Lý Thuyết Nền (Grounded Theory) Là Gì?

1,K

Làm thế nào bạn có thể phân tích một tập hợp dữ liệu định tính khổng lồ thu được thông qua các quan sát tham dự, các cuộc phỏng vấn chuyên sâu, hội thảo nhóm nhỏ, những câu chuyện từ bản ghi âm, video hoặc các tài liệu thứ cấp? Một trong những kỹ thuật để phân tích các dữ liệu văn bản này là lý thuyết nền(*) (grounded theory) – một kỹ thuật quy nạp giúp giải nghĩa những dữ liệu đã lưu giữ về một hiện tượng xã hội để xây dựng lý thuyết về hiện tượng đó.

Grounded theory có khi được dịch sang tiếng Việt là: lý thuyết tiềm ẩn; lý thuyết xây dựng trên nền tảng dữ liệu (N.D).

Kỹ thuật này được Glaser và Strauss (1967) phát triển khi giới thiệu phương pháp phân tích so sánh liên tiếp (method of constant comparative analysis) trong nghiên cứu về thiết lập lý thuyết. Phương pháp này tiếp tục được hoàn thiện bởi Strauss và Corbin (1990) khi họ đề xuất các kỹ thuật cụ thể về mã hóa (coding – một quá trình phân loại các nhóm dữ liệu văn bản thành các nhóm ngữ nghĩa (các khái niệm), các phạm trù và các mối quan hệ. Trong quá trình nghiên cứu, lý thuyết sẽ được xây dựng dựa trên cơ sở dữ liệu quan sát thực nghiệm, đó là lý do đặt tên cho kỹ thuật này là lý thuyết nền (hay lý thuyết xây dựng trên nền tảng dữ liệu). Để đảm bảo lý thuyết chỉ hình thành dựa trên những thông tin đã quan sát, lý thuyết nền đòi hỏi các nhà nghiên cứu loại phải bỏ tất cả các phỏng đoán ban đầu hoặc những thiên vị cá nhân trước khi bắt đầu phân tích dữ liệu, hãy để cho dữ liệu quyết định việc hình thành lý thuyết.

Strauss và Corbin (1998) mô tả ba kỹ thuật mã hoá để phân tích dữ liệu văn bản: mã hoá mở, mã hoá trục và mã hoá chọn lọc.

Mã hoá mở (open coding) là một quá trình giúp nhận diện các khái niệm hoặc các ý tưởng quan trọng ẩn bên trong dữ liệu văn bản mà chúng có khả năng liên quan đến hiện tượng đang nghiên cứu. Nhà nghiên cứu đọc các dữ liệu sống theo từng dòng để phát hiện các sự kiện, tình tiết, ý tưởng, hành động, nhận thức riêng lẻ rời rạc và các mối tương tác có liên quan; chúng sẽ định hình thành các khái niệm (vì thế được gọi là các mã hoá sống). Từng khái niệm được liên kết tới các phần cụ thể của văn bản, gọi các đơn vị mã hoá (coding unit) phục vụ cho việc củng cố sau này.

Một số khái niệm có thể được hình thành một cách đơn giản và rõ ràng, trong khi những khái niệm khác có thể phức tạp, mơ hồ và được nhìn nhận khác nhau bởi những người tham gia khác nhau. Các đơn vị mã hoá có thay đổi với các khái niệm được trích chép. Các khái niệm đơn giản như “quy mô tổ chức” có thể chỉ bao gồm một vài từ trong văn bản, trong khi những khái phức tạp như “sứ mệnh của tổ chức” có thể kéo dài nhiều trang. Khái niệm có thể được đặt tên bằng cách sử dụng quy ước đặt tên của riêng nhà nghiên cứu hoặc các dán nhãn được tiêu chuẩn hóa từ các nghiên cứu trước. Khi một tập hợp các khái niệm cơ bản được xác định, các khái niệm này sau đó có thể được sử dụng để mã hoã phần còn lại của dữ liệu, trong khi đó vẫn không bỏ qua việc tìm kiếm những khái niệm mới và tinh chỉnh các khái niệm đã hình thành. Trong khi định ngữ, việc xác định các đặc điểm dễ nhận biết, đặc thù của từng khái niệm là điều hết sức quan trọng, chẳng hạn như kích thước, màu sắc hoặc mức độ (ví dụ như, cao hay thấp) của khái niệm đó, có như vậy sau này các khái niệm tương tự có thể được nhóm lại với nhau. Kỹ thuật mã hoá này được gọi là “mở” bởi vì các nhà nghiên cứu mở ra và tích cực tìm kiếm các khái niệm mới có liên quan đến hiện tượng quan tâm.

