LƯU BÌNH- DƯƠNG LỄ | HỒNG LIÊN
Có thể bạn quan tâm
NGẪU HỨNG VỚI CHỦ ĐỀ LƯU BÌNH- DƯƠNG LỄ
Tandau81 là một cựu sinh viên Dân tộc học K45- Khoa Lịch sử- Trường ĐHKHXH&NVQG. Đây là một chàng trai thuần phác, đôn hậu, hiền lành, trung thực và dễ mến. Tuy tandau81 gọi tôi bằng thầy, nhưng cần phải nói rằng, tôi chưa bao giờ lên lớp cậu ấy một giờ nào về âm nhạc dân tộc. Cách xưng hô thầy- trò giữa chúng tôi chỉ là cái nghĩa “bắc cầu” qua những sinh viên của tôi mà thôi. Thế nhưng tandau81 lại có một tố chất rất đặc biệt trong sự khám phá những di sản âm nhạc cổ truyền dân tộc. Bằng chứng “ít nhất” là số lượng… nhiều nhất những comments của chàng trai ấy trong cái blog vốn “khó đọc” và “Khá hẻo lánh” của tôi. Và nhiều hơn cả là những tâm sự thường ngày về cổ nhạc Đại Việt (vì chúng tôi có cơ duyên làm cùng một cơ quan). Nói chuyện với tandau81, thú thật tôi rất đỗi ngạc nhiên! Niềm say mê của cậu ấy dường như một sở thích bản năng đã có từ lâu- một thị hiếu mà chắc hẳn rất hiếm thấy ở thế hệ 8x. Thích thực sự, say sưa kể và nghe mọi điều, mọi vấn đề lớn nhỏ xoay quanh chủ đề nhạc cổ truyền Việt Nam, có lẽ đến hàng giờ cũng không biết chán! Mỗi lúc như thế, tandau81 trở nên hết sức sinh động, như thể Chầu Văn, Chèo, Quan họ, Cải lương… là máu thịt, là người tình của em vậy. Vừa qua, tandau81 đã viết một entry khá thú vị và rất ngẫu hứng về vở Chèo Lưu Bình- Dương Lễ. Chẳng cần nói nhiều, quý vị sẽ tìm thấy trong đó sự hiểu biết, niềm đam mê thật sâu sắc, chân thành của một chàng trai trẻ thời đại @. Tôi rất vui vì có một người bạn đồng nghiệp đáng yêu như vậy. Dưới đây, Si phu Bac Ha’Blog xin trân trọng giới thiệu bài viết của tandau81 và lời bình luận cũng thật ngẫu hứng của tôi về vở Chèo kinh điển này.
Dương Lễ – Lưu Bình giữa công danh và tình ái
Thân tặng Quang Phương và Hải Hà
Chúc Quang Phương và Hải Hà hạnh phúc!
(PS. Quà cưới của anh đấy, đừng có mơ phong bì nữa nhé!)
Ở nhà, mẹ tôi vẫn thường hay nghe (băng cassette) những vở chèo “kinh điển” trong kho tàng văn hoá dân gian, như “Quan Âm Thị Kính”, “Trương Viên”, “Sự tích Công chúa Ba Diệu Thiện” (tức cũng một kiếp nạn của Phật Bà Quan Âm), hay vở cải lương “Lan và Điệp”. Nhưng hay nghe nhất là tích “Lưu Bình, Dương Lễ”.
Với tôi, đây là điều may mắn. Thuở ấy, tôi chả chú ý mấy đến những vở chèo hay cải lương này (mà đang say mê với nhạc nhẹ quốc tế), nhưng (bị) nghe mãi thành quen, thành thuộc, có thể nhẩm hát theo dù là bất cứ đoạn nào. Đến bây giờ thì tôi thực sự thích những thể loại này (nhờ khả năng tiếp thụ kiểu “lẩu thập cẩm”).
Theo tôi thì tích “Lưu Bình, Dương Lễ” xứng đáng với 2 chữ “kinh điển” (cả Ta và cả Tây). Từ cấu trúc phân đoạn (phân cảnh), những điểm nhấn (sự kiện/điểm nút (cao trào)/tháo nút), đến xây dựng lời thoại nhân vật, xây dựng hình tượng nhân vật (điển hình tính cách), tính nhất quán và hợp lý, …
Các sự kiện trong vở chèo xoay quanh 3 nhân vật chính là Lưu Bình, Dương Lễ và Châu Long. Mỗi nhân vật hiện lên với những đặc trưng tính cách không thể lẫn lộn.
