Một Trăm Câu Hỏi Đáp Về Pháp Môn Niệm Phật - Pháp Bảo Phật Giáo

Một Trăm Câu Hỏi Đáp Về Pháp Môn Niệm Phật

Niệm Phật Bá Vấn

Thanh Ngộ Khai Trước

Bản Việt dịch của Thích Nguyên Chơn

***

Tựa

Nhất tâm niệm Phật, toàn niệm là Phật, tức tự tánh A-di-đà. Quán tưởng Tây phương, y chánh đều nơi quán, tức duy tâm Tịnh độ. Hễ tâm thanh tịnh tức cõi Phật thanh tịnh. Như vậy, tất cả chúng sanh, toàn tánh hôn mê điên đảo thì A-di-đà ở đâu? Toàn tâm duyên theo cảnh thì Tịnh độ nào còn? Dù đầy đủ tánh đức Như Lai, nhưng chưa từng tu tập, bị tam tế, lục thô1 vùi lấp, lãng quên hạt châu trong chéo áo, lưu chuyển khắp sáu đường.

Đức Phật gọi đó là “những người đáng thương xót”. Sự giàu sang ở thế gian, phước báu ở cõi trời luôn phải siêng năng khổ nhọc mà còn khó được thỏa nguyện, huống gì xuất thế gian, xa lìa sanh tử? Đã sanh tâm mong cầu, lại sợ khổ tu, nói suông tánh đức, thì chỉ tự dối mình dối người, đến ngày ba mươi tháng chạp[1] dù hối hận cũng không kịp. Nhưng cũng có rất nhiều người tin pháp môn này, cũng chịu tu tập, nhưng vì ít xem đọc khế kinh, mà vọng sanh tà kiến. Nên ngày xưa đại sư Trí Giả soạn luận Thập nghi. Về sau đến ngài Thiên Như lại soạn Tịnh độhoặc vấn.

Chúng sanh đời tượng mạt, bệnh chướng rất nhiều, các vị đại bồ-tát nhận lãnh mật ấn của Như Lai tùy thời khai phá, tùy cơ chữa trị. Đó là đại sư Thiên Thai và ngài Sư Tử Lâm[2] vậy. Đến hôm nay, đã trải qua mấy trăm năm, căn lành của chúng sanh ngày càng cạn mỏng, bệnh chấp lúc càng sâu dày, chợt có phát tâm, cũng khó gặp được thiện hữu. Thủy Vân[3] đạo nhân trí thông cùng biển giáo, nghĩa đạt tận ba tông[4], thấu suốt nguồn Thiền, huệ trùm năm phái. Nhưng ngài chỉ hoằng đương Tịnh Độ để tiếp hóa ba hạng căn cơ. Hơn nữa, gần thì có phép tắc của ngài Tĩnh Am, xa thì có tôn chỉ của ngài Châu Hoằng, cho đến các trứ tác của chín vị tổ Tịnh Độ. Nhưng trùm khắp các cơ nghi, gồm thâu cả Tông và Giáo, người mới học có thể trông mong, hàng tu lâu nhất định nương gá, thì chỉ một quyển Tịnh Độ bách vấn mà thôi.

Sách này, trong ngoài đều một vị, trước sau đều xuyên suốt, đã giản lược mà bao trùm, đã sâu mầu mà cạn mỏng, chẳng bàn duy tâm, chẳng luận tự tánh, lại đúng là Quyền thừa mà chẳng ngại Thật pháp. Nhưng từ trước các bậc tôn túc chưa từng khai diễn, vì sao? Vì người chấp lý tánh thì bỏ sự tu, mê lầm việc sanh Tây phương. Người theo sự tướng thì chẳng lìa hữu vi, không ngại việc trực vãng. Đúng là Quyền thừa, vì phương tiện mà lập bày, thật là “tắt trong lối tắt”. Rõ ràng Đức Phật rủ lòng từ bi, tha thiết chỉ dạy như thế. Thật là thuyền báu của Liên tông, là chỉ thú của Tịnh Độ.

