Lý Thuyết Về Tính Phức Tạp – Phần đầu - Caphesach
Có thể bạn quan tâm
“Mặc dù hiếm khi tác động (của các hệ thống phức tạp) đi theo đường lối cụ thể, vì thế, về lâu dài, chúng ta không thể tiên liệu được nó, nhưng vẫn luôn luôn có một kiểu mẫu tiềm ẩn bên dưới, một kiểu mẫu “bị che giấu”… Kiểu mẫu này mang tính cách tự đồng nhất, đó là một mức độ biến đổi liên tục, là sự biến thiên mang tính nhất quán, thường xuyên không theo quy tắc… Do đó, hỗn độn là (một kiểu mẫu) trật tự bên trong tình trạng lộn xộn”.
Stacey (1993)
1/ Giới thiệu
Gleick (1987), một trong những người phổ biến lý thuyết về tính phức tạp, đã lý luận rằng khi nói về nền khoa học thế kỷ 20, người ta sẽ nhớ đến ba điều: tính tương đối, cơ học lượng tử và sự hỗn độn. Cả ba điều trên đều báo hiệu một sự biến đổi mang tính cách mạng về bản chất của nền khoa học hiện đại. Người ta đòi hỏi các nhà khoa học phải từ bỏ những cách đánh giá máy móc quyết đoán, tạo nên cơ sở thế giới quan của Newton, và đi theo một nhãn quan có đặc điểm mang cái nhìn tổng thể hơn nhiều, trong việc nhận ra tính không xác định và những mối quan hệ.
Trong số ba hoạt động khoa học mà Gleick chú thích, công trình nghiên cứu tình trạng hỗn độn – dưới hình thức lý thuyết về tính phức tạp – có tác động sâu xa nhất đối với việc suy nghĩ về cách quản lý. Từ nhãn quan của lý thuyết về tính phức tạp, người ta có thể coi những kiểu mẫu trước đây về tổ chức như là cách nhấn mạnh đến trật tự và tính quy tắc, không có lợi cho sự thất thường và không liên tục. Lý thuyết về tính phức tạp tập trung chú ý đến những khía cạnh của hoạt động tổ chức, như tình trạng lộn xộn, không theo quy tắc và bừa bãi, hầu như lúc nào cũng làm nản lòng các nhà quản lý. Lý thuyết này chấp nhận sự không ổn định, thay đổi, không tiên liệu được, và đưa ra lời khuyên phù hợp về cách phải hành động như thế nào.
2/ Mô tả lý thuyết về tính phức tạp
A/ Sự phát triển lịch sử
Nhà khí tượng học Edward Lorenz thường được coi là người đi tiên phong trong việc triển khai lý thuyết về tình trạng hỗn độn. Trong khi hoạt động về vấn đề dự báo thời tiết, Lorenz phát hiện thấy những thay đổi nhỏ trong trạng thái ban đầu của một hệ thống phức tạp vẫn có thể làm thay đổi tác động rất đáng kể về lâu dài. Lorenz còn khám phá ra những mối quan hệ gián tiếp, được phổ biến trong những hệ thống xã hội và thiên nhiên phức tạp, khiến người ta không thể tiên liệu được. Tuy nhiên, đối với ông, có khá nhiều trạng thái trật tự ẩn bên dưới tình trạng hỗn độn.
Cuối thập niên 1970, lý thuyết về tính phức tạp và hỗn độn bắt đầu được định hình, bằng cách xác định lý thuyết này như là một ngành khoa học về các hệ thống thiên nhiên toàn cầu. Năm 1984, Viện Sante Fe, một trung tâm nghiên cứu lý thuyết về tính phức tạp nổi tiếng nhất được nhà vật lý Robert Stetson Shaw thành lập tại Mỹ, trung tâm này kết hợp các nhà khoa học đã cộng tác với nhau để xây dựng các kiểu mẫu bằng máy tính về tính cách đa dạng của các hệ thống sinh học, sinh thái và kinh tế.
Khi Viện Santa Fe được thành lập, thuật ngữ gốc “lý thuyết về tình trạng hỗn độn” mở đường cho khái niệm tổng quát hơn đối với “lý thuyết về tính phức tạp”. Với lời giải thích chặt chẽ về phạm vi của lý thuyết về tình trạng hỗn độn, người ta coi lý thuyết về tính phức tạp như bị giới hạn vào phạm vi toán học về tác động gián tiếp mang tính cách động lực học trong các hệ thống thiên nhiên, như hệ thống thời tiết. Trái lại, người ta đã trình bày lại là có thể áp dụng lý thuyết về tính phức tạp vào các hệ thống phức tạp thuộc về xã hội cũng như thiên nhiên. Các hệ thống xã hội không phải chỉ là các “hệ thống phức tạp có khả năng thích nghi”, nói đúng hơn, đó là các “các hệ thống phức tạp đang tiến triển”, chúng có thể thay đổi các quy luật về sự phát triển, khi chúng tiến triển theo thời gian.