Lưu Bình – Dương Lễ là đôi bạn tri kỷ, từ thuở hàn vi cho đến lúc quan cao chức trọng. Thuở hàn vi, đôi tri kỷ “cộng khổ” với nhau đã là khó, nhưng đến khi quan cao chức trọng đôi tri kỷ còn “đồng cam” với nhau, kể còn khó gấp mấy lần.
Dương Lễ hiện lên là một người “thâm nho”, thâm trầm, điềm đạm, cân nhắc chín chắn, hành xử có trên dưới trước sau. Thuở còn hàn vi, Dương Lễ là anh học trò nghèo nhưng đầy chí tiến thủ. Được sự giúp đỡ của Lưu Bình mà lập thân có chút công danh với đời (thi đỗ rồi làm quan). Nhưng cũng lúc này, Lưu Bình ăn chơi phá tan sản nghiệp cha ông để lại. Nhớ đến bạn tri kỷ, định tìm đến tính chốn nương thân. Dương Lễ thật khó xử, “giúp bạn đủ ăn không lấy gì làm khó, nhưng chỉ e bê trễ học hành”, thế nên làm kế “sỉ nhục” (kích Nhật, không phải Tàu). Nhưng khó nhất là lấy ai đỡ đần bạn trong hành trình tìm kiếm công danh. Thằng hầu thân cận xin đi, nhưng hỡi ôi! Tư duy của nó thì không thể nuôi dưỡng một ông Tiến Sĩ hay ông Trạng tương lai được. Nàng Châu Long tình nguyện vì chàng làm nghĩa cả, nhưng thật khó xử, khó nói làm sao!!! Nàng là người thiếp tâm giao của Dương Lễ, vắng nàng đằng đẵng 3 năm hay 6 năm, hay lâu hơn … làm sao biết được? Tâm trạng của Dương Lễ lúc này thật bối rối, giữa Nghĩa cả và Tình riêng. Chàng đã thầm nghĩ làm được việc này chỉ có một Châu Long mà thôi, nhưng ép nàng, đâu có được! Đến lúc nàng vì chàng mà tự nguyện, thì những ngày vắng nàng biết tính sao đây? Đôi bạn tâm giao thức trọn đêm để trao lời từ tạ. Vật làm tin chỉ là chiếc gương, chàng trao cho nàng với lời nhắn nhủ “hằng ngày nàng soi gương như có chàng soi cùng”, và nàng đã nguyện “giữ gương bóng mãi không mờ chút bụi”.
Sau cảnh chia tay, hình ảnh Dương Lễ chỉ xuất hiện thêm ở phân cảnh kết thúc – khi nàng thiếp yêu Châu Long trở về. Một mình chàng lặng lẽ ngoài hiên, tâm trạng cũng bối rối như lúc tiễn Châu Long ra đi. Một chút gì hờn tủi vì bấy lâu xa cách? Một chút nghi ngờ về phẩm tiết của Châu Long? Một chút xao động vì quãng thời gian vắng nàng? Một chút nghĩa cử của chàng đối với Lưu Bình có xứng với hai từ “tri kỷ”? Bây giờ chàng đối đãi với nàng sao đây? Chàng thật bâng khuâng trong lúc này. Những câu hỏi mà chàng không thể trả lời bằng phỏng đoán (vũ đoán), nhưng cũng không thể hỏi nàng trực tiếp, như vậy khác gì xúc phạm nàng! Bây giờ, nàng đối với chàng, không chỉ là bạn tâm giao nữa, mà còn là một ân nhân.
Lưu Bình có nét phóng khoáng hơn, nhưng lại nông nổi. Lúc Dương Lễ còn hàn vi, chàng đối xử với bạn hết mực, không toan tính trước sau, thiệt hơn. Khi sa cơ lỡ vận, tìm đến bạn tri kỷ, cũng chẳng muốn nhắc đến tình nghĩa ngày xưa, tưởng bạn cũng như mình – một lòng vì bạn, nhưng trúng kế “cơm mốc với cà meo” của Dương Lễ mà ngậm ngùi than thân “đói rách thì chẳng ai nhìn”.