Một phen trình bày hết, chẳng giữ lại một lời. Người sau, nếu có thể với tâm vui thích, chân thành xem đọc rồi như thuyết tinh tấn tu hành, nhất định đấng Từ Tôn sẽ từ xa nhiếp thọ. Trong ao nước tám đặc tính nhất định hiện hoa sen; thần hóa, hình dời, nhất định thân sẽ gá sanh cảnh Tịnh. Có đạo nhân ta minh chứng, chẳng mãy may hư vọng. Người học đời sau, rửa tay đốt hương kính cẩn xem đọc, tán thán không cùng.

Thập nghi, Hoặc vấn, ngài Liên Trì đốt hương, trích tủy chân truyền. Như thế, nơi nào có sách này, Phật Tổ sẽ hộ niệm. Người có duyên may mắn gặp, nên lưu truyền rộng khắp, rải hoa, đốt hương cúng dường!

Mồng 1 tháng 11 niên hiệu Đạo Quang thứ năm (1825)

Tịnh nghiệp học nhân Giang Nguyên kính soạn.

Tự tựa

Sách này vì sao tên là Niệm Phật bách vấn? Phàm có vấn ắt có đáp, vì đáp ẩn nơi vấn, nên giản lược chữ “đáp” vậy. Một trăm là số lượng câu hỏi, những điều được luận bàn đến đều là việc niệm Phật, nên gọi là Niệm Phật bách vấn.

Có người hỏi:

– Trong đây thật có người hỏi và ngài đáp ư?

Tôi im lặng hồi lâu rồi đáp:

– Sách này tuy do tôi soạn, nhưng chỉ biết trong đó đều bàn đến việc niệm Phật, chứ không nhớ là người hỏi tôi trả lời, hay tôi hỏi người khác trả lời. Dù mờ mịt quên mất người và ta, nhưng việc niệm Phật được bàn luận thì lại rõ ràng. Xin người tu Tịnh nghiệp, dụng tâm niệm Phật xem đọc, tư duy, hoặc giả có thể làm một ánh đóm trợ giúp vãng sanh!

Lại xin được nói thêm bốn điều:

1. Sách này soạn riêng cho người tại gia tu pháp môn niệm Phật, giúp họ đạt thẳng đến nguồn tâm, quét sạch hư vọng tà kiến. Những ai có tâm ưa thích học đạo thì xin xem đọc mà thể hội, còn người bình thường thì cũng theo đó để răn mình.

2. Trong đây toàn là những lời phương tiện, cốt dẫn người đọc đến chỗ rõ ràng thông suốt, nên chẳng cần văn tự dài dòng.

3. Chỉ trình bày cho hàng tại gia, bởi biết mình kém hèn, đức mỏng, đâu dám làm rầy tai pháp lữ. Nhưng nếu trong đây vô tình có vài lời bàn chung, xin lượng tình soi xét.

4. Bậc thượng nhân mắt sáng, xin ban cho vài điều bổ ích. Nếu trong đây có gì lầm lẫn, mong rủ lòng chấn chỉnh cho.

Ngày mồng 1 tháng 6 niên hiệu Đạo nguyên thứ năm

Hậu học Ngộ Khai ở Cổ Ngô soạn

MỘT TRĂM CÂU HỎI ĐÁP

1. Hỏi: Thế nào là chánh thuyết[5] về nghĩa pháp môn Tịnh Độ không rơi vào thiên lệch?

Đáp: Pháp môn này gồm thâu các hạng căn cơ, là phương tiện của môn đình, thấu trên triệt dưới, bao trùm năm giáo. Thấu trên thì giáo hóa thượng trí, triệt dưới thì cứu độ hạ phàm. Tín, hạnh, nguyện là tư lương; kinh, luật, luận là trợ hạnh. Những chỗ thiết yếu để gá nương thì không thể lìa ba bộ kinh Tịnh Độ[6]. Lập thuyết như vậy gọi là chánh thuyết.