Tiếp theo, các khái niệm tương tự được nhóm lại thành mức cao hơn gọi là các phân nhóm (category). Trong khi khái niệm sẽ được tìm thấy trong bối cảnh cụ thể, phân nhóm có xu hướng mở rộng và khái quát hơn và cuối cùng phát triển thành các phạm trù (construct) trong kỹ thuật thiết lập lý thuyết. Để hình thành các phân nhóm, việc giảm số lượng các khái niệm là cần thiết. Muốn vậy các nhà nghiên cứu phải xác định những vấn đề cốt yếu về hiện tượng đang nghiên cứu bằng cách phác họa một “bức tranh tổng thể” nêu bật những vấn đề đó.

Phân nhóm có thể được hình thành qua nhiều giai đoạn, ví dụ, đầu tiên kết hợp các khái niệm thành các cụm và sau đó kết hợp các cụm thành các phân nhóm. Các phạm trù được đề cập trong các nghiên cứu trước đó có thể được sử dụng để đặt tên cho các phân nhóm này, đặc biệt nếu mục tiêu của nghiên cứu là để mở rộng lý thuyết hiện có. Tuy nhiên, phải rất thận trọng trong khi sử dụng các phạm trù trước đó, bởi vì chúng có thể đi kèm với những quan niệm truyền thống và thành kiến phổ biến.

Đối với mỗi phân nhóm, cần phân biệt các đặc trưng (characteristics or properties) của phân nhóm với các khía cạnh (dimensions) của phân nhóm đó. Khía cạnh đề cập đến giá trị của một đặc trưng tồn tại trong thời gian dài và liên tục. Ví dụ, phân nhóm “phương tiện thông tin liên lạc” có thể có một đặc trưng là “tốc độ” và đặc trưng “tốc độ” này có thể có một số khía cạnh như nhanh, trung bình hay chậm. Việc phân loại như vậy giúp phân biệt giữa các loại hình khác nhau của các phương tiện thông tin liên lạc và cho phép nhà nghiên cứu xác định các mô hình (patterns) trong dữ liệu, chẳng hạn như phương tiện truyền thông nào được sử dụng cho loại nhiệm vụ nào.

Giai đoạn thứ hai của thiết lập lý thuyết là mã hoá theo trục (axial coding), trong đó các phân nhóm và cụm được kết hợp tạo thành các mối quan hệ nhân quả hoặc các giả thuyết có thể giải thích các hiện tượng quan tâm. Mặc dù khác với mã hoá mở, nhưng mã hoá theo trục có thể thực hiện đồng thời với mã hoá mở. Mối quan hệ giữa các phân nhóm có thể nhìn thấy rõ từ trong dữ liệu hoặc cũng có thể ẩn và tinh tế. Trong trường các mối quan hệ là không rõ ràng, các nhà nghiên cứu có thể sử dụng lược đồ mã hoá (coding scheme, thường được gọi là “mô thức mã hoá (coding paradigm)”) để xác định đâu là điều kiện (conditions – tình huống chứa đựng hiện tượng nghiên cứu), đâu là hành động/ tương tác (actions/ interactions – sự phản ứng, tương tác của các cá nhân đối với các sự kiện trong điều kiện đã xác định) và đâu là kết quả (consequences – các kết quả của hành động). Khi các điều kiện, tương tác và kết quả được xác định, các luận điểm lý thuyết bắt đầu xuất hiện và nhà nghiên cứu có thể bắt đầu giải thích lý do tại sao một hiện tượng xảy ra, trong những điều kiện nào, gây ra những gì hậu quả gì.