Trò đời quay quắt khiến chàng đau đáu muốn lập thân, nhưng hỡi ôi! Công danh với chàng là phù phiếm. Một người như vậy thì bả công danh làm sao lôi cuốn được. Lập thân để rửa hờn vì bạn sỉ nhục? Không, thà quên nó đi còn hơn. Tính chàng phóng túng mà! Nhưng đến khi có Châu Long bên cạnh, nàng khéo léo khơi dậy trong chàng ý chí lập công danh. Nàng nhắc nhở về nỗi nhục với bạn tri kỷ, Nhục! Nàng nhắc nhở về tình cảnh hiện tại, Nhục! Nhưng hơn hết là nàng dùng chính bản thân mình để làm động lực thúc giục Lưu Bình chú tâm “sôi kinh nấu sử”. 3 năm chung sống, ở chung nhà, hít thở chung bầu không khí, ăn cùng mâm, sớm tối có nhau dù giữa trưa nắng hè hay đêm đông gió rét, nhưng chỉ duy chưa có cảnh “tiểu đăng khoa”. Ngày qua ngày, đôi bóng có nhau trong sự tôn trọng. Và đêm chia tay tiễn biệt chàng lên kinh ứng thí, Châu Long đã thật khó xử. Lại chia tay!!!. Đêm chia tay với Dương Lễ, nàng đã xao xuyến làm sao? Và đêm nay nữa, phải thế nào đây? Khi mà Lưu Bình, “suốt 3 năm ăn chay nằm mộng”, nhất mực đòi “tiểu đăng khoa” để bù đắp quãng thời gian xa nàng lên kinh thi thố. Con Tạo mới khéo xoay vần làm sao? Ai có thể làm gì trong hoàn cảnh này? Chỉ con Tạo mới biết thôi, vì nó xoay vần ra thế mà!
Châu Long lúc này thật bối rối! Giá thử Lưu Bình cứ liều mình xông vào thì thật, nàng cũng chẳng biết phải làm sao? (Chả lẽ lại kêu toáng lên. Hàng xóm ai thèm quan tâm! Vợ chồng son, có kêu thế chứ kêu nữa thì cũng thế mà thôi). Nàng cự tuyệt trong thấp thỏm. Và Lưu Bình cũng ngập ngừng nửa muốn nửa không. Nửa muốn vì khát khao, nửa không vì day dứt. Tình thế chàng và nàng cũng từa tựa như “già nhân ngãi mà non vợ chồng”. Nhưng khát khao đã thắng thế, chàng quyết định xông vào, nhưng văng vẳng đâu đây (Châu Long gợi lại) hình ảnh “cơm mốc với cà meo” hiện về. Nỗi tức giận làm chàng “tụt” ham muốn. Lưu Bình cảm thấy thật xấu hổ với hành động lỗ mãng vừa rồi. Chàng trách mình chút nữa đã “không phải” với ân nhân của mình. Và rồi chàng ra đi với lời nguyện nếu không thi đỗ thì sẽ không còn mặt mũi nào gặp nàng để có cảnh “tiểu đăng khoa” nữa.
Thế nhưng, khi công thành danh toại mà ân nhân đâu rồi? Khi “vinh qui bái tổ”, người mà chàng muốn báo tin đầu tiên là Châu Long. Nàng đi rồi, khiến chàng buồn nản. Ngày ngày rầu rĩ, tha thẩn một mình, chẳng thiết một thứ gì. Chàng ở trong căn nhà tranh thuở hai người còn khốn khó, nhưng có nhau. Giờ đây, chàng đã có tất cả, công danh, địa vị, tiền tài, vật chất, nhà cao cửa rộng, kẻ hầu người hạ, có cả “chín nghìn anh em” nhưng sao chàng vẫn thấy cô đơn? Người bạn – ân nhân mà chưa một lần “hương mặn lửa nồng” khi no đói có nhau? Hỏi sao con Tạo lại khéo xoay vần.
Đối với Lưu Bình, tất cả là phù phiếm, “sắc sắc không không”, có đấy mà không. Cái chàng không cần thì lại thừa, mà cái chàng cần thì lại thiếu. Tính người phóng khoáng, trước đây chàng chẳng vì bạn sỉ nhục mà quyết chí lập thân để có công danh, thì giờ đây chàng cũng chẳng vì công danh ràng buộc mà đánh mất mình. Chàng đã quyết rũ bỏ tất cả để đi tìm bóng người tri kỷ.
Giữa 2 cái tên Lưu Bình – Dương Lễ là một gạch nối, thì Châu Long chính là gạch nối ấy. Phẩm giá của Châu Long không cần một lời bình luận, chỉ hiện ra trong 2 khoảnh khắc: 1 là, lúc Dương Lễ bâng khuâng với sự trở về của nàng, và 2 là lúc Lưu Bình thất thần với sự ra đi của nàng. Chỉ vậy thôi mà mọi vết bụi trên chiếc gương ngày nào được lau sạch. Dương Lễ trao gương cho nàng lúc ra đi, thì chính Lưu Bình là người đã lau sạch tấm gương ấy, sạch như lúc Dương Lễ trao cho Châu Long. Đối với cả 2 người, Châu Long vừa là bạn tri kỷ, nhưng cũng là ân nhân. Những gì mà Lưu Bình và Dương Lễ có được, đều có bàn tay nàng đóng góp.
