Luca 17:11-19 - Gxdaminh
Có thể bạn quan tâm
![]() | |
Năm C | |
Chúa Nhật XXVIII Thường Niên - Năm C 2 V 5:14-17; 2 Tm 2:8-13 ; Lc 17:11-19 An Phong op : Lòng Biết Ơn Như Hạ : Một Ông Thánh Ngoại Đạo Fr. Jude Siciliano, op. : Lời tạ ơn Giuse Nguyễn Cao Luật op : Một Trên Mười Giacôbê Phạm Văn Phượng op : Vô ơn, biết ơn Lm. Jude Siciliano, op. : Tạ Ơn Chúa Đã Chữa Con Nên Sạch Phanxicô X. Trần Đức Tuân op : Hãy Sống Tâm Tình Tạ Ơn Đức Chúa Đỗ Lực op : Như Một Quyền Năng Fr. Jude Siciliano, op : Niềm Tin sẽ cứu chúng ta Fr. Siciliano op: Không đơn độc trên đường An Phong op Lòng Biết Ơn Lc 17:11-19 Tin mừng hôm nay là trình thuật Ðức Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Sau đó, chỉ có một người "quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người...". Bối cảnh của câu chuyện hôm nay là Ðức Giêsu cùng các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng từ thành này đến thành khác, từ làng này đến làng khác. Ðức Giêsu đã gặp nhóm người phong cùi này tại một trong số những làng mà Người ghé qua. Ðây là nhóm gồm có người Do Thái và người Samari (người Do Thái và người Samari vốn thù địch nhau). Bệnh tật và sự khốn khổ đã kéo họ lại gần nhau. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nói đến dân Do Thái là dân đặc tuyển của Thiên Chúa. Họ đã nhận được nhiều ân huệ lớn lao như giao ước, luật Môsê, các ngôn sứ, đất hứa... Nhưng, như những người Do Thái bị phong cùi được Chúa chữa lành đã không biết trở lại cám ơn Ðức Giêsu, dân Do Thái cũng không biết bày tỏ lòng biết ơn với Thiên Chúa vì những ân huệ lớn lao Người ban cho. Từ đó, những ân huệ lớn lao không còn chỉ dành riêng cho dân Do Thái, nhưng cho tất cả nhân loại. Ðức Giêsu là ân huệ lớn lao nhất của Thiên Chúa gởi cho nhân loại. Bệnh cùi không phải là một thứ bệnh như các thứ bệnh khác, nhưng nó là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi quá khứ, là dấu chỉ sự thẩm phán của Thiên Chúa. Người cùi là người không còn được coi là con Thiên Chúa, họ bị loại ra khỏi cộng đoàn những người tin. Như thế, bệnh cùi là biểu tượng của một căn bệnh thiêng liêng của nhân loại vắng bóng Thiên Chúa, vắng bóng sự hiệp thông với cộng đoàn những người tin. Khi chữa lành cho mười người phong cùi, Chúa Giêsu cho thấy Người muốn tái tạo lại tất cả chúng ta - ít nhiều là những người mắc bệnh phong cùi thiêng liêng - thành những con cái đích thực của Thiên Chúa, đồng thời có được sự hiệp thông huynh đệ với nhau và với cộng đoàn những người tin. Ðức Giêsu luôn là Ðấng cứu độ chúng ta, Người muốn chữa lành tất cả những căn bệnh thiêng liêng của chúng ta, đó là "tham, sân, si, mạn, nghi, thâm kiến", đó là mọi thứ tội lỗi đẩy Thiên Chúa ra khỏi trần gian này, đó là phá đổ sự hiệp thông huynh đệ... Chắc hẳn Ðức Giêsu không chờ những người được chữa lành trở lại cám ơn Người. Người ghi nhận chỉ có một người trở lại cám ơn. Một người duy nhất là tiêu biểu con số quá ít ỏi. Dường như chỉ thiểu số nhân loại thuộc về con số ít ỏi này ? Có lẽ mỗi người chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự vô ơn dưới hình thức này hay hình thức khác. Có thể là chúng ta đã làm điều tốt cho một ai đó, nhưng họ không biết cám ơn chúng ta. Có thể là chúng ta không biết cám ơn vì những ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ðược làm người, được làm con cái Thiên Chúa không phải là những ân huệ Thiên Chúa ban sao ? Ðời sống kitô hữu là một bài ca chúc tụng ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta trở thành những thành viên trong cộng đoàn những người tin - Giáo hội. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể - bí tích hy tế của Ðức Giêsu và bí tích Tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa trao ban chính Ðức Giêsu. Chúng ta cần trao ban lại - tạ ơn Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là luôn tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa. Là kitô hữu tức là được đón nhận một Tin mừng lớn lao - Ðức Giêsu Kitô. Phải chăng cuộc đời chúng ta là một bài ca ngợi khen chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa? Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Ðấng khoan dung và nhân từ. Chúng con xin tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban. Xin cho lòng con bình an đón nhận một ngày mới. Xin giúp con luôn nương tựa vào ý Ngài. Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài trong mỗi giờ mỗi phút của ngày hôm nay. Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con. Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay với một tâm hồn thanh thản. Xin cho con sức mạnh để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay. Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành một bài thần ca ngợi khen, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Amen. Như Hạ MỘT ÔNG THÁNH NGOẠI ÐẠO Lc 17:11-19 Còn niềm vui nào bằng tấm lòng tri ân cảm tạ Thiên Chúa ? Vì thương xót con người, Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc. Con người cũng làm ơn cho nhau. Nhưng tại sao nhiều khi làm ơn mắc oán ? Nhìn kỹ vào việc Ðức Giêsu làm ơn cho người bị bệnh phong cùi hôm nay mới có thể học cách Chúa đối xử với những người chịu ơn ra sao. MỘT CÁI NHÌN SÂU SẮC. Từ xưa đến nay những người phong cùi vẫn bị tách biệt khỏi hoàn cảnh sống chung quanh. Nhất là người Samaria phong cùi hôm nay bị cô lập gấp đôi chín người kia, vì thành kiến của người Do thái. Nhưng tất cả đều chung một số phận. Tình trạng khốn khổ đến nỗi tất cả đều kêu lên : "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !" (Lc 17:13) Như vậy, tất cả đều đặt niềm hi vọng nơi Chúa. Khi gặp bước khốn cùng con người đều có chung một khát vọng. Khát vọng đó là mong được cứu thoát. Ðức Giêsu xuất hiện kịp thời như hiện thân lòng xót thương của Thiên Chúa. Nghe thấy tiếng kêu thảm thiết đó, chắc chắn Ðức Giêsu phải động lòng trắc ẩn. Người lợi dụng ngay cơ hội này để thi thố tất cả quyền năng Thiên Chúa trong việc cứu độ con người. Người sai cả mười người đến trình diện các tư tế (Lc 17:14), để họ được trở lại với cộng đồng. Nhưng dù trình diện, người Samaria cũng chẳng bao giờ được diễm phúc ấy. Thế nhưng khi ông ta "thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa," (Lc 17:15) Ðấng đã thi thố quyền năng nơi Ðức Giêsu Kitô. Ðây chính là dịp Chúa muốn cho thấy chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Bởi thế Người mới nói : "Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?" (Lc 17:17) Không có gì có thể ngăn cản quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Quyền năng đó không phải chỉ để chữa lành, nhưng còn để cứu độ. Ðằng sau những phúc lộc trần gian, Thiên Chúa muốn che dấu một hồng ân trọng đại hơn. Ðó là hồng ân cứu độ. Chỉ những con mắt tinh đời mới thấy được ! Bởi thế Chúa mới nói : "Phúc cho mắt nào được thấy điều anh em thấy !" (Lc 10:23) Từ việc cảm nghiệm hồng ân, "anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn." (Lc 17:16) Hành vi này đã quyết định cả vận mệnh cuộc đời anh. Anh đã được cứu độ, chứ không phải chỉ được chữa lành. Tuy không được nhận vào cộng đồng Do thái với những tập tục và luật lệ chằng chịt, nhưng anh được giải thoát và gia nhập cộng đồng Dân Chúa. Số ít được cứu độ (Lc 13:23-24) không phải vì Thiên Chúa muốn thế. Bằng chứng khi chữa lành cho mười người, Ðức Giêsu đã không đối xử phân biệt. Trái lại, Người tôn trọng mười người như nhau. Trong khi họ bị gạt ra bên lề xã hội và bởi đấy mất tất cả quyền làm người, Ðức Giêsu vẫn coi họ là người : "Không phải cả mười người được sạch sao ?" (Lc 17:17) Thánh Luca cũng tế nhị gọi họ là "mười người phong hủi" (Lc 17:12), chứ không gọi là bọn phong cùi. Dù bị bại liệt (Lc 5:18) hay bi quỉ ám (Lc 8: 27), họ vẫn luôn được gọi là người. Nhân phẩm vẫn còn nơi những người bị gạt ra ngoài lề xã hội đó. Nhưng hơn nữa, giá trị của họ còn là chính niềm tin nơi Thiên Chúa. Bởi đấy Chúa nói : "Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." (Lc 17:19) Chỉ một mình Chúa mới nhận ra giá trị tuyệt đối đó mà thôi. Chính vì được Chúa tôn trọng, người Samaria mới cảm thấy lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa và đủ khả năng tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn Người. Ðồng cảnh ngộ, tướng Naaman nước Aram cũng nghiệm thấy sự thật lớn lao đó sau khi được ngôn sứ Êlia chữa khỏi bệnh phong hủi : "Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Ðức Chúa." (2 V 5:17) Nếu Ðức Giêsu cũng có một thái độ như mọi người, chắc chắn không bao giờ được ghi ơn như thế. Người rất thấu hiểu tâm lý con người. Người không muốn con người bị lệ thuộc đến nỗi phải đánh đổi nhân cách lấy lợi lộc vật chất. Nói khác, Người muốn dùng hồng ân để giúp con người lớn lên, chứ không muốn đè bẹp con người. Thế mới biết của cho không bằng cách cho ! GIEO GIÓ GẶT BÃO. Ðức Giêsu đã dạy một bài học rất sâu sắc về mối tương quan giữa người và người. Tiền của đã chia nhân loại thành hai hạng người thi ân và thụ ân. Những người thi ân nhiều khi không phải vì thương những người nghèo khổ, nhưng chỉ vì ham danh lợi. Họ có thể tạo ra những bất công lớn lao ngay khi làm những việc bác ái, một thứ bác ái chỉ nhằm khoe cái tôi ! Chính sách viện trợ nhân đạo của Mỹ là một điển hình. Dân Mỹ nổi tiếng vì đã viện trợ các nước nghèo trên thế giới. Thế nhưng tại sao họ vẫn bị nhiều dân tộc căm thù ? Biến cố 11/9/2001 chỉ cụ thể hóa lòng căm ghét đến tột độ đó mà thôi. Biến cố này là một cơ hội lớn cho người Mỹ nhìn lại chính sách bất công của mình. Cần phải có một cuộc cách mạng văn hóa thay đổi não trạng những người Âu Mỹ. Chính sách bất công cũng bắt nguồn từ cái nhìn và lối sống cao ngạo của người Tây Phương trước những dân tộc khác. Chính Thủ tướng Ý cho rằng văn minh Kitô giáo cao hơn Hồi giáo. Có phải đó là cách giải thích hay nhất chính sách "cái gậy và củ cà rốt" Mỹ đang áp dụng trong cuộc chiên Afganistan không ? Theo Ðức Thượng Phụ Nasrallah Sfeir thuộc Nghi Lễ Ðông phương Maronite, "cuộc tấn công quân sự có lẽ không ổn định được tình hình quốc tế. Sẽ có nhiều cuộc khủng bố cho tới khi nào đưa ra những cội rễ phát sinh bạo động. Cuộc chiến này chỉ có một lý do duy nhất : sự bất công trong hoàn cảnh Palestine và Israel." (CWNews 12/10/2001) Nhiều khi Hoa Kỳ quá