Một Số Bệnh ở Tôm Sú Và Phương Pháp Xử Lý (Phần 2)

Bệnh xuất hiện khi môi trường nuôi xấu. Virus gây bệnh trên có từ nguồn nước và các loại giống: còng, cua, cáy, ghẹ… bệnh thường xuất hiện sau khi thả giống đến trưởng thành.

Bệnh do virus gây ra (thường gặp ở Việt Nam)

Có hai bệnh chủ yếu:

Bệnh thân đỏ đốm trắng (BV)

Theo kỹ thuật nuôi tôm, bệnh thường xảy ra ở giai đoạn tôm từ 40 – 50 ngày tuổi. Đốm trắng là các ion Ca++ lắng đọng ở mặt vỏ. Nguyên nhân do virus BV gây ra, bệnh xuất hiện khi môi trường xấu virus này có từ nguồn nước và các giáp xác hoang dã.

- Dấu hiệu bệnh lý: tôm bỏ ăn, lờ đờ, trên thân xuất hiện nhiều đốm trắng nhỏ đường kính 1mm nằm dưới lớp kitin phần đầu ngực và các đốt bụng. Màu sắc của tôm khi mắc bệnh dần biến từ màu hồng sang màu đỏ nâu, đuôi và chân bơi tôm bị cụt, mang đổi màu.

- Tác hại: các virus xâm nhập vào các cơ quan và phá hủy mang, gan, tụy, thần kinh, dạ dày làm tôm chết hàng loạt sau 5 – 7 ngày.

- Phương pháp xử lý: tôm bị chết trên không có biện pháp xử lý bệnh nếu tôm đạt kích cỡ có thể bán được nên tranh thủ thu hoạch nhanh. Ao tôm sau khi thu hoạch phải xử lý tốt trước khi tháo nước ao ra ngoài bằng Clorin (30mg/m2) trong vòng 3 – 5 ngày trước khi tháo ra.

Bệnh thân đỏ đốm trắng (BV) thường xảy ra ở giai đoạn tôm từ 40 – 50 ngày tuổi

Bệnh thân đỏ đốm trắng (BV) thường xảy ra ở giai đoạn tôm từ 40 – 50 ngày tuổi

Bệnh đầu vàng (YHD)

Bệnh xuất hiện khi môi trường nuôi xấu. Virus gây bệnh trên có từ nguồn nước và các loại giống: còng, cua, cáy, ghẹ… bệnh thường xuất hiện sau khi thả giống đến trưởng thành.

- Dấu hiệu bệnh lý: tôm khi mắc bệnh thấy sức ăn giảm đáng kể, tôm bơi chậm chạp trên bờ mặt sát bờ ao nuôi và dừng lại ở trạng thái bất động. Tôm bị bệnh lần đầu đặc trưng là mang có màu nhợt nhạt, (đầu vàng do gan tụy có màu vàng nhạt bị virus phá hủy).

- Tác hại: bệnh gây chết nghiêm trọng 100% trong vòng 3 – 5 ngày kể từ khi xuất hiện đầu tiên.

- Phòng bệnh: áp dụng các phương pháp đã nói ở phần đầu.

- Trị bệnh: hiện chưa có biện pháp xử lý bệnh tốt, cần thu hoạch khi tôm chớm bệnh nếu đặt cỡ thu.

Bệnh do vi khuẩn gây ra

Bệnh phát sáng

Theo kỹ thuật nuôi tôm, do vi khuẩn Vibrio harveyi gây ra, nếu tôm bị nhiễm sẽ làm tôm phát sáng trong bóng tối.

- Nguyên nhân: do môi trường xấu.

- Giai đoạn xuất hiện bệnh chủ yếu thời kỳ ấu trùng và hậu ấu trùng (thời kỳ ươm từ P15).

- Dấu hiệu bệnh lý: tôm lờ đờ, kém ăn một số nổi lên mặt nước hoặc dạt vào mép ao, trên cơ thể tôm nổi bị vi khuẩn phát sáng trong bóng tối, bệnh lây lan nhanh ra quanh khu vực nếu phòng trị vệ sinh không tốt.