Cả Lưu Bình và Dương Lễ đều có những khoảng thời gian không thể quên bên Châu Long, nhưng ai hạnh phúc hơn ai? Khó mà trả lời được. Kết cục thì Dương Lễ vẫn xứng đáng đón nhận hạnh phúc này. 3 năm bên Lưu Bình, nàng đối xử với chàng đúng lễ là bạn của chồng, rất mực nhưng ân cần. Những ngày Lưu Bình lên kinh ứng thí, là những chiều nàng ra ngõ trông về Tây mà nhớ Dương Lễ da diết. Nhớ những lúc chàng ân cần chăm sóc. Không biết giờ đây chàng có lạnh lẽo trong những ngày đông giá? Ai chăm sóc chàng miếng ăn giấc ngủ?… Nàng sợ “bác Lưu Bình” nếu công danh chẳng may còn lận đận thì 3 năm chờ (về bên Dương Lễ)… lại hoá 6 năm. Dù ở bên Lưu Bình, nhưng tâm tư và tình cảm Châu Long vẫn hướng về Dương Lễ. Trái tim nàng đã dành trọn cho Dương Lễ.
Thế mới biết rằng “đằng sau thành công của người chồng, có bóng dáng của người vợ”, và thế mới biết “giàu vì bạn, mà sang vì vợ” là như thế nào. Và cũng thế mới biết rằng trong đời ai có bóng hình người bạn tâm giao kẻ ấy mới là hạnh phúc.
Lời bàn của Sĩ phu Bắc Hà
Xuất phát từ một tích truyện thơ Nôm khuyết danh, với nhiều lớp tích trò bồi đắp qua năm tháng, cho đến cuối thập kỷ 50, tích chèo Lưu Bình- Dương Lễ đã được coi là một trong những tác phẩm kinh điển của nghệ thuật Chèo. Tuy có nhiều dị bản khác nhau, nhưng tựu trung, cốt chuyện vẫn chỉ xoay quanh tình bạn huyền thoại giữa Dương Lễ và Lưu Bình, mà điểm nhấn rực sáng là nàng Châu Long, như một tấm gương thủy chung, son sắt, như một thần tượng trong triết lý giáo dục tình đời ở xã hội Việt Nam.
Ở đây, không bàn đến tính hiện thực, hãy chỉ nhìn vào bản chất của câu chuyện, như một mẫu điều răn, hướng về phong hóa Nho Giáo với hệ thống đạo đức Ngũ thường biểu trưng là: Nhân- Lễ- Nghĩa- Trí- Tín. Nếu nhìn trên góc độ ấy, mới hiểu được tâm nguyện của người xưa khi sáng tạo ra câu chuyện đẹp nhưng lại thật… không tưởng! Ai cũng hiểu được tính phi hiện thực của cái chuyện “đi nuôi bạn thay chồng”, làm gì có chuyện vô lý đó, vô lý đùng đùng, vô lý đến kỳ quặc, có mà đồ điên, đồ khùng, dở hơi, chập mạch… v..v.. và… v..v…
Trên thực tế, về mặt sinh học thông thường, sẽ thấy, nếu Dương Lễ đẩy người vợ – nàng Châu Long tài ba xinh đẹp đi nuôi bạn thay mình thì chắc chắn chàng và vợ chàng sẽ rơi vào một trong những trường hợp sau:
-Một là Dương Lễ bị liệt dương, không còn khả năng cũng như nhu cầu sinh lý nữa, nên đã không ngại ngần đẩy vợ đi đến sống với bạn. Một cuộc sống quá ư mong manh, không biết ngày về. Một cuộc thử thách quá ư mạo hiểm, khi mà người vợ yêu không thể biết được sẽ… ra sao khi phải đấu tranh hàng ngày, hàng giờ trong cái môi trường “lửa gần rơm” tới 3 năm trời (tức ngót nghìn mốt ngày đêm). Trong trường hợp này, có thể hiểu và thông cảm phần nào cho cái ông chồng đã “về hưu”- Dương Lễ.
-Hai là Châu Long bị bệnh phụ khoa mãn tính, không thể chung chăn gối từ lâu nên mới “yên lòng” (trong sự đồng thuận của Dương Lễ) đi vào cái cuộc “lửa thử vàng” tới hơn nghìn ngày đó.