2. Hỏi: Từ xưa đến nay có rất nhiều bậc đại thiện tri thức ở Trung Quốc xiển dương Tịnh Độ, trong đó vị nào là chánh thuyết?

Đáp: Chánh thuyết có hai: Một là chánh thuyết tổng quát, tức Toàn thể khởi đại dụng; hai là chánh thuyết hợp cơ, tức Nhất sự nhất lý. Xưa nay có rất nhiều thiện tri thức, không thể kể hết. Phần lớn các trứ tác của họ đã bị thất lạc, đến nay những bản còn lại, tôi lại kém hèn đọc được rất ít. Chỉ căn cứ theo những điều thấy nghe thì A-di-đà sớ sao của ngài Vân Thê bàn về Toàn thể đại dụng, tức là chánh thuyết tổng quát. Còn luận Thập nghi của đại sư Thiên Thai và Hoặc vấn của ngài Thiên Như nói về Nhất sự nhất lý, tức thuộc chánh thuyết hợp cơ. Các trứ tác này rất quan trọng và thiết yếu đối với người tu Tịnh nghiệp, vì thế cần phải xem đọc và thâm nhập.

3. Hỏi: Tác phẩm Diệu tông sao dùng Tam quán[7] để giải thích khiến người đọc khó thể hội, chẳng lẽ thuộc về thiên thuyết sao?

Đáp: Pháp quán tưởng vừa cao xa vừa sâu kín, nếu không dùng Tam quán của Thiên Thai, không thể hiển bày được chỗ vi diệu viên mãn. Cho nên thuộc chánh thuyết chứ không phải thiên thuyết. Nếu hàng độn căn khó thể hội, có thể luôn tụng đọc Quán kinh, không được tư duy một chữ ngoài Quán kinh, lại không được vọng luận bàn Quán kinh. Nếu chẳng nghe theo điều này, sợ rằng sẽ rơi vào tà ma.

4. Hỏi: Quán tưởng diệu viên và lý nhất tâm trong pháp trì niệm danh hiệu khác nhau chăng?

Đáp: Hai pháp là đồng nhất, không thể nghĩ bàn.

5. Hỏi: Hàng hạ phẩm nói trong Quán kinh tu pháp trì danh mà được vãng sanh. Vậy họ sẽ sanh đến cảnh giới nào?

Đáp: Sanh về cảnh giới Sự nhất tâm.

6. Hỏi: Nếu không đạt được sự nhất tâm, được vãng sanh chăng?

Đáp: Nếu không đạt được sự nhất tâm, thì khó được vãng sanh. Vì sao? Kinh A-di-đà ghi: “Người đạt được nhất tâm bất loạn, lúc lâm chung, Đức Phật A-di-đà và các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Lúc chết tâm không điên đảo, liền được vãng sanh cõi nước Cực Lạc của Phật A-di-đà”. Tâm không điên đảo, nhất tâm bất loạn, tuy chẳng chưa thể đạt đến lý nhất tâm, nhưng cũng là sự nhất tâm.

7. Hỏi: Lúc niệm Phật, thường bị tạp tưởng, làm thế nào để được nhất tâm?

Đáp: Nếu chịu xem mãi kinh Vô Lượng Thọ rồi ngồi yên lặng tư duy, nhất định dần dần được nhất tâm.

8. Hỏi: Quán kinh ghi: “Người muốn sanh về tây phương Cực Lạc, nên tu ba phước”. Lại ghi: “Ba nghiệp này là chánh nhân Tịnh nghiệp của các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại”. Đã là chánh nhân tịnh nghiệp, thì không cần phải tu quán. Như vậy được chăng?

Đáp: Yếu chỉ của kinh này đều qui về mười sáu quán môn. Nói chánh nhân Tịnh nghiệp là chánh trong thuần chánh, chẳng phải chánh của chánh trợ. Còn ba phước là nói nhân chân chánh trong Tịnh nghiệp, chẳng phải là nhân thiên tà vậy.

9. Hỏi: Câu: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật” trong Quán kinh có ý nghĩa gì?

Đáp: Làm là tu, tức tâm này tu Phật đạo, tâm này vốn là Phật.

