Một Số Bệnh Thường Gặp Trên Heo - Thuyết Minh đề Tài - 123doc

a. Bệnh dịch tả

Bệnh dịch tả là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất có thể làm chết hàng loạt gây thiệt hại cho người nuôi heo rừng nhiều nhất. Bệnh dịch tả có thể thường xuyên xảy ra và lây lan trong các trại trên diện rộng. Theo Nguyễn Lân Hùng và cs (2006) cho rằng bệnh xảy ra ở các lứa tuổi của heo và lây lan rất mạnh. Heo bị bệnh có tỷ lệ chết cao tới 90 – 95%. Những con sống sót thường còi cọc, chậm lớn và là nguồn gieo rắc mầm bệnh ra môi trường bên ngoài. Nguyên nhân bệnh dịch tả là do virus lây lan trong bầy đàn với nhau, do tiếp súc trực tiếp hay gian tiếp qua các con heo rừng chuyển từ trại này sang trại khác. Bệnh lây lan qua đường tiêu hóa và qua động vật khác đem tới là chim, chuột, chó, mèo và cả đến người mang virus bệnh dịch tả đến. Nuôi heo rừng bằng thức ăn thừa ở các cửa hàng mang về nấu cho heo ăn, nấu không kỹ chưa chín không diệt được virus còn đem mầm bệnh về lây lan sang heo nuôi.

Heo rừng bị bệnh có biểu hiện chậm chạp, im lặng, chán ăn, màng mắt đỏ sưng và có mủ; da vùng bụng, trong háng, ở hai tai có mầm đỏ bầm tím do xuất huyết máu chảy bên trong và dưới da có những chấm đỏ. Heo trở nên yếu đuối, nằm chụm lại kê đầu lên nhau và chui vào gốc nằm yên; sau đó có hiện tượng thần kinh làm heo rừng cong lưng, chân yếu đi xiêu vẹo, chân cứng thẳng và tiêu chảy. Heo

27

rừng bị nhiễm bệnh tử vong tương đối nhanh, trong trang trại mà bị bệnh dịch tả thì tỷ lệ tử vong cao trên 90% (Nguyễn Chung, 2010).

Phòng chống dịch này là ngăn ngừa lây lan dịch bệnh từ trại này sang trại khác, heo rừng mua ở các trại khác phải nuôi riêng để theo dõi 20-30 ngày, khi thấy không có bệnh mới đem nuôi chung với các con heo khác của trại; không để người ngoài vào trong khu vực chăn nuôi heo rừng vì vi khuẩn có thể lây lan qua việc tiếp súc nếu người đến có mang theo mầm bệnh.

Khi nghi ngờ heo rừng trong chuồng bị bệnh dịch tả lây lan thì cho tiêm vắc- xin Hyperimmun syrup ngay và phải tiêm cho tất cả heo rừng có trong trại kể cả những con chưa mắc bệnh. Những con bị mắc bệnh nặng quá khó có thể qua khỏi nên giết thiêu hủy. Khi chữa bệnh phải quan sát hiện tượng của heo rừng hàng ngày, nếu heo có hiện tượng xưng phổi, viêm ruột thì phải trị ngay bằng thuốc kháng sinh hoặc bằng sufamide. Trị bệnh dịch tả rất tốn kém và có khi chữa bằng thuốc heo rừng vẫn chết (Nguyễn Chung, 2010).

Theo Nguyễn Lân Hùng và cs(2006) phòng bệnh: Tiêm vacxin dịch tả đông khô (loại 10 – 20 liều trong ống thủy tinh) và pha với nước sinh lý (nếu ống vacxin đóng 10 liều thì pha với 20cc nước).