Nếu không rơi vào (một hoặc cả hai) hoàn cảnh trớ trêu trên, chắc chắn vợ chồng Dương Lễ đều là những con người quá… không bình thường, có chăng như thể thánh nhân(!) Ở đây, dù rằng tính tư tưởng Nho giáo là mục đích của người xưa gửi gắm vào câu chuyện, xong cũng cần đặt ra tính hợp lý tối thiểu của nó trong một huyền tích văn hóa ứng xử mà người xưa muốn vươn tới, tôn vinh.
Dường như thấy rõ điều đó, nên ngay từ khi được biết đến trên chiếu Chèo như một tích trò mẫu mực, cổ nhân đã “sắp đặt” cốt truyện Lưu Bình- Dương Lễ[1] theo một lôgic khác xa với những gì mà ngày nay chúng ta được nghe, được thấy. Hẳn ít ai biết được, trong tích trò cổ truyền, Châu Long thực ra là nàng thiếp- vợ ba của quan Dương Lễ. Khi mới hay tin có Lưu Bình ghé thăm, nghe qua tên lính hầu miêu tả hình dong đói rách, khốn cùng của bạn cũ, Dương Lễ đã biết ngay cơ sự, vội tính toán rất nhanh rồi lập tức triệu tập 3 bà vợ lại, đóng cửa mà bàn bạc.
“Ta có người bạn bạn thiết
Tên gọi Lưu Bình
Nghĩa trong phế phủ
Ta cũng có của giúp anh em no đủ
Nhưng đủ no lại nhãng việc học hành
Âu là ta giả cách vô tình
Chịu tiếng bạc cho anh em càng tủi cực
Anh em có giận ta mới học hành ra sức
Trong ba nàng cậy một nàng thân tín đi nuôi
Nàng nào khả đỡ anh việc ấy?”
Tất nhiên chị vợ cả không đời nào cam chịu, đùn đẩy cho 2 nàng sau, lý lẽ thế này:
“Bẩm lạy quan!
Thiếu chi điều cho bạn được nhờ
Cổ kim nay có thế bao giờ
Đi nuôi bạn thật điều rất khó
Số bạn quan còn muộn mằn vất vả
Có lẽ đâu nuôi mãi được ru
Thế gian nay nam nữ đồng cư
Tiếng tăm ấy rửa sao cho sạch
Như điều ấy thì tôi xin khước
Có nên ra mắc ý đôi dì…”
Chị vợ hai tất nhiên cũng không nghe, vội ra lời chặn ngay:
“Trình lạy quan!
Phận tiểu tinh bên gối, ngoài màn
Có lẽ nào sứa vượt qua đăng
Lời em nói cũng như lời chị cả”
Bí quá, Dương Lễ đành quay sang “cầu viện” vợ 3- nàng thiếp Châu Long. Những đoạn đối thoại đã “diễn ra” hết sức hợp tình, hợp lý. Chàng than rằng:
“Khổ thay là nhẽ
Có việc này mà cũng không xong
Nàng cả, nàng hai đã từ nan trước
Châu Long em!
Nàng có đi thì nàng cũng nói
Để cho anh đành dạ cậy trông
Sách có câu: nữ hữu tam tòng
Còn bé nhỏ tại gia tòng phụ
Cả lớn khôn xuất giá tòng phu.”
Đến lúc đó, Châu Long vẫn còn trù trừ mãi mà chưa nhận lời, cũng với những lý do hết sức đời thường, nào là:
“Trăm lạy chàng!
Chàng dạy đi dặm liễu đường cù
Thiếp chẳng quản công phu khó nhọc
Thiếp vâng lời chàng đi nuôi bạn học
Nhưng đi làm sao về lại làm sao?
Thiếp sợ chàng quân tử chí cao
Dạ như bể dò sao cho xiết
Thiếp sợ mình: lửa gần rơm lâu ngày cũng bén
Luống công chàng mà lỗi đạo tao khang
Đục pha trong, thau lẫn với vàng
Đành phận thiếp, hổ mặt chàng quân tử.”
Thấy vậy, Dương lễ liền quả quyết:
“Việc nàng đi ta đà tính trước
Nếu hồ nghi ta đã chẳng sai đi
Người quân tử có nghĩ chi chuyện ấy
Ba nén vàng nàng thời nhận lấy
Nuôi bạn anh cho cơm áo no lòng
Rồi sau sẽ tìm đường trở lại
Giai thương vợ rất lòng ân ái
Gái thương chồng chớ quản lầm than.”