thiên vị Israel, bất chấp cả lương tri, chỉ nhắm tới quyền lợi riêng. Ðức Giêsu không bao giờ thủ lợi. Cả khi cứu chữa mười người phong cùi, Người cũng quên chính mình. Người không hề đòi hỏi phải nhìn nhận quyền bính tối cao nơi mình. Trái lại, Người cho đó chỉ là do sức mạnh của niềm tin mà thôi. Ðường lối của Hoa Kỳ khác hẳn. Họ bắt mọi người phải cúi đầu khi nhận lãnh viện trợ. Có phải vì thế mà tại Peru, "trong thời kỳ Tổng thống Alberto Fujimori, hơn 300,000 phụ nữ, phần đông là nông thôn đã bị buộc phải triệt sản thông qua một chương trình giải phẫu triệt sản tự nguyện, thực tế là một chương trình bắt buộc. Giờ đây những phụ nữ này là những người vô cùng đau khổ. Ða số những ông chồng của những người đàn bà không có khả năng sinh sản này ruồng rẫy họ để kết hôn với người khác. Những phụ nữ này còn chịu nhiều bệnh tật và gia đình họ phải tốn tiền chạy chữa" (VietCatholic 10/10/2001) ? Từ đó, bao nhiêu vấn đề gia đình và xã hội đang phá hủy hạnh phúc con người ! Ai đã dính líu trong việc triệt sản này ? Chỉ biết "dưới áp lực của chính phủ Clinton và của Liên Hiệp Quốc, các khoản viện trợ kinh tế cho các nước thường đi kèm với những điều kiện kế hoạch hóa gia đình." (VietCatholic 10/10/2001) Chắc chắn chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ không thể tránh khỏi áp lực những tay tài phiệt. Họ đặt quyền lợi lên trên tất cả. Chủ nghĩa Duy Lợi này đã khuynh đảo đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, tạo ra nhiều kẻ thù chưa từng thấy. Cụ thể, Pax Christi Hoa Kỳ đã can đảm "đưa ra danh sách những siêu thế lực dân sự đáng bị tiêu diệt trong xã hội Hoa Kỳ." (VietCatholic 10/10/2001) Ngày nào còn bị các tay tài phiệt đó chi phối, ngày đó còn bất công, nghèo đói và loạn lạc khắp nơi. Chẳng hạn, "vì quyền lợi dầu hỏa, Hoa Kỳ xúi giục Iraq tấn công Iran và cố duy trì cuộc chiến của hai nước này bằng cách bán vũ khí cho cả hai nước để họ đánh nhau đến kiệt quệ. Cũng vì quyền lợi mà Hoa Kỳ đã tiếp tay với các nhóm Hồi giáo cực đoan tại Trung Á để in ra hàng mấy chục triệu cuốn Kinh Koran và các tài liệu cực đoan trong thời gian chống Liên Sô." (VietCatholic 10/10/2001) Ðúng là gieo gió gặt bão ! Fr. Jude Siciliano, OP. LỜI TẠ ƠN Lc 17:11-19 Thưa quí vị. Đứa con trai hai tuổi của cháu gái tôi thèm ăn bánh ngọt. Nó nói với mẹ: “Má, bánh ngọt”. Mẹ nó trả lời: “Thế còn lời lịch sự, con nói sao là ?” Đứa trẻ thưa ngay: “Làm ơn”. Sau khi đã trao cho con chiếc bánh, cháu tôi thêm: “Gì nữa nào ?” Đứa bé hai tuổi mừng rỡ buông miệng: “Cám ơn má”. Phải chăng câu chuyện trên là đường lối thông thường dạy trẻ con học lịch sự ? Chúng ta dạy nó biểu lộ yêu cầu và tỏ lòng biết ơn bằng những từ ngữ lễ phép. Các cụ ngày xưa đã chẳng từng đặt ra thành ngữ “tiên học lễ, hậu học văn” để dạy con cháu muôn thuở biết ăn ở ngoan ngoãn. Bởi nó là niềm vui cho gia đình. Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay khen ngợi người Samaritanô phong cùi cũng là vì anh ta lịch sư. Khi thấy mình được sạch, anh quay lại cảm ơn Chúa Giêsu. Thánh Luca kí thuật: “Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Tôi nghĩ câu chuyện còn súc tích hơn nhiều, chứ chẳng phải đơn giản là lịch sự. Cử chỉ của anh ta bao gồm lòng biết ơn sâu xa và lòng cảm tạ chân thành. Nó diễn tả cuộc đời anh như nạn nhân của bệnh tật và thái độ kinh tởm của xã hội, nay đã được Đức Giêsu chữa lành. Trong văn hoá Do Thái, cùi hủi là tên chung cho mọi bệnh ngoài da. Nhưng theo khoa học ngày nay, chỉ số ít là thực sự có vi trùng hansen, vi trùng cùi, nó ăn mòn da thịt con người, còn phần đông là bệnh ngoài da khác, như ban sởi, lở loét chẳng hạn. Nhưng đối với người Do Thái khi da thịt nổi mụn nhọt thì lập tức được gọi là cùi hủi. Nạn nhân bị cách ly khỏi xã hội. Sách Lêvi ký ghi: “Nếu nhọt ở vết thương, có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu, hoặc trán thì người ấy bị phong hủi. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế, người phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên ô uế, ô uế. Bao lâu còn mắc bệnh thì nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (13-14). Như vậy về mặt xã hội và tôn giáo, người củi hủi hoàn toàn bị cách ly. Thường thường khi nạn nhân ngã bệnh nặng, thân nhân mới được thăm viếng. Thuốc men thì trong tay các thầy lang chuyên biệt. Họ chữa trị và làm giảm đau. Nếu không qua khỏi được, thì chí ít sự hiện diện của thân nhân cũng góp phần an ủi. Chúng ta thử tưởng tượng trường hợp của ông Naaman, người Syria trong bài đọc thứ nhất. Mặc dù là người giầu có và nhiều ảnh hưởng nơi triều đình, nhưng hiệu quả căn bệnh phong cùi trên cuộc đời ông thật nặng nề. Ông phải kinh nghiệm sự cô đơn và những cái nhìn tẩy chay của bề tôi, đến nỗi phải nhờ một thầy lang ngoại bang cứu chữa. Số phận của 10 người phong cùi của Tin Mừng hôm nay thảm hại hơn. Chắc chắn họ không thuộc hạng giàu sang quyền quý, họ chỉ là một nhóm ngoài lề, khốn khổ. Họ quy tụ lại với nhau vì bệnh tật và nghèo đói. Căn bệnh khủng khiếp đã hoá giải mọi ghen tị, hận thù nòi giống, tôn giáo và thúc đẩy họ trở thành thân thiết, bạn hữu với nhau trong nỗi thống khổ chung. Họ không còn là cá nhân, có tên riêng, màu da, tếng nói riêng, tổ quốc riêng, mà là một loại người có biệt hiệu “mười kẻ phong cùi”. Số phận họ cực kỳ khốn đốn: Làm thế nào có của ăn, áo mặc? Làm thế nào có phương tiện sống? Làm thế nào cho hết nỗi cô đơn? Bởi lẽ trong xã hội không ai dám tiến đến gần những kẻ ấy. Hơn nữa người ta còn coi họ là những tội nhân. Nghi ngờ họ đã phạm những lỗi lầm ghê tởm, đến nỗi Thiên Chúa phải phạt họ mang bệnh cùi. Ai sẽ thương xót họ? Ai sẽ đủ can đảm đến cứu giúp họ? Thánh Luca kể: “Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì có 10 người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đàng xa và kêu lớn tiếng: Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi. Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”, đang khi họ đi thì được sạch”. Đức Giêsu đã chú ý đến thân phận họ. Người muốn cho họ được lành, làm chiếc cầu nối nhịp giữa họ và xã hội. Trả lại niềm vui, nhân phẩm và danh dự cho họ. Họ sẽ được sống giữa bà con, thân thuộc, xóm làng, sẽ được bước lên đền thánh Thiên Chúa dâng lời tạ ơn, chúc tụng! Thánh Luca đặt trên môi miệng các người phong cùi danh xưng “Lạy Thầy Giêsu” để gọi Chúa Giêsu. Từ này các môn đệ thường dùng, ý hẳn thánh nhân muốn gợi lên cho độc giả hay phần họ, họ đã có đức tin vào Chúa Giêsu và đã tỏ lộ đức tin ấy khi vâng lời Thầy đi trình diện cùng tư tế, mặc dù chưa cảm nghiệm sự chữa lành tức thời nơi thân thể mình. Trong quá trình sống, 10 người phong cùi đã từng được nghe về Chúa Giêsu và quyền năng chữa lành của Ngài. Họ hằng khao khát được gặp Ngài và dịp may đã tới. Không bỏ lỡ cơ hội, họ kéo nhau ra đón Ngài và tin tưởng vào lòng tốt của Ngài, một thầy thuốc cao tay, đi gieo vãi tình thương khắp nơi. Ngày nay trong thời đại tân thời chúng ta cũng có lòng tin vào thuốc men. Ví dụ khi có một căn bệnh nào đó, chúng ta ngoan ngoãn theo chỉ dẫn của bác sĩ, uống thuốc trong một thời gian nhất định, bụng bảo dạ mình sẽ được phục hồi sức khoẻ. Tuy nhiên, khi bệnh hết chúng ta không thực hiện như người Samaritanô, trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và “sấp mình dưới chân bác sỹ mà tạ ơn”. Vậy thì người Samaritanô phải cảm nghiệm được điều chi khác thường trong tâm hồn mình. Ông đã được Thượng đế ban ơn để nhận ra rằng việc chữa lành của mình là một phép lạ, từ tay Thiên Chúa nhân lành, đầy mến yêu và Đức Giêsu là máng chuyển ơn lành đó. Thiên chúa đã xót thương và bao bọc ông, cho nên ông cảm thấy bó buộc phải lớn tiếng cao rao danh Ngài và phủ phục dưới chân Chúa mà tạ ơn. Suy rộng ra giáo xứ chúng ta, mỗi cuộc đời người tín hữu, cũng hằng được Đức Chúa Trời ban ơn như vậy. Chúng ta đã phạm tội, mắc bệnh phong cùi về đời sống thiêng liêng. Nhưng hằng được chữa lành và tha thứ nhờ thần khí Chúa ngự giữa và hoạt động trong chúng ta. Cho nên hằng ngày và từng giây phút phải lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa và tạ ơn Đức Giêsu, giống như người Samari. Thực tế thì chúng ta chỉ biết thụ ơn và rất hà tiện lời cảm tạ, rồi viện ra trăm ngàn lý do để tự biện minh: nào là công tác xã hội, hành trình bác ái, sức khoẻ, mệt mỏi, nghỉ ngơi, tin tức, giải trí. Thời Chúa giêsu, não trạng liên kết bệnh tật, nghèo đói với tội lỗi rất nặng nề. Người phong cùi và kẻ tội lỗi là một. Nghèo đói, bệnh tật là vì đã phạm tội chống lại lề luật và Giavê. Cho nên việc chữa lành có hậu quả lớn hơn việc khỏi bệnh của chúng ta ngày nay. Nạn nhân không những được phục hồi phần xác, mà còn được giải phóng về mặt tôn giáo, xã hội. Sau các nghi thức thanh tẩy, họ sẽ sống tự do với gia đình, bạn bè và được lui tới những nơi thờ phượng. Đối với người Samaritanô vẫn bị coi là lạc giáo, không còn liên lạc với đền thờ, cho nên ông không có tư tế để trình diện, ông phải quay lại với Chúa Giêsu như đền thờ của Thiên Chúa mà lớn tiếng ngợi khen Ngài. Đây là điểm chúng ta cần suy nghĩ. Bởi lẽ chúng ta thường có khuynh hướng bảo thủ, khép kín, tẩy chay. Không công nhận những ơn lành Chúa ban cho kẻ khác. Độc tôn trong đạo mình. Chúng ta mù loà, ương ngạnh trong quan điểm tôn giáo, xã hội. Không thấy những đổi thay trên thế gian, nhất là về đàng thiêng liêng. Một cử chỉ nhân ái, một cuộc sống lương thiện đáng lý phải được chúng ta khâm phục và cộng tác. Nhưng ngược lại, nếu không thuộc phe ta, nhất định sẽ bị nghi ngờ, chê bai, đả kích. Xin nhớ một người sống ngay lành đã là phép lạ của Thiên Chúa rồi. Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu về 9 người kia không trở lại cho chúng ta hay Chúa đau lòng biết bao về sự bội bạc của nhân loại. Chẳng lẽ chúng ta cũng được kể vào số ấy? Do đó, sự cảm tạ Chúa về các ơn lành Người thương ban là đặc tính Kitô hữu chân chính. Thiếu đặc tính này thì chẳng khác người vô đạo, có khi tệ hơn. Bởi lẽ chúng ta dạy con cháu ngôn ngữ lịch sự: “còn gì nữa con”; “cảm ơn mẹ” vì một chiếc bánh ngọt. Nhưng vô số ơn lành của Thiên Chúa chúng ta làm ngơ. Cho nên câu chuyện người Samaritanô trở lại tạ ơn Thiên Chúa phải là điểm then chốt cho chúng ta suy nghĩ hôm nay. Chúa Giêsu không chỉ là bác sỹ chữa lành cùi hủi, mở mắt, mở tai, gẫy xương, trừ quỷ mà chính yếu Ngài bày tỏ lòng cảm thương đối với nạn nhân của đau khổ, bệnh tật, chết chóc phần xác cũng như phần hồn. Ngài cam đoan với nhân loại Thiên Chúa thấu rõ những nỗi khổ của họ. Ngài sẽ giảt thoát và nâng đỡ mọi người. Nếu như mỗi người nhận ra và đón tiếp những ơn lành Thiên Chúa thực hiện nơi mình. Khi ấy chúng ta sẽ sống cuộc đời hoàn toàn đổi khác. Cuộc đời của chính Đức Kitô trong chúng ta, đầy yêu thương và thông cảm, không còn hận thù, ghen ghét, tẩy chay, loại trừ chúng ta sẽ rời bỏ nếp sống tội lỗi và quay về với đường lối chính trực Thiên Chúa đã chỉ vẽ cho loài người qua Đức Kitô. Chúng ta sẽ diễn tả lòng tri ân Thiên chúa bằng những hình thức đặc biệt như ăn chay, phạt xác, bố thí, cầu nguyện, đọc sách thánh và chấp nhận các câu chuyện kinh thánh như quy chiếu về mình. Đầy lòng tạ ơn chúng ta sẽ sống khiêm nhường, thánh thiện và hạnh phúc. Bữa tiệc Thánh thể chúng ta sắp cử hành, gợi nhớ lại Chúa Giêsu luôn hiện diện và ngự đến với mỗi linh hồn, thúc giục chúng ta đón nhận và phục vụ tha nhân không loại trừ, không kì thị, bất chấp những khác biệt về văn hoá, tôn giáo, tính tình. Bởi chúng là những đặc điểm tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể độc tài, ép buộc mọi người theo ý riêng của mình. Xin nhớ lời yêu cầu của các Tông đồ xin thêm đức tin. Chúa Giêsu trả lời họ rằng họ đã được ban cho đủ đức tin để sống cuộc đời theo Ngài. Chỉ cần tinh luyện đức tin đó cho tinh ròng, gột rửa hết các hình thức ích kỷ, đam mê, dục vọng, giả hình, tham lam thì có thể làm phép lạ, khiến cây dâu nhổ rễ đi mọc giữa biển cả! Bây giờ chúng ta cũng vậy, Chúa đòi hỏi mọi kẻ theo Ngài phải hành động trên đức tin ấy. Thế giới sẽ không còn bom đạn, chiến tranh, chia rẽ. Chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm của mình. Sỡ dĩ nhân loại còn chém giết nhau là vì môn đệ Chúa chưa chu toàn bổn phận. Chưa có đức tin tinh tuyền, nhiên hậu chưa phải là người công chính thật. Liệu chúng ta đã giống như Ngài đón nhận 10 người phong cùi và chữa lành họ? Liệu chúng ta dám mở lòng ra cho thiên hạ lui tới, hay ngược lại, lập thêm hàng rào để ngăn cản “sự dữ” vào phá phách mình. Phụng vụ sau công đồng Vaticanô II đề nghị rỡ bỏ rào cản (communion rail) giữa giáo dân và gian cung thánh, tượng trưng sự gần gũi giữa Chúa Giêsu và cộng đồng tín hữu. Nhưng thực tế hàng trăm rào cản khác đã đươc dựng nên giữa giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ, hàng giáo phẩm. Buồn thay. Trở lại với đề tài hôm nay, người Samaritanô, một trong 10 kẻ cùi hủi, bị xã hội ruồng bỏ lại trở thành bài học cho chúng ta. Ông dạy mọi người biết bày tỏ lời ngợi khen Thiên Chúa và tạ ơn Đức Giêsu. Trong Thánh lễ này chúng ta nên noi gương ông, biết ơn và tán tạ tình thương Thiên Chúa tưới gội trên mỗi linh hồn. Ơn của Ngài thật vĩ đại, dạt dào, rộng mở ôm lấy hết nhân loại. Tất cả chúng ta đều là những kẻ cùi hủi được Đức Kitô chữa lành. Hiện nay chúng ta đang được Lời Ngài quy tụ lại, hình thành một cộng đoàn Thánh thể, để bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, yêu thương nhau và sống am hợp với phúc âm. Đó là ý nghĩa của từ Eucharistia trong tiếng Latinh. Ước chi mỗi cộng đồng giáo xứ là một cộng đồng “lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Amen. Ghi chú : Tiếp theo truyện Naaman: ông thấy mình được chữa lành thì trở lại tạ ơn Thiên Chúa của Israel và tiên tri Elisa. Rồi dâng lễ vật. Tiên tri không nhận. Ông xin hai bao đất về để thờ phượng Giavê. Tiên tri đồng ý và chúc lành cho ông đi bằng an. Được một quãng đường, tiểu đồng của Elisa là Giêkhađi tiếc rẻ, đuổi theo xe Naaman đòi tiền. Naaman cho nó 60 kg bạc và hai bộ quần áo. Tiên tri Elisa biết chuyện, nguyền rủa nó, nói: “Mày đã nhận tiền bạc, nhưng bệnh phong cùi của ông Naaman sẽ mãi mãi bám lấy mày và dòng dõi mày”. Giêkhađi rời Elisa, mắc bệnh phong hủi, mốc thếch như tuyết (2 V 5, 25). Giuse Nguyễn Cao Luật op MỘT TRÊN MƯỜI Lc 17:11-19 Ðảo lộn trật tự bình thường Câu chuyện được thuật lại cách giản dị, tự nhiên, nhưng hết sức linh động. Tất cả dường như đều diễn ra bình thường, hợp lề luật. Những người mắc bệnh phong ở riêng một nơi : họ là những người ô uế, nên phải ở ngoài làng. Ðức Giêsu cư xử đúng đắn như một người chữa bệnh. Người tôn trọng Lề Luật (x. Lv 13,46 ; 14,2-3) khi truyền cho những người bệnh đi trình diện các tư tế. Ðiều bất ngờ là danh xưng mà các người phung hủi sử dụng để thưa với Ðức Giêsu : "Lạy Thầy Giêsu." Ðây là lần duy nhất Ðức Giêsu được những người không phải môn đệ gọi là Thầy. Ðiều bất ngờ hơn và là trọng tâm của tường thuật là : "Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari." "Người Samari" đổng nghĩa với "người nước ngoài", "người ngoại đạo", tức là không thuộc dân Ít-ra-en, không được Thiên Chúa yêu thương cứu vớt. Người ta có thể nghĩ rằng, đối với 9 người kia, câu chuyện diễn tiến theo Lề Luật : sau khi được các tư tế chứng nhận là đã khỏi bệnh, họ được tái gia nhập cộng đoàn. Chỉ có một người làm đảo lộn trật tự bình thường. Có lẽ người Samari không hiểu lệnh truyền của Ðức Giêsu. Hoặc anh ta đã quên. Hay đúng hơn, vì không phải là người Ít-ra-en, anh không để ý đến tầm quan trọng của Lề Luật. Anh đã trở lại gặp Ðức Giêsu để tạ ơn. Những người kia ở lại trong chế độ lề luật, họ đã không bước vào thế giới ân sủng, thế giới của việc tặng ban và tạ ơn. Như vậy, phải chăng người ở ngoài dân được tuyển chọn mới có thể hiểu điều này ? Vậy mà, đối với một số người, việc thuộc về dân của lời hứa lại không tạo nên một thứ bảo đảm giả tạo đó sao ? Họ coi đó như một quyền lợi hơn là một sự ban tặng. "Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc lại những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử" (Gl 4,4-5). Ðức Giêsu sẽ lên Giêrusalem và sẽ ra mắt các tư tế. Nhưng tại đó, Người sẽ phá tung trật tự của họ. Tại đó, Người sẽ mặc khải, sẽ tỏ bày tình thương do Chúa Cha ban tặng, tình thương làm cho sống. Và điều ấy, hôm nay, người Samari, đã loan báo. Lời bộc bạch của người Samari "Tôi bị bệnh phung hủi. Tôi rất mặc cảm, không những vì cái bệnh khốn khỗ nơi thân xác, mà còn về cả cái gốc gác lý lịch không được sạch trước mắt đạo Do-thái. Như thói quen thời ấy, những người phung hủi chúng tôi phải sống ở bên ngoài làng, không được giao tiếp với những người bên trong, vì chúng tôi là những người dơ bẩn, còn những người khác là người sạch. "Tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ phải mang cái bệnh khốn khỗ đó cho đến chết, và mình sẽ sống cô đơn suốt đời, cô đơn cho đến chết. Chẳng có tài nào chữa được thứ bệnh quái ác này, và tôi sẽ cứ phải sống chui, sống nhủi. Chỉ có cái chết mới giải thoát được, còn bây giờ thì cứ sống mà như không phải là người. "Khi nghe tin ông Giêsu của người Do-thái đi ngang qua, những người phung hủi chúng tôi đến xin ông cứu giúp, bởi vì chúng tôi đã được nghe nói về ông, và chúng tôi hy vọng ông sẽ chữa chúng tôi lành bệnh như ông đã làm cho nhiều người. Tuy thế, tôi vẫn sợ rằng mình không phải là người Do-thái nên ông sẽ loại tôi ra. Nhưng không, lời ông nói đã làm cho chúng tôi được sạch, những vết phung hủi biến đâu mất, và chúng tôi thấy mình lành lặn. Những người Do-thái, theo như lời ông Giêsu nói, đã đi trình diện các tư tế theo đúng Lề Luật của họ. Còn tôi, tôi là người Samari, tôi đâu có lề luật, mà các tư tế cũng đâu có chứng nhận cho tôi. Tôi biết trình diện với ai bây giờ ? Ai chứng nhận cho tôi, tôi đâu có thuộc quyền ai ? "Bởi vậy, không có gì hay hơn là tôi trở lại với chính người đã cứu tôi, đã chữa tôi lành bệnh. Ông ấy không coi thường tôi, không xét đến lý lịch gốc gác của tôi, và tôi thấy mình hạnh phúc, hạnh phúc hơn cả những người Do-thái. Tôi đã trở lại với ông Giêsu, trở lại để cám ơn, vì ơn đó quá lớn, chẳng thể nào tin nỗi. "Ðúng thế, ân huệ đó quá lớn lao. Những mặc cảm, những bất hạnh của tôi đã được xoá bỏ. Từ nay tôi được vào một đời sống mới, tôi được công nhận là người như mọi người khác. Và vì thế, tôi đã trở lại với Ðấng đã làm ơn cho tôi, trở lại để bày tỏ tấm lòng của tôi, và cũng để công bố cho mọi người biết, Ðấng làm ơn cho tôi có tấm lòng yêu thương vô biên." Người ấy, có phải là chúng ta ? Những người phung hủi ấy tượng trưng cho chúng ta. Khi mọi sự yên ỗn, sức khoẻ, công việc làm ăn đều tiến triển tốt đẹp, chúng ta nghĩ rằng chúng ta có quyền hưởng những thành quả ấy đúng như sự khôn khéo và hiểu biết của mình. Chỉ cần một chút thông minh, một chút mánh lới là chúng ta sẽ tránh được những điều tệ hại. Chúng ta chẳng cần phải cầu xin : "Xin dủ lòng thương chúng con." Chúng ta không cảm thấy mình bệnh hoạn, thiếu thốn, và khi ấy, Thiên Chúa không thể làm gì được. Nhưng khi mắc phải bệnh phung hủi, khi tai hoạ ập xuống, khi xảy ra những nguy hiểm, những cám dỗ, những tật bệnh ... khi bất thình lình, cuộc đời chúng ta thay đỗi, lúc ấy, một cách tự nhiên, chúng ta chạy đến với Ðấng có thể cứu thoát và thưa : "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng con." Ðó là tiếng kêu của ân sủng. Mặc dù có những lúc dường như Thiên Chúa không đáp lại, nhưng Người vẫn luôn nghe thấy. Không có tiếng kêu nào của con người bị bỏ quên, không có tiếng kêu nào của con người mà Thiên Chúa lại không nghe thấy. Người sẽ chữa lành, chữa lành toàn diện. Như thế, chúng ta phải nhận thấy mình mắc bệnh và cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và khi đã phó thác, đã đặt niềm tin tưởng nơi Người, chắc chắn Người sẽ nhận lời, sẽ chữa lành, dù chúng ta thế nào chăng nữa. Thiên Chúa không xét chúng ta là ai, chúng ta như thế nào, Người chỉ cần lòng tin của chúng ta. Và cũng như người Samari, chúng ta sẽ phải trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn nhận Ðấng đã làm ơn cho mình, không chỉ là biết nhận ân huệ, nhưng còn phải nhận ra Ðấng đã thi ân. Chính điều đó làm cho chúng ta nhận được thêm những ân huệ khác. Người Samari đã vượt ra khỏi giới hạn của Lề Luật để bước vào thế giới ân sủng, bởi vì anh có tấm lòng. Nhận thức rõ ân huệ mình đã lãnh nhận, anh đã cư xử như nhận thức đó thúc đẩy, không theo một quy tắc nào cả. Không phải ai cũng có được tấm lòng như thế : Trong mười người, chỉ có một người trở lại mà thôi. Chúng ta có phải là người ấy ? * * * "Ngay