Liều tiêm: heo con 60 ngày tuổi tiêm 0,5ml; heo 45 – 50kg tiêm 1ml; heo 60 – 100kg tiêm 2ml. Tiêm dưới da sau gốc tai hoặc dưới nách; không sát trùng bằng cồn trước và sau khi tiêm. Khi phát hiện chính xác đàn heo bị dịch tả, nên dùng vacxin tiêm thẳng vào đàn heo ở ổ dịch. Cần tiêm phòng cho các đàn heo xung quanh, không bán chạy heo, không vận chuyển đi nơi khác. Heo chết phải đem chôn, tiêu độc chuồng trại bằng vôi bột hay phun các thuốc sát trùng như crezil, xút… Các chất thải như phân rác, nước tiểu của heo bệnh cần được tập trung ủ theo phương pháp vi sinh vật học (chôn sâu, ủ kín, trộn vôi… )

b. Bệnh tiêu chảy

Bệnh tiêu chảy thường xảy ra đối với heo rừng con mới đẻ con non, có thể có hai nguyên nhân là do vi khuẩn xâm nhập gây bệnh và do thiếu khoáng chất, thiếu vitamin A và chất sắt. Heo rừng con bị nhiễm bệnh do vi khuẩn lây nhiễm gây ra cho đường tiêu hóa như E. coli,salmonelle, lepto... dễ bị chết. Trong 2-3 ngày đầu sau khi sinh nếu bị nhiễm bệnh, heo rừng con sẽ chậm chạp, buồn, đi phân nhão, có màu vàng lẫn màu trắng hôi thối; heo gầy còm xanh xao rất nhanh và sẽ chết trong thời gian ngắn, chỗ đuôi phân dính dơ bẩn. Không được điều trị chữa chạy kịp thời heo rừng con sẽ chết hết cả đàn.Việc điều trị chữa bệnh cho heo con bị bệnh bằng uống thuốc trực tiếp thường không hiểu quả, tốt nhất là cho heo rừng mẹ uống thuốc hay chích thuốc rồi cho heo con bú sữa mẹ, tiêm tetramycin hay sufameracin và chỉ cần tiêm một lần là có kết quả (Nguyễn Chung, 2010).

c. Bệnh phân trắng heo con

Bệnh phân trắng heo con thường xảy ra đối với heo con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm nhưng hay gặp nhất khi thời tiết thay đổi: nóng lạnh bất thường, mưa nhiều, độ ẩm cao… Nguyên nhân gây bệnh có thể là do heo mẹ khi mang thai được ăn thiếu chất, nhất là thiếu một số chất khoáng như sắt, canxi, coban, vitamin B12… làm cho heo con kém phát triển. Cũng có thể do ăn thức ăn lạ, thức ăn của heo mẹ chưa được nấu chín… cũng làm heo con dễ bị ỉa phân trắng. Ngoài ra, còn do nền chuồng ẩm ướt hoặc do thời tiết thay đổi. Cũng có thể còn do heo con

28

không được bú sữa đầu sớm, sức đề kháng giảm, một số vi khuẩn gây ỉa chảy phát triển, tăng độc lực gây bệnh.

Heo con thường mắc sau 3 – 4 ngày tuổi trở đi, heo con kém bú, bỏ bú, dáng bộ ủ rũ, đi đứng xiêu vẹo. Heo con đi ỉa, da khô nhăn nheo, heo gầy đi rất nhanh, hậu môn thường dính bết phân màu trắng (lúc đầu phân có màu xanh đen, sau đó chuyển sang màu xám – màu xi măng rồi chuyển sang màu trắng). Heo con bị bệnh thường hay khát nước, đôi khi nôn ra sữa chưa tiêu hóa nên có mùi chua. Bệnh kéo dài 2 – 4 ngày hay dài hơn. Heo suy nhược nhanh, co giật, run rẩy và chết, tỷ lệ chết từ 50 – 80%. Đôi khi thấy heo ở 40 – 50 ngày vẫn bị ỉa phân trắng (nếu còn bú sữa mẹ) nhưng thường nhẹ hơn và nếu sống sót sẽ còi cọc về sau.