Chỉ đến khi ấy, cực chẳng đã, Châu Long mới đành nhận lời dấn thân vì chồng theo cái lý “xuất giá tòng phu, đâu dám chối từ”:
“…Lòng thiếp có đôi vầng nhật nguyệt
Nỗi riêng tây kể sao cho xiết
Tâm là lòng, ý cũng là lòng
Thiếp xin trở về tiết sạch giá trong
Danh thơm để lưu phương thiên cổ”
Rồi khi Dương Lễ trao cho nàng 3 nén vàng để lấy vốn nuôi bạn hiền ăn học, biết phận mình, nhưng nàng vẫn còn nghẹn ngào trân trối, ước nguyện:
“Cúi đầu dưới trướng, tay nhận lấy vàng
Vàng là ngãi như thể đạo vợ chồng
Trăm lạy chàng, thương thiếp sau này cho phải nhẽ
Lạy hai chị ở nhà thư thả
Em bước đi trộm nhớ muôn vàn”
Ở đây, có thể nói cổ nhân đã sắp đặt một mối quan hệ thật thắm đượm tình người. Rằng Châu Long ra đi không phải là do cớ sự ghen tuông, xô đẩy của bà cả, bà hai, mà chỉ do thân phận thê thiếp- cùng cái nghĩa “tòng phu” đó thôi. Bởi thế, khi thấy Châu Long gánh chịu phần thua thiệt, người vợ cả đã chạnh lòng thốt lên:
“Châu Long em hỡi!
Em dốc lòng đi nuôi bạn
Nên việc nghe em sẽ nên nghe
Cớ làm sao nhận việc éo le
Em nuôi bạn biết bao giờ bạn khá
Số bạn quan còn đương vất vả
Một, hai khoa, ba, bốn, năm khoa
Thì em đem răng long, tóc bạc về nhà
Hay em ở tống chung cùng bạn
Chị em ta lời phân đã cạn
Em bước chân đi chị nhớ muôn phần.”
Tính nhân văn của câu chuyện chính là ở chỗ ấy, những người phụ nữ thực sự thấu hiểu nỗi khổ của nhau, nên người vợ cả đã sẵn lòng khuyên nhủ Châu Long lấy luôn Lưu Bình phòng khi số phận ba đào cách trở, lỡ thì một đời con gái. Và Châu Long cũng đáp lại khối chân tình ấy của người vợ cả:
“Trình lạy chị!
Chị thương em dạy điều hơn lẽ thiệt
Nhưng em xót vì quan thương bạn rối lòng
Chồng nhủ đi nuôi bạn thay chồng
Không có lẽ ba người cùng chối”
Sẽ thấy rõ, việc thân gái dặm trường đi nuôi bạn thay chồng, chẳng khác nào việc xông pha chốn sa trường nơi hòn tên mũi đạn, “nghìn cân treo sợi tóc”(!). Nếu hiểu rõ được bối cảnh đạo đức Nho giáo chính là nền tảng của câu chuyện, nếu hiểu rõ được cái lôgíc -quan hệ tình người trong tích xưa, thì mới có thể hiểu- thấu cảm được một câu chuyện cao cả đến vậy. Không ép buộc, nhưng sự “tình nguyện” ở đây rõ ràng bao chứa tính hợp lý của nó. Trong duyên mối đa thê, cơ phận nàng thiếp đương nhiên phải lãnh chịu phần thua thiệt, nhưng vẫn được sắp đặt hài hòa trong cái tổng thể “thuận vợ, thuận chồng, thuận cả chị lẫn em”. Người chịu thua thiệt nhất rồi đây sẽ được tôn vinh nhất! Tính hợp lý tối thiểu trong một huyền sử éo le, không tưởng chính là ở chỗ đó. Nói cách khác, ngay trong cái PHI LÝ cũng cần phải có cái HỢP LÝ tối thiểu để câu chuyện có thể được chấp nhận và tồn tại trong lòng dân gian.
Và, chỉ sau khi Châu Long đã nhận lời, Dương Lễ mới bắt đầu thực thi “sỉ nhục kế”- đuổi khéo Lưu Bình ra khỏi tư dinh bằng cái mẹo “cơm mốc, cà meo”. Còn trong kịch bản Chèo ngày nay thì ngược lại, Dương Lễ đuổi bạn đi trước rồi mới bày mưu tính kế, “nhờ” vợ… (duy nhất) đuổi theo sau(!). Hơn thế nữa, khi mà Dương Lễ chưa hề có nhời nhờ cậy thì nàng Châu Long “cải biên” đã… vội “xung phong” đi theo nuôi Lưu Bình rồi, thật là kỳ khôi, nực cười!
