Món ăn Truyền Thống Của Dân Tộc Mường - Wiki Phununet

Món ăn truyền thống của dân tộc Mường. “ Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới…” Đó là câu nói đã được đúc kết từ xa xưa của ông cha khi nói về truyền thống dân tộc Mường- “ Văn hoá Mường ”.

Văn hoá của một tộc người nói chung và văn hóa Mường nói riêng không phải là cái gì đó quá bao la, rộng lớn hay khó nắm bắt. Đó là những nét riêng , độc đáo biểu hiện sinh động trong nội dung và hình thức của một số giá trị văn hoá tiêu biểu: Văn hoá ẩm thực, văn hoá trang phục, văn hoá nhà ở- kiến trúc, ngôn ngữ, lịch pháp, tín ngưỡng- tôn giáo, phong tục tập quán, đạo đức,văn học - nghệ thuật, y học cổ truyền,…

Như vậy, tìm hiểu một nét văn hoá cũng chính là đã tìm hiểu được tính cách, lối sống, lối sinh hoạt của dân tộc đó. Ở đây, tôi muốn đề cập đến một nét văn hoá vật chất của người Mường - mà khi soi vào đó, tâm hồn dân Mường, nếp sống, cách nghĩ, phong tục tập quán và truyền thống của họ hiện lên một cách tự nhiên, giản dị nhưng lại mang đậm nét bản sắc văn hoá riêng, không thể nhầm lẫn- Nét văn hoá ẩm thực.

Nói đến Ẩm thực Mường là nói tới nét văn hoá toát lên trong mỗi món ăn, thức uống, trong cách họ ăn như thế nào. Với cuộc sống thường nhật, người Mường sáng tạo ra những món ăn của riêng mình, và khi ta thưởng thức ẩm thực Mường, ta hiểu hơn về cuộc sống lao động, nếp sống bao đời nay của dân tộc này.

ca

Người Mường thường sinh sống trong những thung lũng có triền núi đá vôi bao quanh, gần những con sông, con suối nhỏ. Họ trồng lúa trên những thửa ruộng bậc thang hay trong chân núi trũng nước, trồng ngô, khoai sắn trên các nương rẫy thấp, săn bắt hái lượm trên rừng và đánh bắt cá tôm ở lòng sông , khe suối. Cuộc sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên; chính từ sự che chở của thiên nhiên đó, người Mương đã tồn tại cùng những món ăn, thức uống do họ tự sáng tạo ra, để rồi từ đó Văn hoá Ẩm thực Mường đã được khẳng định.

comlam

Người Mường rất thích ăn thức ăn có vị chua : củ kiệu, quả cà muối chua với cá, rau cải muối dưa, quả đu đủ muối dưa tép, rau sắn muối dưa cá, lá lồm nấu thịt trâu, thịt bò, lá bểu, lá chau khao nấu cá đồng, muối thịt trâu, tiết bò ăn vào mùa nào cũng thích hợp. Đặc biệt, trong góc bếp của mỗi gia đình Mường không thể thiếu những hũ măng chua.Nguồn thức ăn quanh năm sẵn có nơi núi rừng. Măng chua có thể xào nấu với cá, thịt gà, vịt, nước măng chua kho thịt trâu, kho cá, chấm rau sống hay ngâm ớt tươi,…

lon

Vị đắng cũng là vị mà người Mường rất yêu thích. Măng đắng; lá, hoa, quả đu đủ không chỉ là món ăn thường ngày mà còn là món để thờ phụng trong nhiều nghi lễ dân gian. Ngoài ra còn có rau đốm, lá kịa, vừa là thức ăn vừa là thuốc đau bụng. Đặc biệt, ruột và dạ dày con Don vừa là vị thuốc chữa dạ dày vừa là món ăn quý hiếm.

Gắn với vị cay, người Mường có món Ớt nổi tiếng . Ớt được băm lẫn với lòng cá; hay đầu, tiết luộc, ruột cắt nhỏ của con gà, vịt. Băm nhỏ cho tất cả lên màu nâu sẫm, cắt nhỏ vài loại rau thơm trộn vào là được món ớt. Vị ớt cay của người Mường thường dùng để chế biến thành những món ăn riêng chứ không làm gia vị xào nấu như một số dân tộc khác.