Khi lý thuyết về tính phức tạp được hiểu là bao gồm cả các hệ thống phức tạp đang tiến triển cũng như các hệ thống phức tạp có khả năng thích nghi, thì chúng ta có thể thường xuyên tìm được những ứng dụng mới cho lý thuyết về tính phức tạp trong các ngành thiên văn, địa chất, sinh lý, kinh tế, vi tính, nghệ thuật, âm nhạc và đặc biệt là quản lý.
B/ Triết lý và lý thuyết
Như chúng ta đã ghi nhận trong phần giới thiệu, lý thuyết về tính phức tạp và tình trạng hỗn độn thường được trình bày như là một phần của cuộc cách mạng tư tưởng, tác động đến tất cả các bộ môn khoa học, cho dù bộ môn đó nghiên cứu về các hiện tượng thiên nhiên, con người hay xã hội. Mô hình mới xuất hiện từ cuộc cách mạng này có đặc điểm là mang cái nhìn tổng thể. Dường như chúng ta chỉ có thể hiểu được các phần cảu hệ thống trong mối quan hệ, của chúng đối với nhau và với toàn thể. Do đó, chúng ta cần tập trung chú ý vào các mối quan hệ (chẳng hạn, trong cơ học lượng tử). Chính kiểu quan hệ xác định nên một hệ thống.
Mô hình mới cũng bao gồm một quan điểm về sự tiến triển. Các hệ thống thường xuyên thay đổi do hoạt động hỗ tương ở các bộ phận của chúng, khi chúng tìm cách xử lý hàng loạt vấn đề, năng lượng và thông tin liên tục từ môi trường của chúng. Trật tự là một thuộc tính nổi bật của tình trạng lộn xộn, và trật tự xuất hiện thông qua việc vận động quá trình tự sắp xếp từ bên trong chính hệ thống.
Theo nhận định của dòng tư tưởng mới, các hệ thống đều ở trong một mối quan hệ thân thiết và thường xuyên dẫn tới những cuộc trao đổi với môi trường của chúng. Hơ nữa, hệ thống không chỉ thích nghi với môi trường, mà còn cùng tiến triển với chúng nữa. Hệ thống và môi trường đều thay đổi để đáp ứng với nhau và cùng nhau tiến triển. Chẳng hạn, theo giả thiết của Gaia, sự sống trên Trái Đất phát triển trong hoạt động hỗ tương với thế giới được coi như là một hệ thống sống động. Chúng đều cùng nhau liên quan đến việc tạo ra những điều kiện hỗ trợ cho cuộc sống.
Lý thuyết về tính phức tạp và tình trạng hỗn độn bộc lộ rất rõ khuynh hướng tổng hợp qua các bộ môn, nhờ việc phổ biến rộng khắp mô hình mới. Có sáu khái niệm chủ yếu trong lý thuyết về tính phức tạp: “dễ dàng lệ thuộc vào những điều kiện ban đầu”, “sức hút kỳ lạ”, “tự đồng dạng”, “tự sắp xếp”, hiẹn tượng “sắp sửa hỗn động”, và “phù hợp với bối cảnh”.
Lorenz phát hiện rằng xu thế phát triển của các hệ thống thời tiết là cực kỳ nhạy cảm với những thay đổi nhỏ trong những điều kiện ban đầu. Những thử nghiệm sau này của ông trên các hệ thống đơn giản như hệ thống đối lưu và bánh xe nước đã xác nhận kết quả này.
Tuy nhiên, Lorenz cũng công nhận rằng có nhiều trật tự ẩn bên dưới sự hỗn độn rõ rệt. Với những điều kiện ban đầu hơi khác biệt, có thể các hệ thống thời tiết không lập lại cùng một tác động theo thời gian, nhưng chúng lại biểu lộ những kiểu mẫu tương tự. Chẳng hạn, khi được vẽ trên đồ thị, thì tác động của bánh xe nước không bao giờ lập lại chính nó, nhưng nó vẫn ở lại bên trong những giới hạn của một đường con hình xoắn ốc. Do đó, dường như chúng ta không tiên liệu được các hệ thống này, nhưng chúng vẫn được “thu hút” đến với một kiểu tác động đặc biệt. Lorenz gọi đó là “sức hút kỳ lạ”. Theo nghiên cứu của các nhà vật lý, hóa học và sinh học, thì toàn bộ cách vận hành của các hệ thống thiên nhiên đều bị những “sức hút kỳ lạ” chi phối.