Nuôi heo nái thời kỳ có thai và nuôi con phải đảm bảo sao cho đủ các chất dinh dưỡng. Trước khi đẻ 1 tuần, nên cho heo mẹ uống thuốc phòng đi ỉa bằng cách hòa thuốc vào thức ăn của heo mẹ. Chuồng nuôi heo con cần khô ráo, có sân vận động và tránh gió lùa. Phải thực hiện tốt 3 khâu: chống lạnh, chống ẩm, chống bẩn. Cố gắng cho heo con được bú sữa đầu của heo mẹ càng sớm càng tốt. Sớm bổ sung thức ăn cho heo con đồng thời tiêm thuốc bổ sắt (Dextran sắt) cho heo con. Dùng vacxin chuồng (autovaxin) tiêm cho heo mẹ 1 – 2 tuần trước khi đẻ hay cho heo mẹ uống 3 -4 lần sau khi đẻ. Vacxin có tác dụng bảo hộ 70% cho heo khi đang cho con bú (Nguyễn Lân Hùng và cs, 2006).

29

PHẦN II

PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

Đề tài được tiến hành từ 12/10/2015 đến 11/02/2016 tại Trại Thực nghiệm Chăn nuôi Thú y Trường Đại học Trà Vinh.

Giống heo rừng trong thí nghiệm là giống heo rừng lai Thái Lan được nhập từ trại heo rừng Minh Phát, địa chỉ A12/22 A2 - Ấp 1 - Xã Tân Kiên - Huyện Bình Chánh. Heo có thân hình thon, mình dẹp, tai nhỏ và đứng, mặt lòi trông dữ tợn, ở má có vệt long màu trắng chạy vắt qua mũi. Lông bờm màu đen đậm, mọc từ gáy dọc theo sống lưng cho đến mông. Đuôi nhỏ, ngắn, chỉ dài đến khoeo chân. Chân lợn rừng nhỏ thon, móng nhọn, móng đen, vai cao hơn hông.

2.2 Quy mô nghiên cứu

Qui mô nghiên cứu thực hiện tại trại thực nghiệm, địa bàn tại Trường Đại học Trà Vinh.

2.3 Chuồng trại thí nghiệm

Chuồng trại thí nghiệm là kiểu chuồng hở, hai mái, lợp bằng tol, được xây dựng theo hướng Đông – Tây. Nền chuồng một nửa được làm bằng xi măng, một nửa được lót bằng đẹm lót sinh học có máng ăn và núm uống nước. dãy chuồng thí nghiệm gồm 12 ô chuồng được rào bằng lưới B40 xung quanh với diện tích 150 ×500 cm2, heo được bố trí cá thể vào mỗi ô chuồng.

2.4Phương pháp nghiên cứu

2.4.1 Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức là 4 khẩu phần nuôi dưỡng và 3 lần lặp lại.

Heo được chọn làm thí nghiệm có cùng giống lai Thái Lan, cùng tuổi (2 tháng tuổi) tương đương khối lượng cơ thể, cho ăn ngày 3 lần và cho uống nước tự do.

Mỗi đơn vị thí nghiệm gồm 1 con heo và được nuôi dưỡng riêng biệt. Heo được đánh số từ 1 đến 12 sau đó chọn ngẫu nhiên để đưa vào các nghiệm thức nuôi thí nghiệm 3 tháng.

Bảng 2.1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm:

Lặp lại Nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3

ĐC

1 1 con cái 1 con cái 1 con cái 1 con cái

2 1 con cái 1 con cái 1 con cái 1 con cái

3 1 con đực 1 con đực 1 con đực 1 con đực

Công thức khẩu phần

Khẩu phần thức ăn của heo được phối hợp căn cứ vào nguồn thức ăn xanh và thức ăn tinh bổ sung. Khẩu phần đối chứng gồm 100% thức ăn xanh, các công thức còn lại được thay thế thức ăn xanh bằng thức ăn tinh với tỉ lệ lần lượt là10%, 20%, 30%.

Nghiệm thức 1 = Khẩu phần 1: thức ăn xanh 90% + 10% thức ăn tinh. Nghiệm thức 2 = Khẩu phần 2: thức ăn xanh 80% + 20% thức ăn tinh. Nghiệm thức 3 = Khẩu phần 3: thức ăn xanh 70% + 30% thức ăn tinh. Nghiệm thức ĐC = Đối chứng: thức ăn xanh 100% .