Giai đoạn thứ ba và cuối cùng của thiết lập lý thuyết là mã hoá chọn lọc (selective coding) nhằm xác định một phân nhóm trung tâm (hay một biến cốt lõi) và sau đó liên kết chúng một cách có hệ thống và logic với các phân nhóm khác. Phân nhóm trung tâm (central category) có thể được phát triển từ việc kết hợp các phân nhóm hiện có. Dữ liệu mới được cần được thu thập có chọn lọc để củng cố phân nhóm trung tâm và các mối quan hệ của nó với các phân nhóm khác (đây có thể là một lý thuyết dự kiến).

Mã hoá chọn lọc giúp thu nhỏ phạm vi phân tích và đẩy nhanh quá trình phân tích. Đồng thời, nhà nghiên cứu phải chú ý tới sự xuất hiện của các phạm trù mới từ các dữ liệu mới liên quan đến hiện tượng quan tâm (liên quan đến mã hoá mở), điều này có thể giúp phát triển hơn nữa lý thuyết dự kiến ban đầu. Do đó, mã hoá mở, mã hoá theo trục và mã hoá chọn lọc có thể được tiến hành đồng thời. Việc mã hoá các dữ liệu mới và phát triển lý thuyết vẫn phải tiếp tục cho đến khi đạt đến độ bão hòa lý thuyết (theoretical satuation), nghĩa là, khi các dữ liệu bổ sung không mang lại bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào trong các phân nhóm trung tâm và mối quan hệ của chúng.

Quá trình “so sánh liên tục” đề cập đến việc sắp xếp lại, tập hợp và sàng lọc liên tiếp các phân nhóm, mối quan hệ và các giả thuyết. Quá trình này dựa vào mức độ hiểu biết ngày một sâu sắc và mối quan hệ tương hỗ của bốn hành vi: (1) so sánh các tình tiết / văn bản liên quan tới mỗi phạm trù (để củng cố phạm trù đó), (2) hợp nhất các phạm trù và các thuộc tính của chúng, (3) khoanh vùng, chọn lọc lý thuyết (tập trung vào các khái niệm cốt lõi và bỏ qua khái niệm ít liên quan hơn), và (4) hình thành lý thuyết (bằng cách sử dụng các kỹ thuật như bình luận, tường thuật và đồ thị hóa được thảo luận trong chương kế tiếp).

Việc có một phân nhóm trung tâm không có nghĩa là tất cả các phân nhóm khác có thể được liên kết dễ dàng xung quanh phân nhóm này. Để xác định đâu là điều kiện, tương tác hay kết quả của phân nhóm trung tâm, Strauss và Corbin (1990) khuyến nghị sử dụng một số kỹ thuật tích hợp như tường thuật, bình luận và đồ thị hóa. Trong kỹ thuật tường thuật (storylining), các phân nhóm và các mối quan hệ được sử dụng để giải thích và điều chỉnh một tường thuật về hiện tượng quan sát. Bình luận là các bài viết lý thuyết có chứa các khái niệm cơ bản cũng như các mối quan hệ được xác định trong quá trình phân tích lý thuyết nền, nó là công cụ quan trọng để phát hiện và điều chỉnh các ý tưởng trong quá trình phân tích. Kỹ thuật bình luận (memoing) trong thiết lập lý thuyết được sử dụng để khám phá mô hình các mối quan hệ giữa các phân nhóm nhờ sử dụng từng cặp bảng, cặp sơ đồ, cặp con số, hay các hiển thị minh họa khác. Kỹ thuật sơ đồ hóa khái niệm (concept mapping) là việc diễn đạt bằng sơ đồ các khái niệm và các mối quan hệ giữa chúng (ví dụ, sử dụng các hộp và các mũi tên). Các khái niệm cơ bản thường được bố trí trên một hoặc nhiều tờ giấy, bảng đen hoặc sử dụng chương trình phần mềm đồ họa, liên kết với nhau bằng các mũi tên, được điều chỉnh sao cho phù hợp nhất với dữ liệu đã thu thập.

5/5 - (1 bình chọn)Bài viết liên quan:
  1. Thiết kế nghiên cứu là gì? Các thuộc tính cơ bản
  2. Nghiên cứu là gì?
  3. Giả thuyết là gì? Đặc tính, cấu trúc & Cách đặt giả thuyết
  4. Phương pháp phỏng vấn

Từ khóa » Ví Dụ Về Phương Pháp Lý Thuyết Nền