khi đọc câu chuyện chín người được chữa lành và mất dạng trong Tin Mừng, tôi liền khám phá ra nơi họ khuôn mặt của các cộng đoàn chúng ta, vẫn thường có tính hay quên và vô ân. Tôi cũng nhận thấy nơi người Samari trở lại để tạ ơn Ðức Giêsu hình ảnh dân mới của Thiên Chúa. Con người mới này, con người xa lạ với Tin Mừng, con người không có thái độ chán ngán trước Lời Chúa, đã được Tin Mừng biến đỗi và đã làm cho Ðức Giêsu phải ngạc nhiên. Này đây Lời đã chết nơi những con người được coi là đạo đức, nay đang tái sinh ở ngoài họ, nơi một con người xa lạ với mọi nghi lễ tôn giáo của họ. Này đây Tin Mừng đang trỗi vượt lên cách bất ngờ bên ngoài mọi truyền thống và thói quen. Chỉ một mình người lạ này, người đã trở lại để tạ ơn Thiên Chúa, là tất cả niềm hy vọng của Ít-ra-en, là lời mời gọi nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Ðức Ki-tô giữa trần gian. Ðó chính là nét độc đáo của Tân Ước : Xưa kia, Cựu Ước kêu mời dân ngoại nhìn vào dân Ít-ra-en, còn giờ đây, Tân Ước kêu mời những người nhiệt thành hãy nhìn và lắng nghe sự thật đang được Ðức Ki-tô bày tỏ giữa trần gian." (theo G. Casalis ) Giacôbê Phạm Văn Phượng op Vô ơn, biết ơn (Lc 17,11-19) Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, theo thánh Lu-ca. đây là lần thứ ba Chúa đến đây và cũng gần tới ngày Chúa chịu nạn. Khi đi tới gần biên giới Samari và Ga-li-lê, thì gặp 10 người phong hủi van xin Chúa cứu chữa. Chúa không chữa ngay, nhưng bảo họ đi trình diện các tư tế. Đây là luật của người Do Thái, không phải các tư tế làm cho họ khỏi bệnh, nhưng là để xác nhận họ đã khỏi bệnh. Nghe lời Chúa, họ ra đi, và khi đi dọc đường, cả 10 người đều được khỏi, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa, tỉ lệ một phần mười, thật là đáng buồn. Đây cũng là điều chúng ta chú ý tìm hiểu và suy nghĩ : vô ơn và biết ơn. Có người nói : “Con người thường hay ích kỷ : muốn người khác phải trả ơn mình, biết ơn mình, còn mình không để ý cám ơn ai”. Hơn nữa, người ta dễ quên ơn hoặc mau quên ơn, cũng như cả năm ngàn người được ăn bánh hóa nhiều lần thứ nhất và bốn ngàn người lần thứ hai; bao nhiêu người được hưởng sóng gió yên lặng, mẻ cá lạ, được chữa lành bệnh tật…Nhưng đến khi Chúa vác thập giá thì chỉ có một người vác đỡ Chúa, đó là ông Si-mon, nhưng là do quân lính bắt vác chứ không phải ông tự nguyện; chỉ có một phụ nữ cảm thương trao khăn cho Chúa lau mặt, đó là bà Vê-rô-ni-ca; rồi khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì chỉ có một người dám lên tiếng xưng đức tin, biện hộ cho Chúa là vô tội, đó là một người ăn trộm. Đời là thế. Lẽ ra phải “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, “có đi có lại mới toại lòng nhau”, lẽ ra phải “ăn cây nào rào cây ấy”, “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”… Đó là phép xã giao, lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy mới là người biết điều. Lẽ ra phải như vậy, thì lại “ăn cháo đá bát”, “vắt chanh bỏ vỏ”, “có trăng phụ đèn”, “ăn mật trả gừng”, “ăn sung trả ngải”… Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn, hàm ơn thì lại quá ít, đếm số người biết ơn thì dễ hơn số người vô ơn, vì số người này quá lớn, có những con cháu vô ơn, có những học trò vô ơn, có đủ thứ người vô ơn, thậm chí có người nói một cách chua chát : “Ném cho con chó một khúc xương, nó vẫy đuôi tỏ vẻ cám ơn, còn làm ơn cho một người, thì rồi bạn sẽ thấy người ấy làm gì cho bạn ?”. Chúng ta nhìn nhận rằng : làm ơn thì không đòi trả nghĩa, nhưng đã chịu ơn thì phải biết ơn : “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tuy nhiên, nếu làm ơn mà mong người sẽ trả ơn lại mình thì đó chỉ là một việc bình thường và tầm thường, nếu không muốn nói là xấu, tính toán, ích kỷ và vụ lợi. Nhưng nếu làm ơn mà không đòi trả nghĩa thì đó mới là tấm lòng vàng, cao quý, cao thượng. Ngược lại, nếu đã chịu ơn thì phải biết ơn. Bổn phận biết ơn không có nghĩa là đổi chác, bồi hoàn, nhưng là một sự bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị tinh thần và vật chất đã nhận được. Một món quà chúng ta nhận được, không những có một giá trị vật chất bằng tiền của trong đó, nhưng còn gói ghém bao tình thương, tình cảm quý mến và hy sinh của người cho hay tặng món quà ấy. Có những món quà mà vật chất chỉ là vỏ, còn ruột là tình yêu. Nhận ra được như thế, hiểu được như thế mới thấy, mới biết ơn huệ là gì. Dĩ nhiên, chúng ta đừng chỉ coi những gì lớn lao mới là ơn, bất cứ những gì người khác đem lại cho chúng ta : một niềm vui, một sự bình an, một sự thăm hỏi…đều là ơn và chúng ta phải biết ơn. Chúng ta hãy nhớ : biết ơn người khác làm cho tấm lòng họ càng mở rộng thêm ra, đúng như câu nói : “một lần cám ơn là hai lần xin ơn”, một lời cám ơn được nói ra, không mất mát gì, không tốn kém gì, nhưng sẽ làm phát sinh nơi người làm ơn cũng như người thụ ơn một niềm vui lan tỏa. Một câu cám ơn trên môi miệng có giá trị như vậy, nên nếu chúng ta không biết ơn thì giá trị con người chúng ta chẳng hơn gì chín người phong hủi kia : “ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Biết ơn là một tập quán mà mọi người phải học tập, có nghĩa là chúng ta quý mến những gì người khác làm cho chúng ta và không coi chúng là những chuyện dĩ nhiên phải thế, không nhận nhưng không. Khi người khác làm gì cho chúng ta, nhất là những việc chúng ta không có quyền hy vọng được làm, thì việc tối thiểu chúng ta phải làm là nói “cám ơn”. Những người phong hủi không có quyền được chữa lành, nhưng chỉ có một người tỏ ra biết điều trở lại cám ơn Chúa. Sống với nhau, chúng ta còn phải biết đối xử với nhau như thế, còn phải biết ơn người làm ơn cho mình, thì chúng ta lại càng phải biết ơn Thiên Chúa nhiều hơn nữa. Lòng biết ơn Thiên Chúa là thái độ làm con mà Chúa Giêsu đã làm gương, Ngài luôn luôn cảm tạ Chúa Cha thay cho chúng ta; thánh Phao-lô không ngừng tạ ơn Thiên Chúa thay cho các tín hữu và kêu gọi họ sống tâm tình biết ơn này. Lòng biết ơn Thiên Chúa còn là thái độ sâu xa nhất của lòng tin, đồng thời làm tăng thêm lòng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ : tạ ơn Chúa là dấu tỏ lộ lòng tin vào Thiên Chúa, là tuyên xưng lòng tin của mình. Tóm lại, đời chúng ta là kết tinh của bao công ơn, chúng ta phải biết ơn, cám ơn mọi người có liên hệ gần xa với chúng ta, tất cả đều là những ân nhân của chúng ta. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết ơn và cảm tạ Chúa luôn luôn, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là những ơn Chúa ban. Cảm tạ Chúa là một sự công bằng, hợp lý, không bao giờ đủ, cả đời sống dương thế để mà tạ ơn Chúa cũng không đủ, huống chi chúng ta chỉ thỉnh thoảng cám ơn, thậm chí quên bẵng luôn những việc tạ ơn, thì thật là bất hiếu, bất kính biết bao. Lm. Jude Siciliano, OP. Tạ Ơn Chúa Đã Chữa Con Nên Sạch (Mt 17, 11-19) Thưa quý vị, Đọc Phúc Âm hôm nay khiến tôi nhớ đến chuyện gia đình sáu năm về trước. Thời ấy vào mùa Giáng Sinh tôi về thăm, cha tôi 95 tuổi đau nặng. Khi tôi có mặt ở nhà, ông mắc sốt rét. Chúng tôi giúp đỡ ông ăn vận sạch sẽ và đưa đến bệnh viện bằng xe lăn. Khi bác sĩ khám bệnh, ông bỗng nhiên hỏi tôi : “Ta sẽ mạnh lại chứ ?”. Tôi cam đoan sẽ mạnh giỏi. Tôi sực nhớ tôi cũng hỏi cha tôi như vậy khi còn bé, và cha tôi trả lời đúng câu của tôi. Hoàn cảnh tương tự, chỉ khác người hỏi và đáp. Cha tôi và tôi đổi vị trí cho nhau. Khi còn bé, tôi hỏi cha và người âu yếm trả lời, lúc này người hỏi và tôi trả lời đầy thương yêu và kính trọng. Về nhà, bà Mẹ đưa tôi xem tấm hình chụp cha tôi nhiều năm về trước. Lúc ấy ông khoảng ba mươi tuổi, làm nghề đưa thư ở vùng Brooklyn, cha tôi có nụ cười tươi, rộng, bước đi tự tin với cái túi đựng thơ trên vai. Trong túi đủ mọi thứ hàng hoá thuộc nghề nghiệp của ông: tạp chí, nhật trình, thơ từ, bưu phẩm, nặng cả bên vai. Tôi chăm chú nhìn vào tấm hình và nhớ lại lần đi bệnh viện vừa qua và câu ông hỏi tôi từ chiếc ghế xe lăn: “Liệu Cha khoẻ lại được không ?”. Người đưa thơ đã trải qua một hành trình dài trong cuộc đời. Người ta thường mô tả cuộc đời là một hành trình. Đúng vậy khi còn trẻ chúng ta đi học, chơi thể thao, kết bạn bè, lập gia đình và lên kế hoạch cho tương lai. Có những thành công và thất bại, hò hẹn, yêu đương, nghề nghiệp, con cái, lao động cực nhọc, trung thành, phản bội. Rồi đến thời kỳ già yếu, hưu trí, chắu chắt, bệnh hoạn và qua đời. Mỗi giai đoạn đều có đặc tính riêng, không thay thế được. Có những vui buồn sướng khổ, hỉ nộ, ái ố không giống nhau. Chẳng giai đoạn nào tốt hơn giai đoạn nào xét về tình cảm và công nghiệp, niềm vui và thách đố, cơ hội và ý nghĩa. Dĩ nhiên dọc theo dòng chảy của cuộc sống, chúng ta để lại các dấu chân và khi nhìn lại sẽ thấy chúng khác nhau tuỳ vào từng giai đoạn. Có những lúc nhẹ nhàng và đầy tự tin giống như cha tôi với túi thơ trên vai. Nhưng cũng có lúc nặng nề và sâu đậm khi gặp khó khăn thử thách. Hơn nữa còn dấu vết của vấp ngã trỗi dậy hoặc lê gối trên mặt cát. Một vài dấu lạc hướng hoặc sai đường mà nhìn lại chỉ thấy ân hận: “Tại sao tôi đã hành động như vậy ? Tôi đã nghĩ chi vào lúa ấy ? Nếu nhận ra tôi chẳng hề làm như vậy …”. Lúc này trước Thánh Thể chúng ta hỏi lương tâm như vậy. Vậy hành trình của chúng ta không luôn tốt đẹp và thuận lợi. Nó thay đổi tuỳ vào hoàn cảnh và thời gian. Nhưng nó tỏ bày bản chất của mình. Bản chất luôn trôi nổi nếu không có bàn tay Thiên Chúa dẫn dắt. Phúc Âm hôm nay có điều chi nói với chúng ta về chuyện này ? Đức Giêsu cũng đang làm cuộc hành trình và hành trình về Giêrusalem. Ngài luôn biết rõ mình ở đâu và đi đâu. Đó là cuộc hành trình đầy khó khăn. Người trông thấy trước những gì đang chờ mình. Vậy mà không thối chí quay lại, trì hoãn. Người nhất quyết đi lên Giêrusalem vì nhân loại: “Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu vượt qua biên giới Galilea và Samaria. Lúc vào một làng kia thì có mười người phong cùi gặp Người. Họ dừng lại đàng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thày Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Phúc Âm kể có đám đông cùng đi với Người. Một số là môn đệ, số khác vì tò mò. Vậy theo Chúa không nhất thiết biến người ta thành môn đệ Chúa. Riêng những người phong cùi thì không biết mình đi đâu, ngoài việc chạy đến với Đức Giêsu để kêu xin