Truyền thống của người Mường là thích bày cỗ trên lá chuối trong tất cả những bữa cỗ cộng đồng: Lễ hội, cưới xin, tang ma hoặc lễ cúng lớn trong năm. Trong mỗi dịp lễ tết, hội hè, món ăn và cách bày trí nó đều có những nét riêng, chứa đựng cả một tín ngưỡng. Với người Mường, phần ngọn và mép lá tượng trưng cho Mường Sáng- mường của người sống, phần gốc lá và mang lá tượng trưng cho Mường Tối- Mường ma, mường của người chết. Chính thế, khi dùng lá chuối bày cỗ, người Mường có quy tắc phân biệt: Người vào, ma ra. Tức là khi dọn cỗ cho người sống , phần ngọn lá hướng vào trong , phần gốc lá hướng ra ngoài, còn khi dọn cỗ cho người ma thì ngược lại. Đây là một quy tắc khá nghiêm ngặt, không thể vi phạm bởi người Mường tin rằng, sự vi phạm sẽ mang lại những điều dữ hoặc làm mất lòng khách.

uongruoi

Trong văn hoá ẩm thực Mường, tục uống rượu đúng ra thành một nét văn hoá riêng- Văn hoá rượu cần. Rượu cần người Mường luôn phải uống tập thể, mỗi lần uống rượu cần là ta lại được hoà mìng vào những luật vui của các tuần rượu, được nghe hát dân ca Thường rang- Bộ mẹng, hát đối đáp của các bên tham gia. Có thể khẳng định rằng, văn hoá Ẩm thực Mường cũng văn hoá rượu Cần đã thể hiện được tính cộng đồng và tính huyết thống rất cao của dân tộc. Hoà Bình từ lâu đã được coi là tỉnh Mường , Văn hoá Mường góp phần rất lớn làm nên sự hấp dẫn đặc biệt cho mảnh đất giàu truyền thống văn hoá này. Đến với Hoà Bình, tìm hiểu văn hoá bản địa, không thể không đến Bảo tàng Không gian văn hoá Mường - nơi tái hiện và lưu giữ lại cả không gian sống, lối sinh hoạt, lao động sản xuất và những nét văn hoá đặc sắc của chủ nhân mảnh đất. Đến đây, chúng ta sẽ thực sự được hoà mình vào một xã hội Mường thu nhỏ, được thưởng thức ẩm thực dân gian trong khung cảnh nhà sàn, trong âm vang tiếng nhạc cồng chiêng, hoà cùng những lời ca tha thiết của các chàng trai, cô gái Mường. Về với Hoà Bình, về với bản sắc văn hoá Mường cũng chính là đã tìm về cội nguồn, với lịch sử của dân tộc

Một số món ăn độc đáo của người Mường

Mâm cỗ truyền thống trong các dịp lễ, tết của người Mường.

Trải qua thời gian dài lịch sử hình thành và phát triển, người dân tộc Mường (Hoà Bình) ngày càng biết cách sống cùng thiên nhiên, tận dụng tiềm năng của nó phục vụ đời sống con người. Họ phát hiện ngày càng nhiều về nguồn thức ăn có sẵn trong thiên nhiên và tìm cách chế biến hợp khẩu vị, bồi dưỡng… Dưới đây là một số món ăn đặc trưng cho văn hóa ẩm thực phong phú của dân tộc Mường.

- Nước chấm ớt:

Ớt nướng giã với củ kiệu, sau đó lấy đầu gà, tiết gà, ruột gà giã tiếp cho nhuyễn rồi trộn với ít rau thơm thái nhỏ thành món nước chấm ớt Mường cổ truyền. Món này dùng để chấm thịt luộc rất ngon.

- Đĩa quéch:

Gồm tai lợn, đuôi lợn, mảng đầu mũi, đầu lưỡi là bốn bộ phận tượng trưng cho cả con lợn. Món này được làm trong dịp cúng cơm mới. Trước khi ăn phải để lên bàn thờ cùng tổ tiên.

- Ngách lưỡi:

Gồm thủ lợn, tai, lưỡi lợn được thái thành sợi trộn với óc lợn, sau đó trộn với gừng già và lá hẹ cắt nhỏ. Món này có đủ các vị cay, thơm, béo rất hấp dẫn.

- Ốc cá:

Được làm bởi cá chép xắt khúc, xếp bên cạnh sợi mày bương, sợi gừng, miếng sả, bọc ba lần lá chuối đem đồ kỹ rồi vớt ra. Trong lá chuối đọng nước cá đồ là thứ nước chấm rất thơm ngon có mùi gừng, mùi cá, mùi lá, mùi mỡ.