30

Bảng 2.2 Công thức khẩu phần

Khẩu phần

Nguyên liệu Đối chứng

KP 1 (%) KP 2 (%) KP 3 (%) (%) Rau lang 20 30 25 40 Rau muống 30 30 25 25 Cải bắp 50 30 30 5 Thức ăn hỗn hợp 0 10 20 30 Tổng cộng 100 100 100 100

Raulang dùng trong thí nghiệm là rau lang đỏ được trồng tại trại thực nghiệm và mua ở chợ Trà vinh.

Rau muống dùng trong thí nghiệm là rau muống đỏ và được trồng tại trại thực nghiệm.

Bắp cải vụng được thu mua từ chợ rau trà vinh.

Thức ăn hỗn hợp cho ăn cùng 1 công ty và cùng loại thức ăn.

Bảng 2.3 Thành phần dinh dưỡng của thức ăn thínghiệm

Thành phần dinh dưỡng (tính theo trạng thái khô hoàn

Nguyên liệu toàn)

DM (%) CP (%) EE (%) CF (%) ME(kcal)

Rau lang 100 17,72 5,08 17,57 2,266

Rau muống 100 19,81 6,60 15,09 2,547

Bắp cải 100 20,0 6,36 14,54 2,672

TĂHH 100 15,91 1,25 9,09 3,295

Nguồn: Viện Chăn nuôi (2000)

Bảng 2.4 Khẩu phần của thức ăn thí nghiệm

Thành phần Các nghiệm thức ĐC NT1 NT2 NT3 CP (%) 19,31 18,85 18,56 17,81 ME (kcal) 2,572 2,575 2,664 2,665

Cách chế biến thức ăn thí nghiệm

Rau lang, rau muống được cắt vào buổi sáng và thái nhỏ. Bắp cải được thu mua từ chợ về cắt nhỏ.

Thức ăn hỗn hợp được mua từ một công ty thức ăn gia súc có thành phần dinh dưỡng phù hợp.

Rau lang và rau muống được cho ăn ở trạng thái tươi.

Sau khi chế biến tất cả các loại thức ăn ta cân theo tỉ lệ của từng khẩu phần và trộn chung lại với nhau. Trộn sau cho vừa đủ ăn, nếu hết thì mới trộn thêm tránh dư thừa thức ăn ta không cân lại được.

2.4.2 Các chỉ tiêu theo dõi

– Tiêu thụ thức ăn: là lượng thức ăn mà heo đã ăn trong quá trình thí nghiệm. Tiêu thụ tức ăn = Lượng thức ăn cho ăn (kg) – lượng thức ăn thừa

31

–Hệ số chuyển hóa thức ăn: là chỉ số thể hiện khả năng chuyển hóa số kilogam thức ăn thành một kilogram tăng trọng.

FCR =

– Tiêu thụ dưỡng chất ăn:

– Tiêu thụ protein: là tỷ lệ phần trăm của protein thức ăn hấp thu được so với phần ăn vào.

+ Tiêu thụ protein (g) = x Tổng TA tiêu thụ (kg)

– Tỷ lệ hiệu quả protein (PER): là số gam tăng trọng của vật nuôi trên mỗi gam protein ăn vào.

+ Tỷ lệ hiệu quả protein (PER) =

– Tiêu tốn năng lượng trao đổi (ME) Là số kcal của con vật ăn vào trên tổng thức ăn tiêu thụ.

+ Tiêu tốn năng lượng trao đổi (ME) = x Tổng TA tiêu thụ (kg)

– Chi phí thức ăn / 1 kg tăng khối lượng: Là chi phí phải chi ra để thu được một kilogam thịt.

+ = Tổng TA tiêu thụ (kg) x

+ Tăng trọng của heo: là trọng lượng của con vật tăng lên so với trọng lượng ban đầu.

Heo thí nghiệm được cân khi bắt đầu và kết thúc thí nghiệm. Cân heo vào buổi sáng, trước khi cho ăn, cân riêng từng con.