Ngài. Nếu không, hành trình của họ là vô định và tuyệt vọng. Và chúng ta thì sao? Cứ nhìn vào cách sống của chúng ta khắc rõ, không cần bình luận. Những kẻ phong hủi này đi đâu ? Bất cứ nơi đâu họ cũng bị coi là nhơ uế và bẩn thỉu. Chẳng ai tiếp đón họ, chẳng ai mong muốn họ. Họ không được về gia đình, cũng không được phép trú ngụ ở thành thánh, hoặc cầu nguyện ở đền thờ. Người ta xua đuổi họ. Số phận họ thật đau xót và bi thảm. Tôi được nghe một nhà truyền giáo dòng Maryknoll ở Triều Tiên kể về số phận của các người cùi tại nước ấy. Linh mục truyền giáo cho họ tới 40 năm. Họ bắt buộc phải sống cô đơn, biệt lập khỏi các khu dân cư. Mỗi năm gia đình đến thăm một lần. Trước ngày thăm, người ta sửa soạn cho họ một cánh đồng, có dây chăng cách xa chừng 50 mét. Gia đình đứng ở ngoài gọi to tên thân nhân của mình. Các bệnh nhân cũng nói chuyện với họ hàng như vậy. Đó là cuộc gặp gỡ hàng năm. Nhìn vào những người phong cùi hôm nay, chúng ta thấy họ không đồng chủng, có người Do Thái và có người Samaritanô, hai giống người vốn thù ghét nhau, nay họp thành một nhóm. Bệnh tật và đau khổ đã nối kết họ nên một. Một vài triết gia đã nhận xét: “Dù cấp bậc xã hội thế nào đi nữa, thì người ta cũng đổ nước mắt giống nhau”. Khi bạn ở nấc thang cuối cùng của xã hội, như những người phong cùi hôm nay, thì tôn giáo, học thức, giàu sang, dòng giống còn có ý nghĩa chi? Nếu chúng ta đồng hoá mình với các kẻ phong cùi trước mặt Thiên Chúa, chúng ta có thể phân biệt đối xử với nhau không? Sở dĩ chúng ta phân cấp là vì chúng ta coi mình thanh sạch, ông nọ bà kia, mà thực chất không phải như vậy. Chúng ta còn hơn cả phong cùi vì còn kiêu căng quá đáng. Cho nên Phúc Âm hôm nay dạy chúng ta bài học sâu sắc, nhất là biết cầu nguyện ra sao. Tâm hồn tín hữu luôn cảm nghiệm nhu cầu về Đấng Tối Cao trợ giúp, và chỉ mình Ngài thoả mãn được điều này. Tất cả mọi người đều bước những bước sai lầm, đều cảm thấy ân hận và tách mình khỏi người khác. Vậy trong bất cứ giai đoạn nào của cuộc sống, chúng ta phải kêu lên cùng Chúa Giêsu: “Lạy Thày, xin thương xót chúng con”. Ngày nay vì kiêu ngạo, từ thương xót xem ra chói tai. Chúng ta không muốn nhờ lòng thương hại của ai. Đấy là điều chúng ta phải học từ những người phong cùi, Họ là những người không có gì để tự phụ, Họ gặp ai có thể giúp họ được là họ kêu đến người đó. Nên khi họ trông thấy Đức Giêsu trước mặt là giãi bày nhu cầu của mình Nhưng họ không được lành sạch ngay tức thời. Họ phải đi trình diện với các tư tế. Thánh Luca kể: “Đang khi di đường, thì họ thấy mình được thanh sạch”. Họ được Đức Giêsu hoàn lại nhân phẩm và địa vị trong xã hội. Không còn bị phân biệt đối xử và loại trừ. Một cuộc sống mới khởi sự. Họ tiếp tục cuộc hành trình mà không còn tự ty, họ có thể quên đi những dấu chân quá khứ. Tôi tưởng tượng họ bước đi trên đường, tới gặp các tư tế. Trước hết là nặng nề chậm chạp, những dấu lê bước chứng tỏ cuộc đời không mục tiêu, rồi dần dần nhanh nhẹn, đều đặn hơn, cuối cùng vững vàng và tự tin. Chỉ có mỗi mình người Samaritanô thấy mình được sạch, ngỡ ngàng và quay lại tạ ơn thày Giêsu. Tuy chẳng đạo đức gì hơn các đồng bạn cùi mà lại là người ngoại, nhưng anh đã nhận ra nguồn mạch chữa mình là Đức Giêsu. Chúng ta hãy bắt chước anh ta. Chúng ta là những người cùng đi chung với nhau trên một quảng đường đời. Nhiều lần chúng ta đã vấp ngã cần được chữa trị và cứu giúp; nhờ Chúa Giêsu chúng ta mới được hoàn toàn lành mạnh ngay cả khi gần lìa đời chúng ta lại càng cân Chúa giúp đỡ nhiều hơn và cũng như những người cùi chúng ta cân được chữa trị khi : - Có người anh em nhắc nhở chúng ta tự vấn lương tâm về cuộc sống chưa tốt hiện tại. - Chúng ta sắp thực hiện một hành vi quan trọng đối với tha nhân trong quan hệ xã hội. - Cha mẹ dạy chúng ta cách quên mình phục vụ tha nhân trong những trường hợp đầy gian nan trắc trở, mồ hôi và nước mắt. - Chúng ta bị “lực bất tòng tâm” cân lời khuyên bảo, an ủi để tìm đến hy vọng tương lai. - Chúng ta sa ngã cần được nâng đỡ trợ giúp. - Bị buồn phiền vì có người thân hay bạn bè thân thiết qua đời. Chúng ta được chữa lành, được thêm sức, được can đảm trong hy vọng một cách đặc biệt nhờ đó chúng ta sẽ mừng rở hân hoan. Hãy nhớ đến người cùi Samaritanô ; anh ta đang đi trên đường bổng thấy mình được lành bệnh và biết ngay là Chúa Giêsu đã chữa cho anh. Có thể vì là dân ngoại, nên Anh khâm phục và kính trọng quyền năng của Đức Chúa Trời, anh không có đền thờ nào khác để dâng lễ vật, nên bắt buộc phải trở lại tạ ơn vị ân nhân của mình. Phúc Âm kể: “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Đó là thái độ tôn thờ. Chính Đức Giêsu tuyên bố: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”. Đức tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đã chửa bệnh cho chúng ta. Đức tin giúp chúng ta nhớ là chúng ta không sống cô độc trong những gian nan của cuộc sống vì có Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta, Ngài đang nâng đở và phụ giúp chúng ta đương đầu với nghịch cảnh cho tới khi chúng ta được bình an và thanh sạch tội lỗi Người Samaritanô thực sự nhận ra quyền phép của Đức Giêsu và quay trở lại tạ ơn Người. Chúng ta nên khiêm tốn noi gương ông. Đừng tự cao tự đại cho rằng mình là bổn đạo gốc, quá quen thuộc với ân huệ Thiên Chúa. Các tín hữu cũng sẽ được cảm nghiệm niềm vui ấy, nếu thực sự nhận ra mình cùi hủi trước mặt Thiên Chúa và kêu xin Ngài cứu chữa. Amen. Phanxicô X. Trần Đức Tuân op Hãy Sống Tâm Tình Tạ Ơn Đức Chúa Lc 17:11-19 Người Do Thái xưa quan niệm rằng bệnh tật là do Chúa phạt, nhất là với những người mắc bệnh cùi, họ bị cách ly ra khỏi cộng đoàn, thậm chí người cùi còn không được coi là con cái Thiên Chúa. Dần dần, bệnh cùi trở thành biểu tượng của căn bệnh thiêng liêng. Tuy nhiên, đối với Đức Giêsu, Người không những không coi thường những người bị mắc bệnh cùi, mà ngược lại còn thông cảm với họ, yêu thương và chữa lành họ. Vậy mà trong số mười người phong cùi được Chúa chữa lành ấy, chỉ có một người biết quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu. Câu nói của Đức Giêsu : “Sao chỉ có người ngoại bang này?” vừa là một câu hỏi và cũng là lời than trách thái độ vô ơn của những người không biết tạ ơn Chúa. Lời Chúa hôm nay không những cho chúng ta biết tạ ơn là một hành vi tốt, được Thiên Chúa chấp nhận, mà còn cho chúng ta thấy đâu là cách thức tốt nhất để tỏ lòng biết ơn. Tạ ơn là lời khen ngợi vang lên mãi, tạ ơn là lời chúc tụng tình thương Chúa đến muôn đời. Cách thức để chúng ta tạ ơn Chúa là sống yêu thương và quảng đại giúp đỡ những người chung quanh, biết đón nhận trong tin yêu phó thác. Như mẹ Têrêxa nói : “Cách thức tốt nhất để chúng ta biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa và con người, chính là chấp nhận mọi chuyện trong niềm vui”. Như thế, cách thức tạ ơn tốt nhất không phải là dâng lễ vật dù nhiều và quí, nhưng chính là hoán cải tâm hồn, thay đổi cách sống, từ bỏ những thói hư tật xấu, từ bỏ tà thần để chỉ tôn thờ Chúa là Thiên Chúa duy nhất. Chính tâm tình tôn thờ này mới là cách thức tạ ơn được Thiên Chúa chấp nhận và chúc phúc. Thánh Phaolô đã làm gương cho ta về tâm tình và thái độ biết ơn này : xưa thánh Phaolô bắt đạo Chúa, và sau khi được ơn trở lại, chúng ta không thấy thánh nhân dâng lễ vật nào, nhưng là biến đổi tâm tình ghét bỏ danh Chúa Giêsu, trở thành tôn thờ Chúa Giêsu và hiến dâng trọn cuộc đời còn lại để rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và phục sinh. Như thánh nhân nói : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúng con nhìn nhận rằng, trong cuộc sống, chúng con đã nhận được nhiều ân sủng Chúa ban: được sinh làm người, được làm con Chúa, được Chúa cứu chuộc… chúng con lãnh nhận nhờ Bí tích Rửa tội. Vậy mà mấy người trong chúng con biết tạ ơn Chúa? Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hướng tâm hồn lên Chúa và hằng cảm tạ Ngài. Xin dạy con biết sống quảng đại như Chúa. Xin cho con biết chết đi cho con người tội lỗi, chết đi cho những ích kỷ, những đam mê để chỉ biết sống cho Chúa và cho tha nhân. Lạy Chúa, Chúa đã cứu chữa những người cùi, Chúa đã phục vụ mà không phân biệt ranh giới. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết phục vụ tha nhân mà không phân biệt người ấy là ai, giàu sang hay nghèo, thấp hèn hay quyền thế. Lạy Chúa, ước chi đời con là lời tạ ơn dâng lên Chúa. Với những tâm tình thờ lạy, chúc tụng, cảm tạ, yêu mến. Amen. Đỗ Lực op Như Một Quyền Năng (Lc 17:11-19) Trong một thị trấn kia, sáng dậy, dân chúng ngạc nhiên thấy một tấm bảng ghi “Thượng Ðế đã chết. Ký tên : Nietzche.” Hôm sau, dân chúng còn sững sờ hơn nữa khi một bảng mới xuất hiện ngay bên cạnh : “Nietzche đã chết. Ký tên : Thượng Ðế.” Một giai thoại vắn gọn, nhưng cũng đủ nói lên tình trạng mâu thuẫn trước một thực tại lớn lao giữa Thiên Chúa và con người. Không tin Thiên Chúa, con người làm được gì ? Lằn ranh rất rõ giữa vô thần và hữu thần. Nhưng liệu giữa những người hữu thần, có vấn đề gì không ? Ðâu là khác biệt giữa những người cùng tin Thiên Chúa ? TÍN NGƯỠNG HAY TÔN GIÁO Vấn đề đức tin nổi cộm trong phép lạ Chúa cứu mười người phong cùi hôm nay. Cuối câu truyện, thánh Luca ghi lại vắn tắt lời Chúa : “Ðức tin của con đã cứu con !” (Lc 17:19) Chúa quả quyết về quyền năng của lòng tin, đồng thời ca ngợi người phong cùi Samaria. Nhưng phải chăng trong số mười người, chỉ có người này mới có đức tin ? Thực tế, cả mười người đều có đức tin. Nếu không, họ đã không đồng thanh kêu lên : “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi !” (Lc 17:11) Ðức tin của họ tỏ ra mãnh liệt khi tất cả đều vâng lời Chúa đi trình diện các tư tế. Nếu không có đức tin, chắc chắn họ đã không đón nhận phép lạ từ quyền năng Thiên Chúa. Thế nhưng, tại sao Chúa chỉ ca ngợi đức tin của người Samaria ? Chính tại đây, chúng ta mới thấy rõ sự khác biệt giữa những người tin. Ðức tin của chín người kia dừng lại ở biên giới trần gian. Họ đặt hy vọng vào Chúa trong những nhu cầu trần thế. Họ kêu cầu Chúa khi cần. Chúa trở thành một nhu cầu cho những người tin bằng một con mắt trần tục. Khi cuộc sống không còn thiếu thốn nữa, Thiên Chúa trở thành một thứ xa xỉ phẩm hay như một thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Trái lại, dù khi đã được hoàn lại đầy đủ khả năng và quyền làm người, người Samaria vẫn trở lại tạ ơn Chúa. Không những ông thấy điểm nối kết giữa quyền năng Thiên Chúa và việc chữa bệnh của Chúa Giêsu, nhưng còn thấy cần thờ phượng Thiên Chúa ngay giữa lúc hạnh phúc. Quả thế, cảm tạ là đỉnh cao trong việc thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có một đức tin trọn vẹn mới đẩy con người lên đỉnh cao như thế. Ðức tin của ông đã vượt qua những nhu cầu vật chất. Chúa không phải là một thủ kho, chỉ biết phân phát thực phẩm. Ông đến với Chúa không phải chỉ để cầu xin cho khỏi bệnh tật, nhưng còn để thỏa mãn nhu cầu tôn giáo trong ông. Chỉ những ai “thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và sự thật” mới đạt tới đỉnh cao như thế. Quả thực, cả cuộc đời Chúa Giêsu cũng chỉ là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha không ngừng. Trong số những người tin Thiên Chúa, hỏi mấy ai được như người Samaria ? Mấy ai có một niềm tin trọn vẹn và siêu thoát như ông ? Ông là số ít còn sót trong nhân loại vươn tới đỉnh cao niềm tin vào Thiên Chúa. Bao giờ cũng chỉ là số ít. