài nghiên cứu này trở nên hoàn thiện hơn.

 

THƯ MỤC THAM KHẢO

@&?

1. Lê  Nguyên Cẩn, Hợp tuyển văn học Châu Âu (tập 2), NXB ĐHQG Hà Nội, 2002.

2. Minh Chính, Văn học phương Tây giản yếu, NXB ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.

3. Lưu Đức Trung, Văn học nước ngoài, NXB Giáo dục, 1998.

4. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Phương Tây (tập 2), NXB Giáo dục, 1979.

5. Nhiều tác giả, Văn học phương Tây, NXB Giáo dục.

6. Honoré De Balzac, Lão Goriot, NXB Hội nhà văn.

7. Phê bình bình luận văn học Balzac Hugo, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, 1991.

8. Hônôrê đơ Ban-dăc (1799-1850), Sách đại học sư phạm, NXB Giáo dục, 1980.

9. Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào, Văn học lãng mạn và hiện thực phương Tây thế kỉ XIX.

10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

11. Đỗ Đức Dục, Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương Tây, NXB   KHXH Hà Nội, 1981.

12. Lê Tiến Dũng, Giáo trình lí luận văn học (phần Tác phẩm văn học), NXB ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.

13. Phùng Hoài Ngọc, Giáo trình văn học phương Tây 2 (Đại học An  Giang, 2002).

14. Huỳnh Lý, Ơgiêni Grăngđê (Tủ sách văn học Pháp), NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.

15. Lê Đình Kỵ, Phương Lựu, Cơ sở lý luận văn học (tập 3), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1984.

16. Đỗ Đức Hiểu, Phê phán chủ nghĩa hiện sinh phương Tây, NXB Văn học, 1978.

17. X. M. Pêtơrôp, Chủ nghĩa hiện thực phê phán, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1986.

18. M. B. Kharapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,  NXB TP Hồ Chí Minh, 1978.

˜–

[1] Nhà xuất bản

[2] Khoa học xã hội

[3] Đại học quốc gia Hà Nội

[4] Từ điển giản yếu về văn học nước ngoài, NXB Nhân dân Hồ Nam, 1987.

[5] Dẫn theo Damian Grant Chủ nghĩa hiện thực, NXB Luân Đôn, 1989.

[6] Dẫn theo Lucien Levy-Bruhl Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XIX,  NXB Nhân dân Thượng Hải, 1997.

[7] Aristote Thi học, thi nghệ, NXB Văn học nhân dân, 1962.

[8] Vương Thu Vinh biên soạn, Balzac bàn về văn học, NXB KHXH Trung Quốc, 1986.

[9] Bielinxki Bàn về truyện vừa của Nga và truyện vừa của Gogol, xem Tuyển tập Bielinxki, NXB Dịch văn Thượng Hải, 1979.

[10] Xem Mac, Engels tuyển tập, NXB Nhân dân 1972.

[11] Gorki bàn về văn học, NXB Văn học nhân dân, 1978.

[12] Đanko tên của một nhân vật móc trái tim mình ra để dẫn đường cho cả bộ lạc.

[13] Trăng sáng – Nam Cao.

[14] Trịnh Bản Kiều” trang 111 – 112.

[15] Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, xem Các nhà văn Liên Xô bàn về Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, NXB Văn học nhân dân, 1960.

[16] Mac và Engels về văn học và nghệ thuật.

[17] Raxin và Sếchpia

[18] Đỏ và đen

[19] Một cuộc đời

[20] Gorgiơ Xăng

[21] Standhal

[22] Nghệ thuật thi ca, chương 6.

[23] Ba bậc thầy Đôxtôievxki, Balzăc, Đickenx của Stefan Zweig, NXB Văn học.

[24] Ba bậc thầy Đôtxtôievxki, Balzăc, Đickenx.

[25] Tờ báo Fi-ga-rô.

[26] Nhà nghiên cứu Mac-xit- Ăng-drê Vơc-xe.

[27] Íp-pô-lít Ten, nhà phê bình và triết học thực chứng.

[28] Đỏ và đen – Standhal.

[29] Tựa Tấn trò đời.

[30] Pi-e A-bra-ham, Tạp chí châu Âu tháng 1 năm 1965.

[31]  Gorki.

[32] Hồi kí của Laure, cô em thân thiết của Balzac.

[33] Gióoc-giơ Xăng “Và chúng ta, cũng như giới phê bình khi đọc dần từng cuốn, từng ngày, những tác phẩm kì lạ mà ông viết ra, không phải cuốn nào ta cũng thích (…). Nhưng khi Balzac cuối cùng đã tìm ra được ẩn ngữ của vận mệnh ông, đáp ngữ lí giải thiên tài của ông, đã nắm bắt được cái tên tuyệt vời và sâu sắc “Tấn trò đời”. Khi ông đã khiến tất cả các phần của công trình thành một tổng thể lô-gic và sâu xa, thì mỗi phần, kể cả những phần ban đầu ta không ưa nhất, xếp vào đúng chỗ của nó, đều lấy được giá trị đối với ta”.

[34] Engels

[35] Engels

[36] Nhân vật chính trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ”.

[37] Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục

[38] Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

[39] Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

[40] Theo bản dịch của Cao Xuân Hạo, NXB Văn học – Hà Nội

[41] Honoré De Balzac và chủ nghĩa hiện thực phê phán của Đỗ Đức Dục.

[42] Dostoievski

Chia sẻ:

  • Twitter
  • Facebook
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » Các Nhân Vật Trong Lão Goriot