10. Hỏi: Đã vốn là Phật, cần gì phải tu! Vì thế nói: Vô tâm hợp đạo, đạo tại nơi đây. Khởi tâm tu tập tăng thêm vọng tưởng.

Đáp: Nếu tu mà chẳng đạt đến cảnh giới hoàn toàn viên mãn, thì đâu thể vô tâm hợp đạo! Tu tăng vọng tưởng, nhưng khi tu thành vọng sẽ diệt. Còn chẳng tu mà vọng thì vọng tưởng nối tiếp vô cùng. Hãy suy nghĩ đi!

11. Hỏi: Quán kinh ghi: “Hiện tiền chứng đắc Niệm Phật tam-muội”. Thế nào là Niệm Phật tam-muội?

Đáp: Tam-muội là dịch âm từ tiếng Phạn samàdhi, Trung Quốc dịch là chánh thọ. Niệm Phật tam-muội, tức tư duy chuyên nhất, tâm tưởng vắng lặng, trí và lý thầm hợp. Nói dễ hiểu hơn thì niệm tức Phật, Phật tức niệm, niệm và Phật nhất như, cũng không có tướng niệm Phật, đó là Niệm Phật tam-muội.

12. Hỏi: Quán Kinh ghi: “Thân Phật Vô Lượng Thọ cao sáu mươi vạn ức na-do-tha”, vậy cách quán tưởng như thế nào?

Đáp: Tướng tự tha đều bặt, như kinh dạy mà khởi quán.

13. Hỏi: Từ đâu mà cho A-di-đà sớ sao thuộc về chánh thuyết tổng quát?

Đáp: Vì không cao không thấp, chẳng nghiêng chẳng lệch, mà trung chánh, bình hòa, lại chỉ luận về chỉ thú ấy, nên gọi là tổng quát.

14. Hỏi: Từ đâu mà cho luận Thập nghi và Tịnh Độ hoặc vấn thuộc Nhất sự nhất lý, chánh thuyết hợp cơ ?

Đáp: Vừa muốn khởi lòng tin, tâm vẫn còn các nghi. Vì thế luận Thập nghi đã phân tích rõ nguyên do, khiến người nghi rỗng rang không trệ ngại. Người tham thiền vừa thấy được bóng dáng, liền vội khinh chê Liên tông, bởi họ chẳng thấu suốt lý Phật, lầm rơi vào cuồng si. Do đó hòa thượng Thiên Như thống thiết gõ một tiếng kiền chùy xé toạt lưới mê, xoay chuyển cơ nghi, phát minh tâm địa, nên gọi đó là Nhất sự nhất lý, chánh thuyết hợp cơ. Hai loại chánh thuyết này rất khẩn yếu, nên đặt biệt nêu ra.

15. Hỏi: Người tu hành cần phải có khí chất như thế nào mới dễ nhập đạo?

Đáp: Cần phải cương, kiện, trung, chánh, thuần túy. Cương thì mới có thể gánh vác được A-nậu-đa-la tam-miệu Tam-bồ-đề. Kiện thì mới có thể vì pháp vì người. Trung thì không rơi vào chỗ thiên lệch. Chánh thì chẳng sanh tà tư duy. Ngày xưa, khi ngài Lâm Tế mới vào đạo, đến thân cận ngài Hoàng Bá. Mục Châu thấy Lâm Tế hành nghiệp thuần nhất, liền bảo đến ngài Hoàng Bá hỏi về đại ý Phật pháp. Lâm Tế ba lần đến hỏi, ba lần đều bị ăn gậy. Lại đến Đại Ngu thì ngay một lời liền triệt ngộ được Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều. Nên biết lúc bấy giờ triệt ngộ, đều là do lúc bình thường hành nghiệp thuần nhất dẫn đến. Nếu hành nghiệp không thuần nhất, dù có trăm ngàn Hoàng Bá, Đại Ngu cũng đâu triệt ngộ được? Nhưng hành nghiệp của Lâm Tế thuần nhất, cũng do khí chất thuần túy tạo nên vậy. Sách Nho có ghi: “Nhan Hồi sâu kín mà thuần túy, cho nên trở thành cao đệ của Khổng Tử”. Nho gia đã như thế, huống gì là pháp khí của Phật môn, đâu thể trái với điều này?