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhìn vào phẩm chất của đức tin hơn số lượng người tín hữu tập trung trong nhà thờ hay nối đuôi nhau trong các cuộc rước kiệu. Khi đạt tới đỉnh cao như thế, đức tin trở thành một sức mạnh giải thoát toàn diện, cả linh hồn lẫn thể xác. Ðó là lý do tại sao Chúa ca ngợi lòng tin của người Samaria. Chỉ có đức tin như thế mới là đức tin đầy quyền năng thực sự. Ðức tin sâu xa và trọn vẹn không những đã biến đổi con người, nhưng còn cả cuộc đời ông. Chín người kia trở về cuộc sống tầm thường. Không có gì thay đổi sâu xa. Nhưng nơi ông, một cuộc biến đổi vô cùng lớn lao tận trong thâm tâm và lan tỏa cuộc sống. Từ nay, ông trở thành người rao giảng đức tin bằng tiếng ca ngợi Chúa không ngừng. Một lời cảm tạ mạnh hơn ngàn lời cầu xin. Cầu xin là dấu chứng tỏ một tâm hồn còn yếu đuối, chưa vươn tới mức trưởng thành. Vì sợ hãi, con người mới phải cầu xin một thần lực mạnh hơn mình. Ðó là lý do tại sao những người vô thần chủ trương tôn giáo phát sinh từ sự sợ hãi. Ðứng trước cảnh người Samaria phủ phục dưới chân Chúa mà dâng lời cảm tạ, người vô thần có lẽ sẽ thấy rõ vấn đề họ đặt ra cho tôn giáo không còn đứng vững nữa. Lập luận của họ chỉ đúng cho chín người không trở lại tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa. Khi không còn cơn bệnh hoành hành và tác hại, chín người đó đã thoát cơn sợ hãi và không còn cảm thấy cần phải tin nữa. Tôn giáo cũng không còn là một nhu cầu trong cuộc sống. Trái lại, người Samaria vẫn cho thấy tôn giáo là một nhu cầu tâm linh thực sự của một con người trưởng thành. Tôn giáo đem lại ích lợi vì làm cho con người trở thành người thực sự. Tôn giáo mới nắm bắt trọn vẹn thực tại con người và giúp họ đạt tới chiều kích sung mãn về nhân vị. Quả thế, “chính Thiên Chúa chỉ cho nhân loại biết con đường, để khi phụng thờ Người, con người có thể được cứu rỗi và hạnh phúc trong Chúa Kitô.” (1) QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO Tự bản chất, con người hướng về chân lý, nhất là chân lý về tôn giáo. Khi đã tìm thấy chân lý, họ có bổn phận tin theo những điều đã nhận biết và sống theo những đòi hỏi của chân lý. Người Samaria là một chứng minh hùng hồn cho thực tế đó. Tôn giáo phải có một địa vị rõ ràng trong đời sống cá nhân và xã hội. Phủ nhận hay dẹp bỏ tôn giáo, con người và xã hội không thể đạt tới sự phát triển và tiến bộ đích thực. Thực tế, “‘quyền tự do cá nhân và đoàn thể trong các lãnh vực tôn giáo là quyền tự do xã hội và dân sự. Không ai được đặt ngăn trở nào trên con đường thực thi quyền tự do đó theo ý Thiên Chúa đã khắc sâu vào lòng người, vì ‘sự thật chỉ thể áp đặt bằng sức mạnh của chính mình.’ (2) Phẩm giá con người và chính bản chất việc tìm kiếm Thiên Chúa đòi hỏi mọi người không thể bị bất cứ thứ gì ràng buộc trong lãnh vực tôn giáo. Xã hội và Nhà nước không được ép buộc con người hành động trái với lương tâm hay ngăn cản họ hành động theo lương tâm.” (3) Tự bản chất, con người là một hữu thể tôn giáo. Loại bỏ tôn giáo, con người chỉ còn hiện diện như cỏ cây và súc vật. Khi không còn được tự do sống đạo, con người bị tước đoạt quyền tự do cơ bản, cao cả và lớn lao nhất. Bởi vậy, “quyền tự do tôn giáo phải được nhìn nhận trong hệ thống pháp luật và coi như một quyền dân sự,” (4) chứ không phải là một thứ ân huệ của Nhà nước. Nhà nước có bổn phận bảo vệ và tôn trọng quyền tự do đó. Nếu không, xã hội không thể đạt tới công ích và sống trong trật tự hòa bình. Quả thế, “tự do cá nhân và cộng đoàn trong việc tuyên xưng và thực thi tôn giáo là một yếu tố then chốt giúp con người sống chung hòa bình.” (5) “Không có tôn giáo, nhân loại không thể sống chung trong trật tự và công lý đích thực, cũng như không thể giữ cho mọi người sống đạo đức. (6) Chỉ có tôn giáo mới giúp con người sống theo lương tâm, một lãnh vực Nhà Nước không thể kiểm soát. Khi không thể kiểm soát, Nhà Nước tạo ra rất nhiều lỗ hổng và lối thoát cho đủ mọi thứ tội phạm. Công lý không thể thiết lập. Hòa bình bị đe dọa trầm trọng. Xã hội không bao giờ ổn định. Tình trạng càng thêm khó khăn khi nhân loại bước sang thời kỳ toàn cầu hóa. “Ðể có tình liên đới tương xứng trong thời kỳ toàn cầu hóa, mọi người phải bảo vệ nhân quyền.” (7) Không liên đới, không thể tạo nổi sức mạnh toàn cầu và không đủ điều kiện cần thiết cho việc hội nhập. Thực tế, “chúng ta đang chứng kiến một khoảng cách đáng báo động giữa nhiều ‘qưyền’ mới được cổ xúy trong các nước tiên tiến và các quyền làm người căn bản vẫn chưa được tôn trọng, nhất là trong hoàn cảnh các nước kém phát triển,” (8) như Việt Nam. Bởi đấy, muốn phát triển, trước hết cần cải tiến tình trạng nhân quyền, nhất là tôn trọng tự do tôn giáo. Không có nhân quyền, không thể thoát khỏi tình trạng chậm tiến và lạc hậu. ÐỨC TIN TRONG THỜI KỲ TOÀN CẦU HÓA Ðâu là thái độ GHVN cần phải có để giúp cho Việt nam chóng hội nhập với thế giới ? Trước hết, cần liên đới với các tôn giáo bạn và những người thiện chí trong việc tranh đấu cho công lý. Về mặt xã hội cần sát cánh tranh đấu cho tự do tôn giáo. Nếu chỉ biết vơ vào cho mình đủ mọi thứ đặc quyền, không những chúng ta sa bẫy trần gian mà còn bị các tôn giáo bạn đánh giá thấp. Hơn nữa, cần đẩy mạnh và đào sâu đời sống đức tin hơn nữa. Canh tân não trạng, và lối sống, nhất là phương cách lãnh đạo, là những việc làm khẩn thiết. “Cần đổi mới ý thức về những đòi hỏi Tin Mừng, Giáo hội mới phục vụ mọi người, giúp họ nắm bắt những vấn đề nghiêm trọng trong mọi chiều kích, và thuyết phục họ tin rằng sự liên đới trong hành động trong thời điểm xoay chuyển lịch sử nhân loại này là một vấn đề khẩn thiết.” (9) Giáo hội nhắc nhở : “Hoàn cảnh hôm nay càng cho thấy phải cấp bách đào luyện giáo hữu về giáo lý, không phải chỉ để cho họ hiểu biết hơn theo đòi hỏi tự nhiên của đức tin, nhưng còn khiến họ ‘thấy lý do tại sao phải hy vọng’ khi nhìn vào thế giới và những vấn đề nghiêm trọng và phức tạp của nó ... Ðiều đó càng đúng đặc biệt đối với các tín hữu đang nắm trọng trách trong những lãnh vực khác nhau trong xã hội và cuộc sống quần chúng. Trên hết, họ cần phải có sự hiểu biết chính xác hơn, để có thể trình bày học thuyết xã hội của Giáo hội một cách rộng rãi và rõ ràng hơn.” (10) Ðặc biệt, trong thời kỳ toàn cầu hóa cần gấp rút đào luyện giáo hữu sống theo tình liên đới, thành thật và lương tâm trách nhiệm. Biết bao hàng hóa đã bị các nước trả lại chỉ vì thiếu tiêu chuẩn. Thói quen gian dối đã gây thiệt hại khôn lường. Trong cuộc sống Giáo hội, cũng nên bớt đi những việc xây cất có tính cách phô trương hay lưu danh muôn thuở. Xây cất theo kiểu này không những làm cho Giáo hội bị mang tiếng, nhưng còn làm cho quốc tế ngộ nhận về tình trạng tự do tôn giáo và nhân quyền ở Việt Nam. Vô tình đồng tiền hải ngoại đã góp phần vào việc phô trương thanh thế và củng cố chế độ hiện tại. Các vị lãnh đạo đừng ngộ nhận về các cộng đoàn Công giáo hải ngoại qua những bài viết hay các thái độ chống đối. Cộng đoàn hải ngoại không bao giờ quên nguồn gốc và tỏ ra bất kính đối với những vị lãnh đạo GHVN. Nếu thực tình ngoảnh mặt làm ngơ trước những sinh hoạt của Giáo hội quê nhà, cộng đoàn hải ngoại không bao giờ đóng góp ý kiến. Tất cả chỉ vì muốn các vị lãnh đạo hãy thực tế và biết lắng nghe. Không phải mọi giám mục hay linh mục đều bị chống đối. Nhưng những con sâu làm rầu nồi canh không nên tiếp tục hiện hữu. Cứ tiếp tục sống quan liêu, liệu GHVN có đủ khả năng canh tân để chống lại những tiêu cực trong hoàn cảnh hôm nay không ? Quả thực, theo thánh ý Thiên Chúa và “được Giáo hội khuyến khích, đời sống Kitô hữu phải chống lại mọi cội nguồn lừa đảo, gây ô nhiễm hay giới hạn tự do của họ.” (11) Thái độ thiếu nhất quán trong đời sống là một ngăn trở lớn lao nhất cho chứng từ Kitô. Nhiều người không thể chấp nhận Tin Mừng chỉ vì nhìn thấy những phản chứng tệ hại này. Ở nhà thì sống như một lãnh chúa, đầy kẻ hầu người hạ trong dinh thự nguy nga. Ra ngoài thì ra vẻ tội nghiệp như một “giám mục ăn xin.” Nhất là không nên có thái độ thiếu thành thực. Cần tôn trọng lời hứa. Không nên mượn đầu heo nấu cháo. Cần chú trọng đến thái độ tín ngưỡng hơn là thói quen tôn giáo. Nhìn lại người Samaria, chúng ta phải khâm phục thái độ biết điều của ông. Chúa không hề bó buộc ông phải trở lại cảm tạ Chúa. Ông đã tuân hành lệnh trình diện tư tế như chín người bạn kia. Ðó là một thái độ tôn giáo rất đáng khen. Nhưng vượt lên đồng bạn, ông đã có một thái độ tín ngưỡng sâu xa. Ông sống theo tiếng lương tâm và nhìn thấy con đường mình phải đi tới, dù phải chấp nhận cô đơn. Lạy Chúa, xin cho chúng con một niềm tin sâu xa như người Samaria để có thể biến cả cuộc đời thành một lời cảm tạ và phục vụ không ngừng cho công cuộc cứu độ và hạnh phúc nhân loại. Amen. đỗ lực - 14.10.2007 --------------- 1. Dignitatis Humanae 2. Hiến Chế Dignitatis Humanae, 1:AAS 58 (1966), 929. 3. Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, 421. 4. x. H.Chế Dignitatis Humanae, 1:AAS 58 (1966), 930-931; Giáo lý Công giáo, 2108 5. Sứ Ðiệp Ngày Hòa Bình Thế giới, 1988, 1. 6. ibid. 7. Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, 365. 8. ibid. 9. Octogesima Adveniens, 5. 