- Tác hại: tôm bị nhiễm với lượng vi khuẩn phát sáng nhiều cơ thể bị tổn thương có thể gây chết hàng loạt.

- Xử lý: nước trước khi vào ao nuôi cần được xử lý bằng hóa chất Clorin 100 – 200ppm + thuốc tím.

- Phòng bệnh: quản lý môi trường nước ao nuôi tốt.

Bệnh phát sáng do vi khuẩn Vibrio harveyi gây ra

Bệnh phát sáng do vi khuẩn Vibrio harveyi gây ra

Bệnh ngoài vỏ, đốm nâu, hoại tử phụ bộ

Do nhóm vi khuẩn Vibrio có khả năng phá vỏ lớp kitin do môi trường xấu, sức đề kháng của tôm giảm và cơ hội để mầm bệnh tôm phát triển.

- Giai đoạn bị bệnh: tất cả các giai đoạn của tôm.

- Dấu hiệu bệnh lý: các chỗ bị bệnh bị ăn mòn như phụ bộ, râu, mang, biểu bì xung quanh và phần cuối của giáp đầu ngực giai đoạn bệnh nặng xuất hiện những chấm có màu nâu nhạt.

- Nguyên nhân: do môi trường ô nhiễm.

- Tác hại: gây tổn hại chùy trên vỏ, mắt, lột xác bị trở ngại di chuyển hoạt động khó khăn, kém ăn gây tử vong nếu bệnh kéo dài.

- Phòng bệnh như các giải pháp phòng bệnh tồng hợp.

Bệnh hoại cơ

- Nguyên nhân: do sốc mạnh và quá đột ngột với các yếu tố hàm lượng oxy hòa tan, nhiệt độ nước, độ mặn, môi trường xấu.

- Giai đoạn bị bệnh: tất cả các giai đoạn.

- Dấu hiệu: bệnh lý bệnh thường riêng lẻ tôm bị mốc trắng (màu đục sữa) ở phần cơ của các đốt hay nơi bị hoại tử hai mép đuôi hư hại nên giòn dễ gãy (thường gọi bệnh thối đuôi).

- Tác hại: ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm, chỗ bị hoại cơ là cơ sở để mầm bệnh khác phát triển.

- Phòng bệnh: áp dụng các giải pháp phòng bệnh tổng hợp.

Sau một thời gian nuôi: 110 – 120 ngày (đối với vụ nuôi Xuân Hè ở khu vực phía Bắc) tôm có thể đạt cỡ trung bình 30 – 35g/con, cá thể lớn có thể đạt 45 – 50g/con thì tiến hành thu hoạch. Tuy nhiên trong quá trình nuôi nếu phát hiện tôm bị bệnh mà đã đạt cỡ 15 – 20g/con thì thu hoạch gấp:

Thu hoạch bảo quản tôm sú

Bệnh do nhóm sinh vật gây ra

Bệnh đóng rong

- Nguyên nhân: do nhóm sinh vật gây ra gồm: một số nấm, nguyên sinh động vật, nhóm tảo. Bệnh thường xảy ra ở những ao có nguồn nước bị ô nhiễm nền đáy xấu, do nuôi ở mật độ cao, thức ăn dư thừa xử lý môi trường không tốt, phiêu sinh vật phát triển mạnh.

- Giai đoạn bị bệnh: tôm giống cỡ 2 – 3cm.

- Dấu hiệu bệnh lý: do môi trường nước ao xấu tôm yếu nên các sinh vật phủ thành lớp trên vỏ mang, các đốt phụ bộ, tôm thường nổi lên mặt nước hay bám vào thành bờ, tôm có màu xanh (do tảo lục bám) có màu vàng (do tảo khuê bám) tôm bị bệnh nên chậm lớn, khó lột xác.

- Xử lý: quản lý môi trường tốt đặc biệt quan tâm sử dụng các chế phẩm vi sinh BRF2, EM theo đúng hướng dẫn từ kỹ thuật nuôi tôm chuyên nghiệp từ các chuyên gia.