Xưa nay những bậc được gọi là Đại thiện tri thức, trong Tông môn thì có Mã Tổ, Bá Trượng… trong Giáo môn thì có Thanh Lương, Thiên Thai… Tịnh Độ thì có chín tổ Liên tông. Tất cả đều là những bậc có khí chất cương, kiện, trung, chánh, thuần túy vậy. Nhưng đó là theo Thế đế, tạm nói như thế. Kỳ thật đã là những căn khí đại trí tuệ, tinh hoa phát xuất ra ngoài, há có thể luận bàn ư? Hàng hậu sanh kém nhỏ chúng ta, chí cầu đạo lớn, há không gắng sức sao?

16. Hỏi: Môn đình vòi vọi, cao vút chẳng thể vin, hàng khí chất tầm thường chỉ có ngóng nhìn rồi thoát lui. Vậy đâu thể nói là gồm nhiếp ba căn?

Đáp: Phàm người học đạo, trước phải hiểu chí lý. Giống như Nho gia tu đức học tập, trước tiên phải biết nguyên do Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn vương, Võ vương, Chu công, Khổng Tử là Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu, Khổng, rồi sau mới từng buớc học tập. Dẫu không thành thánh thì cũng thành hiền, dẫu không thành hiền thì cũng thành đại nho. Dù học lực có sâu cạn, nhưng đều chẳng mất danh đệ tử của đạo Thánh hiền. Ngày nay người tu niệm Phật, trước phải biết công đức bản nguyện của Phật A-di-đà, lại phải biết môn phong của nhiều đời Tổ sư. Sau đó mới từng bước tu hành. Nếu không được mười phần thành tựu thì cũng được bảy, tám phần, hoặc năm, sáu phần hay chỉ một, hai phần. Dù có sâu cạn, nhưng cũng gọi là thành tựu Tịnh nghiệp. Đã thành tựu thì đều được vãng sanh. Đã vãng sanh thì đều không lui sụt, đều được thẳng đến Vô thượng bồ-đề. Như thế, đâu từng không gồm nhiếp ba căn? Người ngóng nhìn rồi thối lui, không đáng gọi là người có lòng tin, có tin cũng chẳng chân thật. Dù Đức Phật ra đời cũng chẳng biết làm sao?

17. Hỏi: Thành tựu một, hai phần cũng được vãng sanh. Vì sao người nhận chân niệm Phật hai, ba mươi năm, lúc lâm chung chẳng thấy nghe điềm lành. Há tu lâu như thế mà còn chưa thành tựu được một, hai phần sao?

Đáp: Bởi chỉ mới nhận chân, chứ chẳng phải nhận chánh niệm Phật. Vì sao? Luận theo chánh pháp thiết thật cho ông rõ, bởi chẳng thuận tâm mình, thì chẳng nghe. Hoặc nghe những lời rỗng suông vô ích, bởi nó hợp lòng ta. Đến kỳ thì niệm mà chẳng có tâm cầu chánh pháp. Chỉ mặc cho tâm mình chạy theo duyên, đuổi theo cảnh, một đời loạn động. Đó gọi là người gánh lấy lá mà bỏ vàng, luống uổng thời gian. Nếu muốn thành tựu được một, hai phần Tịnh nghiệp thì ngay đây nên xét kỹ .

18. Hỏi: Có người nói niệm Phật chẳng ngại tham thiền, tham thiền chẳng ngại niệm Phật. Có người lại nói niệm Phật ngại tham thiền, tham thiền ngại niệm Phật, nên quyết định thế nào?