10. Christifideles Laici, 60. 11. Ecclesiam Suam, 42. Lm. Jude Siciliano, OP (Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp) NIỀM TIN SẼ CỨU CHÚNG TA Luca 17:11-19 Bài đọc 1 hôm nay trích trong Sách Các Vua quyển thứ hai, đây chỉ là một phần câu chuyện về ông Na-a-man, người bị mắc bệnh phong hủi. (thật đáng tiếc khi chúng ta không được nghe toàn bộ câu chuyện này. Tôi chắc chắn nếu chỉ nghe phần trích đọc trong ngày hôm nay, người nghe sẽ cảm thấy mù mờ, khó hiểu – “Thế đầu đuôi câu chuyện là như thế nào?”). Ông Na-a-man là thuộc hạ thân cận của một ông vua ngoại quốc, nghe biết ngôn sứ Ê-li-sa, người Ít-ra-en có khả năng chữa bệnh phi thường. Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông đã đến xin ngôn sứ cứu chữa. Ngôn sứ Ê-li-sa nói với ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan. Thoạt nhiên, ông cảm thấy bực bội khi phải hạ mình đi tắm ở sông Giođan – một con sông rất bình thường, ông nói rằng, ở Syria chúng tôi chẳng có những con sông tốt hơn con sông này sao! Nhưng các tôi tớ đã khuyên ông hay thử làm theo lời dặn của vị ngôn sứ xem, cho nên ông đã làm theo lời chỉ dẫn của ngôn sứ Êlisa. Bài đọc một hôm nay chỉ tường thuật cho chúng ta biết phần cuối câu chuyện, phần kết quả – bệnh phong hủi của ông Na-a-man đã được chữa lành. Tuy nhiên không phải người phong hủi nào cũng được ngôn sứ Êlisa cứu chữa đâu. Na-a-man là một vị anh hùng trong quân đội của vua A-ram (nay thuộc Sy-ri-a), là kẻ thù của dân Ít-ra-en. Ông đã đánh bại dân Ít-ra-en và làm nhục họ trong chiến trận. Hãy tưởng tượng xem, câu chuyện này đã khiến cho những người bại trận Ít-ra-en kinh ngạc như thế nào; một kẻ xâm lược ngoại bang lại được Thiên Chúa Ít-ra-en chữa lành! Tuy nhiên, họ cảm thấy phấn khởi khi nghe câu trả lời của ông Na-a-man về việc chữa lành này. Lời đó nghe chừng như là lời tuyên xưng cua một người Ít-ra-en trung tín: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en”. Quả đó là một sự đền đáp xứng đáng cho niềm tin của chính vị lãnh đạo quân đội này, kẻ đã đánh bại nước Ít-ra-en nhỏ bé! Hoá ra ông Na-a-man còn cảm thấy một sự chữa lành sâu xa hơn nhiều so với việc được chữa lành thân xác. “Hành vi dìm mình xuống nước” trong dòng sông Gio-đan và kết quả được lành bệnh đã giúp mở con mắt đức tin cho ông Na-a-man. “Hình ảnh dìm mình xuống nước” – chẳng phải là dấu chỉ chúng ta đã làm khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nguồn gốc của sự thanh sạch tâm hồn và thể xác đó sao? Thiên Chúa đã hành động một cách lạ lùng nơi cuộc đời một kẻ ngoại giáo, hơn nữa còn là kẻ thù của dân Người. Thiên Chúa đã đi bước trước để người ta có cơ hội nhận ra và nhận biết các dấu chỉ của Người như ông Na-a-man đã nhận biết; hoặc người ta sẽ làm lơ và bỏ qua coi đó như là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chúng ta không thể đóng khung hoạt động của Thiên Chúa trong bất cứ một tôn giáo hay theo một cách thức tôn thờ nào. Thiên Chúa mà Kinh thánh mô tả hoạt động bên ngoài mọi khuôn khổ khiến chúng ta phải sửng sốt mà thán phục và ca ngợi Người. Chúng ta thấy Thiên Chúa cao cả biết chừng nào, còn chúng ta lại quá nhỏ bé và hẹp hòi, nhiều lần chúng ta đến với Thiên Chúa chỉ để xin những đặc quyền đặc lợi, bởi chúng ta vẫn còn thuộc về một thứ tôn giáo phàm tục hay một thứ tôn giáo khác với thứ tôn giáo Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta. Có thể chúng ta đã hiểu lý do tại sao bài đọc một được chọn đọc vào ngày hôm nay; nó dẫn đưa chúng ta đến với bài Tin mừng. Chuyện người phong hủi dường như được nhắc đến nhiều trong các câu chuyện Tin mừng. Bởi vì, những tác hại mà bệnh phong hủi để lại trên khuôn mặt hoặc tay chân của người mắc bệnh là khủng khiếp biết chừng nào, lúc đầu những người mắc bệnh này bị bỏ rơi và rồi họ bị loại ra khỏi đời sống của cộng đồng. Họ bị đuổi ra khỏi thành thị và làng mạc, họ phải sống cuộc đời chốn chui chốn nhủi. Không biết tục lệ này có từ bao giờ mà bất cứ một vết trầy xước nào trên da cũng sẽ bị liệt vào bệnh phong và nạn nhân phải chịu cảnh sống cô lập. Người ta không những coi bệnh phong hủi là bệnh dễ lây lan, mà còn cho rằng căn bệnh này là một hình phạt đối với những người tội lỗi. Vì thế, bất cứ ai đi ngang qua người mắc bệnh phong hủi, đều bị coi là đã nhiễm uế (mắc tội). Sự đau khổ của người phong hủi tăng lên gấp đôi khi: họ bị trục xuất khỏi xã hội và bị dán nhãn tội nhân. Giả như một người bị mắc bệnh phong hủi, một căn bệnh thuộc về thể lý và họ phải chịu hậu quả là sống cách ly khỏi xã hội, thì điều đó khiến họ khao khát được chữa trị đến mức nào. Nhưng việc chữa khỏi bệnh phong hủi mà bài đọc một và bài Tin mừng hôm này kể, chỉ là một sự chữa lành bên ngoài. Chúng ta cần một sự chữa lành nơi thẳm sâu tâm hồn; sự chữa lành này không chỉ cần thiết đối với những người bệnh phong hôm nay, mà còn cần thiết đối với mỗi người chúng ta nữa. Câu chuyện Tin mừng hôm nay kể, những người phong hủi tìm gặp Đức Giêsu ngay trên con đường dẫn vào thành phố. Quý vị có hình dung thấy họ đang túm tụm với nhau, đứng cách xa Đức Giêsu và những khách bộ hành cùng đi với Ngài không? Tại sao họ phải đứng cách xa như vậy, để rồi phải la thật to lên: “Lạy Thầy Giêsu! Xin dủ lòng thương chúng tôi!” Đức Giêsu không những thấy một khoảng cách về mặt địa lý, nhưng Ngài còn thấy khoảng cách về mặt tinh thần nơi tâm hồn họ. Phải chăng, ngoài bệnh phong hủi ra họ còn đang tự trách mình về một tội lỗi nào đó liên quan đến căn bệnh này của họ? Có phải họ đã chấp nhận quan niệm chung cho rằng căn bệnh của họ là dấu chỉ Thiên Chúa chừng phạt không ? Cho nên, họ cảm thấy bị ức chế và bị Thiên Chúa bỏ rơi không? Có thể chúng ta không đồng tình với việc cho rằng những người mắc chứng bệnh làm dị dạng thân xác hay sắp chết là bị Thiên Chúa trừng phạt, thế các bạn có chú ý đến thái độ người ta nói chuyện và đối xử với những người bệnh phong này không? Họ đã la to lên khi nói chuyện với những người phong hủi này; họ nói lòng vòng và coi những người bệnh phong này như nhân vật thứ ba, tức là xem họ không hề hiện hữu, đang khi họ vẫn đang sống sờ sờ đó. Dường như sự yếu đuối làm cho người ta suy nghĩ kém chín chắn và trưởng thành. Có phải bất cứ ai đã từng bị phân biệt đối xử giống như những người phong hủi khi xưa, cũng sẽ tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại trừng phạt họ? Họ có cảm thấy mình là những người vô gia cư qua những gì đang xảy ra chung quanh cuộc sống họ không? Đức Giêsu nhìn thấy những người phong hủi và nghe thấy tiếng kêu cứu của họ. Ngài đề nghị họ hãy đến trình diện với các vị tư tế, bởi đó là cách giúp họ được xác nhận lành bệnh và được trở lại với đời sống cộng đồng. Vì thế họ đã đi đến các vị tư tế. Câu chuyện có những yếu tố bất thường. Làm thế nào một người phong hủi Sa-ma-ri-a lại sống giữa những người phong hủi Do thái. Họ đã xung khắc với nhau cả hàng trăm năm khiến phải xây lên một bức tường cao để ngăn cản sự xung khắc này. Phải chăng nỗi đau chung đã liên kết họ lại với nhau? Cho dù thực tế có là gì đi nữa, đâu là điều khác biệt khiến họ đang cùng nhau chia sẻ cảnh ngộ đau khổ này? Người ta vẫn từng nói, “Tất cả chúng ta đều khóc ra nước mắt”. Bất cứ điều gì, dù trong bối cảnh, tình trạng kinh tế, nền giáo dục, hay thuộc đất nước nào đi nữa.., chúng ta đều nhận thấy một thực tế là chúng ta đang liên đới với nhau bởi vì ai trong chúng ta khóc mà chẳng có nước mắt – và chúng ta cũng cần được “chữa sạch” chứ? Những người phong hủi trong bài Tin mừng hôm nay không được chữa lành ngay lập tức. Họ vẫn còn mắc bệnh khi rời Đức Giêsu. Chúng ta biết họ chỉ được sạch khi đang trên đường đến trình diện các tư tế. Điều gì đã xảy ra khi họ ở cách xa Đức Giêsu như vậy; họ đâu nhìn thấy Ngài. Tôi tự hỏi không biết họ có thắc mắc điều gì đang xảy ra với họ không? Họ có tin rằng Thiên Chúa đã chữa lành cho họ không? Còn những vị tư tế trong Đền thờ chỉ là người chứng nhận họ sạch bệnh, để họ có thể trở về sống như một con người bình thường không? Tất nhhiên, đã có người nhận ra điều đó. Anh biết điều gì đã xảy cho anh; anh biết Đức Giêsu chính là tác nhân chữa lành căn bệnh của anh. Sự hiểu biết và nhận thức này dẫn đưa anh trở lại với Đức Giêsu. Chúng ta có thể kết luận gì từ câu chuyện? Có lẽ chúng ta cũng nhận thấy mình cần được chữa lành, không chỉ trong đời sống thể xác, nhưng còn trong đời sống tinh thần và thiêng liêng nữa. Việc chữa lành này không diễn ra trong chốc lát, nhưng đi với chúng ta suốt cả cuộc đời. Tương tự như những người phong hủi hôm nay, trong cuộc hành trình, chúng ta không thấy Đức Giêsu hiện điện với mình – chúng ta không thấy Ngài bằng con mắt trần tục. Nhưng trong niềm tin Ngài cho chúng ta biết Ngài đang ở đó bên cạnh chúng ta và sẽ chữa lành cho chúng ta. Ngài đang dõi theo từng bước đường chúng ta đi. Với sự giúp đỡ rất đắc lực từ phía gia đình, bạn bè, các chuyên gia, thầy cô giáo, … Họ sẽ từng bước giúp chúng ta nhận ra sự chữa lành và đổi mới này, phải chăng đó là con đường mà hầu hết chúng ta sẽ phải đi tới? Đức Giêsu nói với người phong hủi và cũng là để nói với từng người chúng ta: niềm tin sẽ cứu chúng ta. Niềm tin sẽ thấy điều mà con mắt không thể thấy. Trong cuộc hành trình của mình, chúng ta sẽ nhận được những dấu chỉ cho biết Ngài đang hiện diện với chúng ta, và Ngài sẽ chữa lành cho chúng ta. Một số người muốn thấy những sự kiện phi thường xảy ra. Họ cầu nguyện để xin chữa lành một nỗi đau khổ nào đó – bệnh tật, xin sự tha thứ, xin được gia tăng trong đời sống thiêng liêng, hay được sáng suốt, thông minh. Tất cả những lời cầu xin này chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng. Và họ muốn những sự việc ấy xảy ra cách bất ngờ, tỏ tường nhưng kỳ lạ. Hầu hết chúng ta không nhận được những chữa lành hiển nhiên và ngay lập tức đâu, điều đó chẳng có gì là ngạc nhiên cả. Nhưng cũng giống như những người phong hủi của bài Tin mừng hôm nay, chúng ta se cầu xin Chúa ban cho chúng ta những điều cần thiết trong suốt cuộc đời của mình. Chúng ta cứ tiếp tục cùng nhau thực hiện cuộc hành trình của mình, và trên cuộc hành trình ấy, giống như người Sa-ma-ri- a hôm nay, chúng ta cũng sẽ nhận ra những thay đổi nơi cuộc đời của mình. Chúng ta sẽ lớn lên trong sự khôn ngoan và niềm tin; những