- Loọng:

Xương trâu hay xương lợn vẫn còn mỡ, gân, thịt thô đem ninh với lõi mềm của thân cây chuối thái ngang. Món này làm khi nhà có việc lớn, đông khách như hiếu hỉ.

- Pẻng năng (bánh nẳng):

Dân tộc Mường có một loại bánh được lưu truyền từ xa xưa, cách làm công phu và chỉ có ở Hoà Bình. Bánh được làm như sau: lấy cây mận và cây đu đủ rừng phơi khô, đốt thành tro, sau đó lắng lấy nước trong; hoà nước vôi, gạn nước vôi trong rồi đem đổ lẫn vào nước tro.

Lấy lá trầu nhúng vào nước đã chế, vớt ra cho vào miệng nhai rồi nhổ bọt nước thấy đỏ như trầu têm thì đổ gạo đã vo sạch vào ngâm. Sau 6 tiếng, vớt gạo ra gói như gói bánh chưng (gói nhỏ vừa ăn), xong bỏ vào nồi luộc khoảng 10 tiếng rồi vớt ra, treo lên.

Bánh có màu xanh như ngọc, khi ăn sẽ cảm thấy một vị mát tuyệt với, có rất nhiều hương hoa, hương lá lan toả khắp cơ thể con người.

Bánh làm vào dịp Tết dùng để cúng tổ tiên, nhằm tỏ lòng thành kính và chứng tỏ sợ trong xanh của núi rừng.

-Pẹng goẹng:

Nguyên liệu chính là bột ướt làm từ gạo tẻ, nhân rắc vào bột ướt là cá con (bắt ở ao, suối) băm nhỏ đã được đảo qua đảo lại nhiều lần trên chảo. Sau đó, bánh được gói bằng lá chuối đem luộc cho đến chín. Bánh này thường được làm trong dịp giỗ chạp, hội hè.

-Cá ướp chua:

Cá ướp chua là món không thể thiếu được trong những ngày Tết của người Mường. Để có được một hũ cá chua (pe cá tưa). Cách làm rất cầu kỳ: Đem cá mổ bụng moi ruột rửa sạch, bỏ đầu và đuôi, con nhỏ cắt thành hai, ba khúc, con to cắt thành miếng bằng hai, ba ngón tay. Sau khi cá ráo nước thì đổ vào chậu hay sanh sạch, rắc muối hơi đậm một chút, thêm vào một ít cơm nguội, một ít men rượu (tùy theo lượng cá). Tất cả trọn đều rồi cho vào hũ, lấy lá chuối tươi hơ lửa bịt kín miệng hũ và lấy lạt buộc miệng hũ thật kín. Thường xuyên kiểm tra, nếu lá rách, hở thì phải lấy lá khác bịt thêm vào đó. Khoảng mươi, mười lăm ngày mở hũ ra xem. Nếu cá có mùi chua thì bỏ “xỉnh” (thỉnh) vào, nếu chưa có mùi thì lấy muối hòa nước ấm đổ vào để gần lửa. Rang ngô nếp hạt giã nhỏ để nguội. Riềng rửa sạch thái lát, giã nhỏ. Hành cắt dài rửa sạch. Đổ cá ra, trộn đều các gia vị nói trên rồi lại bỏ vào hũ, lấy lá chuối bịt kín, buộc chặt miệng hũ. Lấy tro nhào với nước trát lên trên miệng hũ cho thật kín.

Cá ướp chua để bao lâu tùy theo chủ nhà. Tuy nhiên có một số cách thưởng thức cá ướp chua như sau:

  • Cá ướp chua để từ 3- 6 tháng: ăn ngay không cần qua chế biến.

  • Cá ướp chua gói vào lá cây thầu dầu (lá bánh tẻ) kẹp vào que tre rồi nướng bằng than củi.

  • Cá ướp chua đem nấu canh.

  • Cá ướp chua làm bánh và cơm “chộp hông”.

Món ăn Giáng sinh truyền thống hấp dẫnMón ăn của người đạo hồiMón ăn của người dân tộc nổi tiếng ở Việt NamNhững món ngon cho ngày Tết cổ truyền ở ba miềnĐặc sản của Mộc Châu cho Tết cổ truyềnTết cổ truyền của người Campuchia (st)

Từ khóa » Các Món ăn Dân Tộc Mường