Đáp: Pháp thì có hai môn, lý thì chỉ là một. Đối với lý thì nói không ngại, nhưng với pháp thì nói ngại. Nhưng sau khi ngộ mới tỏ lý, còn pháp tức phương pháp, là chỗ áp dụng hiện tiền. Phương pháp thì đồng thời không thể hành hai loại, tâm cũng không có hai tác dụng trong một niệm, nên nói là ngại. Nhưng qui về tánh thì bất nhị, nên nói không ngại.

19. Hỏi: Phải chăng hàng lợi căn nên tham thiền, hàng độn căn nên niệm Phật?

Đáp: Tham thiền và niệm Phật đều phải từ ý chí mới được. Nếu phân định theo lợi độn, thì nói thế nào đây? Ý chí kiên định, dõng mãnh thì độn căn cũng ngộ thiền. Còn thể cứu niệm Phật, nếu chẳng phải là người lợi căn, chẳng thể thành tựu. Nếu nói Tông môn của Tổ sư chuyên tiếp hóa hàng thượng căn, còn hàng căn khí tầm thường thì nên niệm Phật. Đây là lời nói thiên lệch.

20. Hỏi: Tham thiền, sau khi ngộ thì đồng với Phật. Còn niệm Phật vãng sanh, chẳng thoát sanh tử, đúng chăng?

Đáp: Sau khi ngộ còn phải khởi tu, vì nghiệp thức lưu chuyển chưa được thanh tịnh. Hòa thượng Qui Sơn đã nói rõ điều này. Chỉ nghe nói sanh trong hoa sen ở thế giới Cựu Lạc, chứ chưa nghe nói chết trong hoa sen ở thế giới Cực Lạc. Đại sư Liên Trì đã nói tường tận điều này. Than ôi! Không có chánh tri kiến lại không hiểu kinh sách, mới lầm lẫn như thế. Nên cẩn thận!

21. Hỏi: Ngài Trung Phong Minh Bản nói: Thiền tức Thiền của Tịnh Độ; Tịnh Độ tức Tịnh Độ của Thiền. Thế là nghĩa gì?

Đáp: Thiền, âm Phạn là Thiền-na, Trung Quốc dịch là tỉnh lự. Tức tư duy mà an tỉnh là định, tức an tỉnh mà tư duy là huệ. Thiền tức định huệ. Pháp môn Tịnh Độ cũng nương nơi định huệ. Thiền và Tịnh Độ, tuy khác tên, nhưng chỉ một định huệ. Giống như nói định huệ là định huệ của Tịnh Độ; Tịnh Độ là Tịnh Độ của định huệ. Ngài Trung Phong nói lời này là để sách tấn Tịnh nghiệp mà khởi công phu định huệ, để răn nhắc người tham thiền mà khai mở hạnh Tịnh độ. Đó chính là nói Thiền Tịnh song tu vậy.

22. Hỏi: Thiền Tịnh song tu, cần phải phân định trước sau, hay là đồng thời?

Đáp: Tôn chỉ của tổ Đạt-ma vượt trên giáo thừa, chẳng đồng với bốn thiền, tám định[8]. Vì thế người xưa nói: “Thiền chẳng hợp với Giáo thừa, huống gì là Nho gia”. Vì thế nên biết cần phải phân trước sau. Nếu trước tham thiền được kiến tánh, rồi sau tu Tịnh nghiệp thì rất thuận lý. Các bậc long tượng trong Tông môn ngày xưa hoằng dương Tịnh nghiệp đều như thế cả.

23. Hỏi: Ngài Thiên Y Nghĩa Hoài nói: “Sanh thì nhất định sanh, đi thì thật chẳng đi”. Câu này có ý nghĩa gì?

Đáp: Vãng sanh Tịnh Độ, chư Phật chẳng vọng ngôn, nên nói: “Sanh thì nhất định sanh”. Nếu hiểu A-di-đà tức bản tánh, bản tánh tức A-di-đà. Như Lai nghĩa là không từ đâu đến, cũng không có chỗ đi, nên nói: “Đi thì thật chẳng đi”. Câu này bao gồm lý sự, đồng hiển quyền thật.