tổn thương trong quá khứ đã được chữa lành,…Chúng ta không còn là con người như trước đây nữa, chúng ta biết mình đã được đổi mới. Chúng ta đang trưởng thành hơn theo từng bước đi của cuộc đời; chúng ta đang trong tiến trình tiến lên. Nhưng khi lên đường, chúng ta hãy đặt tin tưởng vào điều Đức Giêsu nói hôm nay: “Đứng dậy về đi, niềm tin của anh đã cứu chữa anh.” Ngay từ lúc khởi đầu cuộc hành trình của mình, chúng ta đã đón nhận được ân sủng chữa lành của Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi tuần chúng ta hãy trở lại đây, trong tâm tình tôn thờ và cảm tạ Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng. Lúc đầu Lễ, chúng ta đã dừng lại trong giây lát để nhìn nhận thân phận yếu đuối của mình mà cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa và của anh chị em. Giờ đây, chúng hãy lại một lần nữa xác nhận rằng điều chúng ta cần là lòng thương xót của Chúa và của anh chị em mình. Chúng ta sẽ được chữa lành khi chúng ta đang cùng nhau đi trên con đường ấy. Lm. Jude Siciliano, O.P. Không đơn độc trên đường 2V 5,14-17; Tv 98; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19 Kính thưa quý vị, Chúng ta đã từng nghe bao lần câu nói: “cuộc đời là một chuyến đi?” Có vẻ đây chỉ là kiểu nói rập khuôn nhưng thực ra đó chính là một chân lý. Hành trình cuộc đời của chúng ta có khởi đầu, trung thời và kết thúc. Ông Hêraclít, một triết gia Hylạp, nói rằng: “Bạn không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Không cần phải là triết gia chúng ta cũng có thể hiểu ý ông muốn nói: cuộc đời luôn thay đổi. Hoặc có người khác bảo rằng: “chỉ có một điều bất biến trong cuộc sống đó là thay đổi”. Quả thật, mỗi người đã có đủ kinh nghiệm sống để hiểu rằng “chỉ có một điều bất biến trong cuộc sống đó là thay đổi”. Mỗi giai đoạn cuộc đời của ta có những niềm vui đặc trưng riêng của nó: trò chơi trẻ con, tốt nghiệp phổ thông, phải lòng một người, kết bạn, có con cái, trở thành cậu hoặc dì,… Mỗi giai đoạn có những thách đố cũng như những khó khăn: không phải giấc mơ nào cũng thành hiện thực, các tương quan thì căng thẳng, ly dị và bệnh tật lại xảy đến – những bất trắc này một phần do những hạn chế về thành quả luôn thay đổi trong ta và tùy thuộc ở ta nữa. Một chân lý khác về sự đổi thay trên hành trình cuộc đời (từng giai đoạn) rằng, dù là niềm vui hay khó khăn, đều là những cơ hội để ta trưởng thành. Ở một giai đoạn nào đó trong đời, ta có thể thắc mắc: “Tôi đang ở đâu?” Bài Tin mừng hôm nay có lẽ nói cho biết chúng ta đang ở giai đoạn nào của đời mình. Lúc này, Tin mừng thánh Luca cho ta biết rõ hành trình của Đức Giêsu đang dẫn Người tới đâu. Thánh Luca cho biết rằng “Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9,51). Đó là một hành trình khó khăn, vì Người có thể thấy điều gì đang chờ mình ở phía trước. Nhưng Người vẫn không lùi bước, hoặc né tránh, bởi Người lên Giêrusalem vì chúng ta. Có những kẻ cùng đi với Người; còn các môn đệ đang truy tìm chân lý nơi Người trên suốt hành trình nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức tò mò. Không phải cứ hiện diện cùng với Đức Giêsu thì làm cho người ta tự động trở thành môn đệ. Cũng chẳng phải tự nhiên người ta trở thành thành viên trong Giáo hội. Người đòi hỏi nhiều hơn nữa nơi những kẻ đồng hành. Khi các ngài đang trên đường thì một nhóm người bệnh phong lang thang đón gặp các ngài. Những người bệnh phong hình như không đi đâu cụ thể. Họ sẽ đi đâu? Họ đi đến nơi nào ư? Đối với họ điều đó chẳng quan trọng, vì chẳng ai muốn gặp họ. Thậm chí họ bị chính gia đình mình xua đuổi. Họ chẳng có nơi nào để mà đi. Những người bệnh phong biết liên đới thành một nhóm với nhau. Khi người ta trải qua những bi kịch như thiên tai, sập hầm mỏ, bị xả súng, ung thư,… thì chính nỗi đau chung ấy kéo những người xa lạ xích lại gần nhau. Vì thế, trong số những kẻ bị bệnh phong kia có cả người Samari và người Dothái – những người này là kẻ thù truyền kiếp của nhau – nhưng họ được liên kết lại vì có cùng nỗi đau và bị gia đình, tôn giáo cũng như xã hội bỏ rơi. Trong nhiều giáo xứ, trước Thánh lễ chiều thứ Bảy, người ta xếp hàng dài để xưng tội. Từ trẻ em cho đến người lớn tuổi đều xếp hàng. Cách ăn mặc khác nhau cho thấy họ thuộc nhiều tầng lớp và môi trường xã hội khác nhau. Thế nhưng, họ đang đứng đó, họ thực sự đứng trong hàng, chờ đợi, đây là dấu hiển nhiên cho thấy rằng họ là những tội nhân. Không ai được đứng vào chỗ nhất, hoặc phải xuống cuối hàng chỉ vì điều kiện kinh tế, nơi sinh, nghề nghiệp, hay bằng cấp… Như những người bệnh phong gồm những thành phần khác nhau, họ cũng liên kết với nhau vì chia sẻ chung nhu cầu. Khi cùng xếp hàng để lãnh nhận bí tích Hòa Giải, chúng ta cùng nhau nhìn nhận rằng mình đã phạm tội và đang cần được tha thứ. Chúng ta cùng thực hiện một hành động vào mỗi đầu Thánh Lễ là kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Kitô xin thương xót chúng con! Lạy Chúa xin thương xót chúng con”. Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất lời khẩn nguyện cách đơn giản và trực tiếp như những người bệnh phong: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Không cần phải giả bộ, viện cớ hay hãnh diện rởm để rồi giấu diếm hay thay đổi lời đề nghị. Chỉ đơn giản thẳng thắn thưa lên: “Xin thương xót chúng con”. Giống như những người bệnh phong kia, chúng ta không chỉ khẩn nguyện cho riêng mình, nhưng như một nhóm những người thiếu thốn, “Xin thương xót chúng con”. Chúng ta cầu nguyện cho chính mình trong Thánh lễ hôm nay, nhưng lời nguyện này ở ngôi thứ nhất số nhiều. Vì thế, chúng ta cũng cầu nguyện cho cả những người cùng ngồi bên cạnh, cũng như cho Giáo hội và thế giới. “Xin thương xót chúng con”. Khi cất lên lời nguyện đơn sơ xin những điều cần thiết, chúng ta thực sự mong muốn gì – sự giúp đỡ tức thì hay sự chữa lành? Đôi khi điều đó xảy ra. Nhưng chúng ta thấy được một manh mối từ những người bệnh phong. Thánh Luca cho biết “đang khi đi thì họ được sạch”. Những nơi chốn mà Đức Giêsu hành động và lên tiếng thì rất quan trọng. Thánh Luca nêu tên nơi mà phép lạ chữa lành xảy ra. Ngài không phải là chuyên viên vẽ bản đồ, để rồi vẽ lại một bản đồ về thế kỷ I cho chúng ta. Ngài là tác giả sách Tin mừng, nói về tin vui dành cho những người bệnh phong được chữa lành: “đang khi đi thì họ được sạch” Khi họ lên đường là được gia nhập với gia đình, xã hội và các thực hành tôn giáo. Họ không còn bị xua đuổi, nhưng nay được đón nhận trở lại cộng đồng. Chắc chắn cả chín người kia cũng được tái hội nhập chứ không chỉ một mình người Samari kia. Trong khi tất cả mười người bệnh phong được khỏi, thánh Luca cho hay, người Samari “nhận thấy” mình được khỏi. Anh ta quay trở lại, bỏ tất cả những người kia để trở lại với Đức Giêsu. Anh có thể không được chào đón như đồng bạn cùng cộng đồng Dothái mộ đạo và nhiệt thành, nhưng được chào đón vào nhóm bạn hữu của Đức Giêsu. Người bệnh phong này nhận ra rằng nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã ra tay cứu chữa anh và anh trở lại “lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Anh không còn là anh của trước kia nữa, nhưng là một con người mới đang tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn Đức Giêsu. Chín người kia thì trở lại lối sống trước đây của họ; còn người Samari đã khởi đầu một cuộc sống hoàn toàn mới. Khi anh sấp mình dưới chân Đức Giêsu, thì đó là biểu trưng cho việc anh chấp nhận Đức Giêsu và chọn lựa đi theo đường lối của Người. Từ kinh nghiệm của những người bệnh phong, chúng ta được nhắc nhớ rằng mình phải biết đồng hành với nhau. Trên con đường đó, khi cố gắng thực thi điều thiện, chúng ta biết rằng mình còn nhiều thứ phải làm, không chỉ cho người khác nhưng còn cho chính mình nữa. Bài Tin mừng hôm nay đảm bảo rằng Thiên Chúa muốn chữa lành chúng ta ngay khi ta lên đường. Sự chữa lành này có thể đến bằng nhiều cách: một người thân thương nói cho ta biết một sự thật phũ phàng mà ta phải nghe trong những năm dài sống đời hôn nhân có những cơ hội để thăng tiến lòng quảng đại, tính kiên nhẫn, sự tha thứ và tính hài hước Việc trở thành cha mẹ giúp ta biết hy sinh cuộc đời mình cho người khác Tư vấn giúp chữa lành chúng ta sau một ca ly dị cay đắng Chương trình cai nghiện giúp ta thoát khỏi nghiện ngập Gia đình và bạn hữu giúp ta vượt qua nỗi đau của việc mất mát người thân yêu. Bằng cách này hay cách khác, giống như những người bệnh phong, chúng ta được chữa lành khi đăng trình. Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta nhớ lại những việc chữa lành và tiến trình chữa lành này khi “nhận ra” rằng chính Đức Giêsu là nguồn mạch của những việc chữa lành này và chúng ta tạ ơn Người. Đức Giêsu luôn hiện diện trên hành trình của chúng ta. Hôm nay, Người lại nói với ta: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Cứu ta khỏi: nỗi cô đơn khi thiếu thốn; sự chán nản khi sự thay đổi diễn ra quá chậm trễ; nỗi sợ bị loại trừ khi ta phạm tội; sự miễn cưỡng không muốn khởi sự lại. Giêrusalem là điểm cuối hành trình. Chúng ta chưa đến đó, nhưng không đơn độc khi đăng trình. Cùng đi với chúng ta có cả một cộng đoàn những người tin, bằng nhiều cách, họ nhắc ta nhớ rằng từng bước trên đường, Đức Giêsu đang hoạt động và đồng hành với chúng ta. | |
Từ khóa » Suy Niệm Tin Mừng Lc 17 11-19
-
Thứ Tư Tuần 32 Thường Niên Năm I - Tạ ơn (Lc 17,11-19)
-
Lc 17: 11-19 - GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG
-
Lc 17: 11-19 - GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG
-
[Mến Yêu Hằng Ngày]: Thứ 4, 13-11-2019 (Lc 17,11-19) - Dòng Tên
-
Chúa Nhật XXVIII Quanh Năm C ( Lc 17, 11-19 ) - Lời Chúa - Suy Niệm
-
Suy Niệm Tin Mừng Thứ Tư Tuần XXXII Thường Niên Năm C
-
THỨ TƯ TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN: Lc 17,11-19 - Tin Mừng. TV
-
Lời Chúa Lc 17, 11-19: Thứ Tư Tuần XXXII Thường Niên – Năm C
-
Đừng Có Vô Ơn - SimonHoaDalat
-
Giải Nghĩa Lời Chúa Năm C - Suy Niem Loi Chua Chua Nhat Nam C
-
LỜI CHÚA THỨ TƯ TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN NĂM LẺ (15/11 ...
-
Tin Mừng Lc 17,11-19. Chúa Nhật 28 C Thường Niên: Gặp Gỡ để Tỏ ...
-
Thứ Tư 13.11 Tin Mừng Luca [17,... - Lời Chúa Cho Mọi Người
-
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật XXVIII Thường Niên C (Lc 17, 11-19)