Về chuyện biến thái của tích Chèo Lưu Bình- Dương Lễ, xin được dẫn giải thế này. Năm 1958, trong phong trào “chỉnh lý, nâng cao” nghệ thuật cổ truyền dân tộc nói chung, nghệ thuật Chèo nói riêng, Hàn Thế Du đã viết lại vở Lưu Bình –Dương Lễ với nhiều sự “cách tân” khá cơ bản. Có thể coi đây là một dấu mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển đổi từ một kịch bản Chèo cổ sang kịch bản Chèo cải biên.
Theo lời kể của nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ, trong một lần tiếp cận với những người làm Chèo, một vị lãnh đạo cao cấp (lãnh tụ) đã tỏ ý không hài lòng với tích truyện Dương Lễ có tới ba vợ (đa thê). Vị lãnh tụ lập luận đại ý: ngày nay, trong công cuộc đổi mới, hiện đại hóa để xây dựng Chủ nghĩa xã hội với hệ thống đạo đức Xã hội chủ nghĩa, không nên để câu chuyện người đàn ông có tới 3 ba vợ tồn tại mãi, phải xây dựng hình tượng một vợ -một chồng theo chế độ hôn nhân và gia đình mới- làm tấm gương điển hình. Vả lại, để cho Dương Lễ chỉ có một vợ thôi mà lại đưa đi nuôi bạn thay chồng, thế thì lại càng cao quý hơn chứ sao! Có lẽ chỉ vì một câu nói đó mà ngay sau khi vị lãnh tụ nọ ra về, các nhà chuyên môn đã tức tốc bắt tay vào công cuộc “cải biên” vở Lưu Bình –Dương Lễ. Có thể thấy những sự thay đổi cơ bản như sau:
-Về mặt âm nhạc, cơ bản vẫn sử dụng hệ thống làn điệu cổ làm xương sống, nhưng giữa các màn đã dùng nhạc “mới” để làm nền chuyển cảnh. Chính vì còn giữ được nhiều làn điệu cổ trong vở diễn nên Lưu Bình- Dương Lễ vẫn được coi như một vở Chèo cổ thật hấp dẫn, quyến rũ. Lâu nay, băng âm thanh Lưu Bình- Dương Lễ do Dihavina phát hành là băng Chèo cổ hay nhất với các giọng ca đẳng cấp như Bùi Trọng Đang (Dương Lễ), Quý Bôn (Lưu Bình), Mạnh Tuấn (Lính hầu) và Xuân Theo (Châu Long)…
-Về mặt kịch bản: bên cạnh việc bỏ những tình tiết, cốt chuyện quan trọng như vừa trình bày (biến Châu Long thành vợ duy nhất của Dương Lễ), người ta còn bỏ hẳn nhiều trường đoạn quan trọng khác: như phần Giáo đầu (là phần hát kể khai mào vở diễn, tóm tắt toàn bộ câu chuyện mà bất cứ vở Chèo cổ nào cũng phải có), hay trường đoạn Lưu Bình- Dương Lễ thủa hàn vi cùng học một thầy..v..v..
Tóm lại, đã có thể khẳng định, vở chèo Lưu Bình- Dương Lễ mà chúng ta thưởng thức suốt phân nửa thế kỷ qua là vở Chèo chỉ… “cổ” ở phần làn điệu, còn cốt truyện, tích trò đã được (bị) cải biên rất nhiều theo lối suy nghĩ của cả một thời! Cái thời mà chúng ta hồn nhiên “cải biên, cải tiến, cách tân, gạn đục, khơi trong, nâng cao, khoa học hóa, hiện đại hóa, thời đại hóa” tất tần tật, tuốt tuồn tuột những gì có thể để xây dựng một nền “Chèo hiện đại- Chèo Xã hội chủ nghĩa”. Về âm nhạc dân tộc “cải tiến, cải biên” nói chung, tôi đã phân tích khá kỹ trong chuyên luận “Đường đi của âm nhạc truyền thống”[2]. Còn về kết cấu kịch bản và phương thức sân khấu, có thể nói, để thực thi việc di dời, biến đổi cốt cách một thời của Chèo cổ, người ta đã lấy những “khuôn vàng thước ngọc” của trời Tây để “soi sáng, chiếu rọi”, mà cụ thể là phương pháp kịch nghệ của Xtanhixlavxki, Bectônbrêch và cả… Arixtốt thời cổ đại nữa!!!