Có một đặc điểm khác của các hệ thống bị những “sức hút kỳ lạ” chi phối, đó là chúng bộc lộ khả năng “tự đồng dạng”. Nếu quan sát gắn một đồ thị về tác động của các hệ thống này, thì người ta sẽ thường nhận thấy có một bản sao chính xác về chính đồ thị đó trong một phạm vi khác. Người ta cũng nhận thấy thuộc tính này khi quan sát việc mô phỏng kiểu mẫu nơi những bộ phận của các hệ thống phức tạp. Những bộ phận này hoàn toàn giống nhau về hình dạng. Trong một bài trước, chúng ta đã chứng kiến là để hiểu được tổ chức của các hệ thống xã hội, người ta áp dụng lối điều hành tổ chức, bằng cách sử dụng ý tưởng về sự đồng dạng ở những mức độ tuần hoàn khác nhau.
Người ta cũng nhận thấy rằng với khả năng thích nghi, các hệ thống phức tạp có thể “tự sắp xếp”. Dường như trật tự xuất hiện một cách tự nhiên, vượt ra ngoài tình trạng hỗn độn. Ilya Prigogine, một nhà hóa học Nga, người đã từng đoạt giải Nobel vào năm 1977 với công trình của ông về các “cấu trúc bị tiêu tan”, đã phát hiện ra đặc điểm tự sắp xếp nơi tác động của các hệ thống này. Ông lý luận rằng nền khoa học truyền thống đã tập trung vào việc nghiên cứu các hệ thống trong trạng thái “cân bằng nhiệt động lực học” không có lợi cho các hệ thống đang vận hành tách rời khỏi thế cân bằng. Nếu một hệ thống nào ở trong trạng thái mất cân bằng, thì có lẽ do ảnh hưởng của các vòng phản hồi tích cực, hệ thống đó có thể bị tan ra. Tuy nhiên, Prigogine đã chứng tỏ rằng trong những điều kiện nào đó, các hệ thống hóa học vẫn có thể vượt qua tình trạng tùy tiện và đạt được một mức độ trật tự mới như là các “cấu trúc bị tiêu tan”, người ta gọi như vậy bởi vì chúng cần đến năng lượng từ bên ngoài để giúp chúng khỏi bị tiêu tan. Các hệ thống bị mất cân bằng vẫn có khả năng tự tổ chức và đạt được một loại trật tự mới. Chúng có thể phát triển hướng tới trạng thái phức tạp hơn, thông qua khả năng tự động sắp xếp.
Hiện tượng “sắp sửa hỗn độn” là một sự biến chuyển giữa trật tự và hỗn độn, hiện tượng này rất có lợi cho sự xuất hiện của các kiểu tác động kỳ lạ. Nhà hóa học Prigogine nhận thấy là khi các hệ thống hóa học sắp bị rơi vào tình trạng hỗn độn, thì chắc chắn hệ thống này sẽ bộc lộ một cách xử lý tự động, thuộc về khả năng tự sắp xếp. Khái niệm về hiện tượng sắp sửa hỗn độn đã bộc lộ ảnh hưởng lớn trong nhiều lĩnh vực khác nhau, kể cả lĩnh vực quản lý và tổ chức.
Kauffman, một nhà khoa học về y khoa đã áp dụng khái niệm trên đây vào lĩnh vực sinh học và sự tiến triển, khi ông phát minh ra một khái niệm quan trọng khác đối với lý thuyết về tính phức tạp, đó là khái niệm về “sự phù hợp với bối cảnh”. Như chúng ta đã biết, lý thuyết về tính phức tạp cho rằng các hệ thống cùng tiến triển với môi trường của chúng. Tất nhiên, môi trường của bất cứ hệ thống nào đều sẽ chứa đựng nhiều hệ thống khác cũng có quy trình cùng tiến triển tương tự như vậy. Kauffman hình dung toàn bộ môi trường như là một bối cảnh, người ta có thể tiên liệu được tác động của môi trường khi nhìn vào bất cứ hệ thống nào. Hệ thống phải cố gắng vượt qua bối cảnh này. Nếu hệ thống đạt được đỉnh cao, thì nó đang tiến triển ở mức độ cao, và nó có thể hài lòng khi nhìn vào các đối thủ cạnh tranh. Ngay cả khi hệ thống đạt được đỉnh cao, thì người ta vẫn phải cảnh giác, bởi vì bất cứ sức nặng nào đè lên nó đều sẽ có thể làm cho đỉnh cao của nọ bị sụp xuống.