Tăng KL (kg) =KL kết thúc TN (kg) - KL bắt đầu TN (kg – Mổ khảo sát theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 3899-84)

Các đường mổ:

Cắt 1/2 thân thịt xẻ thành 4 phần theo các đường cắt sau:

− Đường cắt D: đường cắt theo hướng vuông góc với trục dài thân đi qua điểm giữa của đốt sống hông cuối cùng và đốt xương khum đầu tiên (chỗ cắt phần bụng).

− Đường cắt E: đường cắt cùng hướng với xương khum và đi qua giao điểm của 2 đường F và D.

− Đường cắt F: đường cắt cùng hướng với trục dài thân và cách mép dưới xương sống cổ và mép cơ thăn chuột 2 cm.

32

giữa của đốt xương sống lưng 4 - 5.

− Đường cắt H: đường cắt theo hướng vuông góc với trục dài thân đi qua điểm giữa đốt xương sống lưng 5 – 6.

− Cân các phần thịt nạc và xương của 1/2 thân thịt xẻ:

+ Lưng hông: phần thịt giới hạn bởi các đường cắt EFG.

+ Đùi sau: phần thịt giới hạn bởi các đường cắt CDE.

+ Ngực đùi trước: phần thịt giới hạn bởi các đường cắt ABFH.

+ Dài thân thịt: Tính từ điểm trước đốt sống cổ đầu tiên đến điểm trước đầu xương hông.

+ Độ dày mỡ lưng: Độ dày mỡ lưng tại điểm P2 tại điểm gốc của xương sườn số 13, cách sống lưng 6,5 cm về phía bên và vuông góc với cột sống lưng.

+ Tỷ lệ đầu: Là trọng lượng đầu sau khi được cắt khỏi thân thịt tại vị trí đốt sống cổ đầu tiên chia cho trọng lượng sống.

+ Tỉ lệ móc hàm (%): Là trọng lượng heo được cân sau khi heo được gây choáng, chọc tiết, cạo lông và bỏ lòng chia cho trọng lượng sống.

Hình 2.1 Các đường cắt heo khảo sát

Xác định khả năng thích nghi

+ Nhiệt độ môi trường (0C): đo bằng nhiệt kế vào buổi sáng, trưa, chiều hàng ngày. + Độ ẩm: đo bằng ẩm kế vào buổi sáng, trưa và chiều hàng ngày.

Xác định một số chỉ tiêu sinh lý

+ Thân nhiệt (◦C): dùng nhiệt kế thủy ngân đo ở trực tràng vào các buổi sáng và chiều sau đó lấy kết quả trung bình vào thứ 7 hàng tuần.

+ Tần số hô hấp (lần/phút) quan sát sự lên xuống của thành bụng và thành ngực 2- 3 phút, rồi lấy kết quả trung bình hàng ngày.

Xác định bệnh gặp

Chúng tôi sử dụng phương pháp theo dõi trực tiếp các triệu chứng lâm sàng trên đường hô hấp và đường tiêu hóa.

2.3.3 Xử lý số liệu

Sử dụng phần mềm Excel để tính toán sơ bộ và xử lý thống kê theo mô hình tuyến tính tổng quát và so sánh sự khác nhau giữa các nghiệm thức bằng phép thử Tukey

33

PHẦN III: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 3.1. Tốc độ tăng trưởng của heo rừng lai thí nghiệm

Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy, khối lượng heo đầu thí nghiệm có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P> 0,05) như vậy có thấy khối lượng heo bắt đầu thí nghiệm tương đối đồng đều nhau ở các nghiệm thức. Nhưng sau khi kết thúc thí nghiệm nuôi 3 tháng thì khối lượng heo ở nghiệm thức có tỷ lệ thức ăn tinh cao có khối lượng tăng trọng nhanh hơn ở các nghiệm thức bổ sung ít thức ăn tinh. Trung bình khối lượng heo kết thúc thí nghiệm ở nghiệm thức ĐC; NT1; NT2 và NT3 là 14,2kg/con; 16,8kg/con; 21,6kg/con và 21,3 kg/con và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,01). Tăng trọng toàn kỳ lần lượt ở NT2 cao nhất và thấp nhất là ở nghiệm thức ĐC lần lượt là 4,6; 6,7;12,2; 11,8 điều

Từ khóa » Các Bệnh Của Heo Rừng