Sau đợt “tổng kiểm kê” bằng cuộc liên hoan Chèo cổ năm 2001 tại Quảng Ninh, một sự thực trần trụi đã phơi bày, chúng ta chỉ còn đúng vài vở Chèo tạm gọi là “cổ” bao gồm: Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình –Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên, Từ Thức, Tôn Mạnh -Tôn Trọng và Chu Mãi Thần. Trong đó Quan Âm Thị Kính được xem là vở “cổ” hơn cả. Lưu Bình –Dương Lễ và Kim Nham (bị cải biên thành Súy Vân) đứng thứ hai. Các vở còn lại đều bị cải biên, “thay hình đổi dạng tối đa” cả về nội dung kịch bản lẫn âm nhạc, đến mức khó có thể nhận ra. Chu Mãi Thần cải biến thành Nàng Thiệt Thê, Trương Viên biến ra Đôi ngọc truyền kỳ, Tôn Mạnh -Tôn Trọng hóa thành Trinh nguyên. Trong đợt “tổng kiểm kê” này, các nghệ sĩ đầu ngành cho tôi biết, rất nhiều đoàn Chèo không thể phục dựng những vở chèo cổ còn lại, nên Nhà hát Chèo Việt Nam đã buộc phải cử người xuống các tỉnh dàn dựng tiết mục dự thi… để cuộc liên hoan… có thể diễn ra! Xin lưu ý, đây cũng chính là những vở chèo cổ đã được Ban Nghiên cứu Chèo (Viện Sân khấu) sưu tầm từ các chiếng Chèo nổi tiếng ngay từ cuối thập kỷ 50. Thời đó, theo “nhãn quan” sàng lọc, loại bỏ những “tàn dư của chế độ phong kiến thối nát”, có lẽ người đã coi đây là những vở hay nhất nên mới quốc ngữ hóa kịch bản để lưu hành. Theo đó, phần còn lại của cả một kho tàng đồ sộ với ngót nghét 50 vở Chèo cổ (theo Trần Việt Ngữ), từng là vốn liếng một thời hoàng kim của tứ chiếng Chèo lừng danh Nam, Đông, Đoài, Bắc đã bị… lờ đi, lãng quên dần theo thời cuộc. Và hiện nay, kho tàng vô giá đó đã vĩnh viễn ra đi theo các nghệ nhân lão thành… từ lâu rồi!!! Đành vậy, biết sao được, đổ lỗi ư? Phân tích nguyên nhân sâu xa nữa ư? Mỏi mồm lắm rồi, vả lại cũng muộn rồi! Thôi thì đành cùng nhau nhâm nhi, thụ cảm mấy mảnh vỡ cổ kính còn sót lại của một thời vàng son, rồi cùng nhau ngẫu hứng tán gẫu đôi điều với các bạn trẻ yêu mến Chèo cổ, vậy đó!
[1] Hà Văn Cầu sưu tầm và chú thích, Tuyển tập chèo cổ, NXB Văn hóa, 1976.[2] Xin xem ở bài mở đầu Blog này
Si phu Bac Ha
http://blog.360.yahoo.com/blog-XIwNWdc5cqM7aZPn28TsRf57Gg–?cq=1&tag=ch%C3%A8o-c%E1%BB%95
Chia sẻ:
- X
Có liên quan
Từ khóa » Truyện Thơ Lưu Bình Dương Lễ
-
Lời Bài Thơ LƯU BÌNH DƯƠNG LỄ (Nguyễn Tâm)
-
Nghiên Cứu Truyện Thơ Lưu Bình – Dương Lễ
-
Bài Thơ: Lưu Bình Dương Lễ (Bùi Thị Ngọc Điệp) - Thi Viện
-
Lưu Bình - Dương Lễ [Câu Chuyện Về Tình Bạn] - Thế Giới Cổ Tích
-
Lưu Bình Dương Lễ Tân Truyện (AB.409) - Yale University Library
-
Diễn Ca Lưu Bình - Dương Lễ - Tho Luc Bat
-
Tóm Tắt Truyện Lưu Bình Dương Lễ - TopLoigiai
-
Lưu Bình Dương Lễ Tân Truyện 劉平楊禮新傳...
-
Lưu Bình Dương Lễ - Truyện Dân Gian VN [Yêu Trẻ Thơ] - YouTube
-
劉平楊禮新傳 | Lưu Bình, Dương Lễ Tân Truyện
-
Lưu Bình - Dương Lễ (vở Chèo) – Wikipedia Tiếng Việt
-
GIỚI THIỆU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY LƯU BÌNH DƯƠNG LỄ CỔ ...
-
Ý Nghĩa Từ LƯU BÌNH DƯƠNG LỄ - Cuộc Sống Online