C/ Phương pháp luận
Những người biện hộ cho lý thuyết về tính phức tạp và tình trạng hỗn độn khẳng định rằng phương pháp của lý thuyết này đòi hỏi các nhà quản lý phải hoàn toàn thay đổi lối suy nghĩ, nếu họ muốn đảm bảo thành công trong kinh doanh. Họ phải chấp nhận là không thể biết được tương lai lâu dài của tổ chức mà họ quản lý. Chính các vòng phản hồi gián tiếp đã xác định đặc điểm của các tổ chức và môi trường, khiến chúng trở nên nhạy cảm đối với những khác biệt nhỏ bé về điều kiện ban đầu, và đảm bảo rằng không ai tiên liệu được tác động của chúng. Do đó, người ta kông thể lên kế hoạch lâu dài được.
Người ta khuyên các nhà quản lý nên vui vẻ chấp nhận tình trạng hỗn độn. Họ có thể tin tưởng vào sự hỗn độn và cứ để cho tổ chức của mình tiến triển, trong khi vẫn nhớ rằng sự biến đổi liên tục và trật tự nổi bật là trạng thái tự nhiên của các sự việc. Họ có thể gác sang một bên gánh nặng của nỗ lực lên kế hoạch, tổ chức và kiểm soát mọi chuyện. Có thể các nhà quản lý không có khả năng tiên liệu và kiểm soát tổ chức, nhưng họ có thể đảm bảo được sự uyển chuyển và đáp ứng của mình, bằng cách tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi và tự sắp xếp.
Stacey (1996) đã sử dụng khái niệm “sắp sửa hỗn độn” để đưa ra lối giải thích chi tiết nhất về cách làm thế nào để có thể thúc đẩy việc học hỏi và khả năng tự sắp xếp trong các tổ chức. Trong phần kết luận của lý thuyết về tính phức tạp, ông ghi chú rằng tất cả các hệ thống phức tạp có khả năng thích nghi đều có thể vận hành ở một trong ba lĩnh vực: khu vực bền vững, khu vực bất ổn và khu vực sắp sửa hỗn độn, đây là một khu vực chuyển tiếp giữa khu vực bền vững và khu vực bất ổn. Trong khu vực bền vững, các hệ thống đều không thay đổi; trong khu vực bất ổn, chúng có thể bị tan rã; nhưng trong khu vực sắp sửa hỗn độn, tự nhiên xảy ra các quy trình có khả năng tự sắp xếp, và những kiểu tác động mang tính sáng tạo có thể nổi lên. Do đó, dường như đây là chỗ tốt nhất dành cho các tổ chức. Tại khu vực sắp sửa hỗn độn, khi ở trong tình trạng “giáp giới với sự bất ổn”, các hệ thống có thể bộc lộ được đầy đủ tiềm năng sáng tạo của chúng.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – SCDRC
Nguồn tham khảo: Micheal C.Jackson – Phương án tối ưu trong quản trị và kinh doanh – NXB ĐN 2011.
Chia sẻ:
- X
Có liên quan
Từ khóa » Tính Phức Tạp Là Gì
-
Phức Tạp - Wiktionary Tiếng Việt
-
Độ Phức Tạp – Wikipedia Tiếng Việt
-
Tính Phức Tạp Trong Việc Sử Dụng Các Thuật Ngữ Triết Học
-
Độ Phức Tạp Của Thuật Toán Và Lựa Chọn Cách Giải Thuật
-
Tính Cách Phức Tạp Là Gì?
-
ĐịNh Nghĩa Phức Tạp TổNg Giá Trị CủA Khái NiệM Này. Đây Là Gì ...
-
Phức Tạp Là Gì? Hiểu Thêm Văn Hóa Việt - Từ điển Tiếng Việt
-
Độ Phức Tạp Tính Toán - VNOI
-
Ý Nghĩa Của Sự Phức Tạp (nó Là Gì, Khái Niệm Và định Nghĩa)
-
Từ điển Tiếng Việt "phức Tạp" - Là Gì?
-
[Thuật Toán] Độ Phức Tạp Không Hề Phức Tạp | TopDev
-
Phức Tạp Nghĩa Là Gì? - Từ-điể
-
Độ Phức Tạp Thuật Toán: Ảnh Hưởng Của O Lớn Tới Performance - Viblo
-
Thuật Toán Và độ Phức Tạp Của Thuật Toán Trong Lập Trình Là Gì?