Bệnh do nguyên nhân sinh động vật

- Nguyên nhân: do một số nguyên sinh động vật gây ra do môi trường bị bẩn.

- Giai đoạn bị bệnh: tất cả các giai đoạn của tôm.

- Dấu hiệu bệnh lý: các sinh vật này bám thành một lớp trên bề mặt, mang, bộ phụ, giáp đầu ngực của tôm (dấu hiệu này tương tự bệnh đóng rong) nhưng tôm không đổi màu sắc.

- Phòng trị bệnh: xử lý môi trường tốt. Đồng thời dùng thuốc đặc trị: Baycox cho vào thức ăn 2 – 3ml/kg thức ăn liên tục trong 5 – 7 ngày.

Bệnh do môi trường có hàm lượng độc tố

Mềm vỏ

- Nguyên nhân: do chất lượng thức ăn, cung cấp thức ăn không đủ, nguồn nước bị nhiễm chất hóa học bất lợi như: nhiễm các loại thuốc dùng trong nông nghiệp thải ra, nước thải công nghiệp có một số hóa chất có độc tính cao, đất có pH thấp.

- Giai đoạn bị bệnh: tất cả các giai đoạn của tôm.

- Tác hại: tôm dễ bị tôm khác ăn thịt, các mầm bệnh tấn công.

- Phòng trừ bệnh: cung cấp thức ăn đủ, chất lượng đảm bảo cho từng giai đoạn, bổ sung một số chất bổ cần thiết trộn với thức ăn cho tôm ăn: vitamin C: 50 – 100mg/100kg thức ăn lúc giai đoạn tôm phát triển mạnh ở những tháng cuối vụ nuôi cho ăn bổ sung: dọn, dắt…

Bệnh phồng nắp mang – đen mang

- Nguyên nhân: do nhiều nguyên nhân (hội chứng đen mang) nguồn nước bị nhiễm kim loại nặng Fe, Cu, Co, Zn, Mn, do thiếu vitamin C, ao nuôi đáy quá nhiều bùn nhiều chất hữu cơ tích tụ do thức ăn dư thừa, chất thải của tôm, pH thấp. Thời gian mắc bệnh có thể bắt đầu từ tháng thứ 2 đặc biệt tập trung cuối vụ nuôi.

- Dấu hiệu bệnh lý: mang chuyển từ màu hồng sang màu nâu => màu đen, các tia mang phồng lên, trở nên đen. Môi trường càng ô nhiễm bệnh càng nặng.

- Tác hại: tôm hô hấp khó khăn, kém ăn, sức đề kháng giảm, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển.

- Phòng bệnh: không cho thức ăn dư thừa, thay nước thường xuyên, nạo hút đáy (nếu có điều kiện), xử lý môi trường tốt tránh nguồn nước bị ô nhiễm. Bổ sung vitamin C vào thức ăn của tôm.

Ngoài một số bệnh thường gặp ở 4 nhóm trên, tôm còn gặp các bệnh tuy không phổ biến như: đỏ thân (do thức ăn hôi thối kém chất lượng) bệnh bọt khí (do lượng oxy trong nước quá thấp thường nhỏ hơn 4mg/lít) nồi đầu dạt vào bờ; bệnh do pH thấp do đất xì phèn, hoặc sau cơn mưa,… Song một trong những nguyên nhân gây ra tất cả bệnh tôm là do môi trường không đảm bảo, biến động bất lợi.

Do đó, nếu mong muốn có một vụ nuôi tôm đạt kết quả, các hộ nuôi phải hết sức quan tâm đến vấn đề quản lý tốt môi trường nước ao nuôi

Do đó, nếu mong muốn có một vụ nuôi tôm đạt kết quả, các hộ nuôi phải hết sức quan tâm đến vấn đề quản lý tốt môi trường nước ao nuôi

Để tôm giống có môi trường sống tốt, hạn chế bệnh tật bà con có thể đặt mua quạt nuôi tôm chất lượng cao giá tốt tại Đại Tam Phát bằng cách click vào link bên dưới:

Quạt nuôi tôm chất lượng cao Đại Tam Phát

Từ khóa » Tôm Sú 40 Ngày Tuổi