24. Hỏi: Pháp môn Tịnh Độ thường được gọi là Thiền quán. Vậy đó là Thiền gì?

Đáp: Chẳng phải là thiền Đạt-ma, cũng chẳng phải là bốn thiền, tám định. Nói Thiền tức là thể cứu niệm Phật. Tức công phu Lý trì danh trong các pháp trì danh. Nhưng nếu trì danh đạt đến cùng tột của lý nhất tâm thì chẳng khác biệt với thiền Đạt-ma và bốn thiền, tám định.

25. Hỏi: Thiền Tịnh song tu vừa được nghe dạy là trước nên tham thiền, sau mới tu Tịnh Độ. Vì sao chẳng thể đồng tu, có lý do gì chăng?

Đáp: Niệm Phật không sợ chấp tướng, tham thiền thì cần lìa tướng. Chấp và lìa, khó có thể đồng thời tu tập.

26. Hỏi: Phải chẳng chấp danh chấp tướng, chưa lìa vọng duyên, chính là điều bậc thông đạt chê trách?

Đáp: Niệm danh hiệu chánh giác viên mãn A-di-đà Phật, quán tướng trang nghiêm thanh tịnh của thế giới Cực Lạc. Chấp tướng như thế, sợ rằng không được thiết thật, chứ nếu thiết thật, sẽ tự xa lìa các vọng duyên huyễn hóa thế gian. Đây chính là pháp bỏ vọng về chân, trái trần hợp giác. Huống gì lìa tưởng hay chấp tướng đều là phương tiện để nhập môn. Thí như muốn về nhà mà chẳng từ cửa, thật có thể vào nhà chăng?

27. Hỏi: Nghe nói Cổ đức dạy trong lúc niệm Phật nên khán câu: “Niệm Phật là ai?” tương tự như tham thiền. Lại dạy nên tự hỏi rằng: “Cái gì là bản tánh A-di-đà”. Vậy pháp ấy thế nào?

Đáp: Đó là biến pháp của các Tổ sư thiền đời sau, chẳng phải là yếu chỉ Tịnh nghiệp do Phật nói. Ý của các Tổ sư là muốn người học triệt ngộ bản tánh. Nhưng dạy khán chữ “Ai” thì có thể được, chứ tự hỏi: “Cái gì là bản tánh A-di-đà”, e rằng không tránh khỏi dẫn sanh thức tình kết tụ. Những kẻ làm thầy gần đây phần nhiều chìu theo ý người học, chứ bậc Tông sư tác gia thì không như thế.

28. Hỏi: Người học đều nói tham thiền thì ngộ đạo, còn niệm Phật không ngộ đạo, cho nên biết niệm Phật không bằng Thiền. Ngài nghĩ thế nào?

Đáp: “Niệm Phật không ngộ đạo” là lời nói vô căn cứ. Như chương Thế Chí Viên Thông trong kinh Lăng-nghiêm ghi: “Chẳng nhờ vào phương tiện mà tự tâm được khai ngộ”. Nói tự tâm khai ngộ há chẳng phải là ngộ đạo ư? Chương Thượng khí vãng sanh trong Quán kinh có ghi: “Liễu Đệ nhất nghĩa”, chẳng phải là ngộ sao? Đạt được duy tâm Tịnh Độ, liễu bản tánh A-di-đà. Nói đạt nói liễu, há chẳng phải là ngộ sao? Tóm lại, thể cứu niệm Phật đều là ngộ cả. Hãy xem văn nói về lý nhất tâm trong A-di-đà sớ sao của ngài Vân Thê sẽ tự rõ. Chẳng qua pháp môn Tịnh Độ dùng trí và nguyện để vãng sanh mà hành trì niệm Phật. Đó là yếu chỉ quan trọng, chẳng kể ngộ hay không ngộ. Vì thế ngài Vĩnh Minh nói: “Chỉ cần gặp A-di-đà, lo gì chẳng khai ngộ”. Nên biết, nói như thế là vì chẳng có nhân thì không thể ngộ. Đến như trong pháp Thiền Đạt-ma có câu: “Nếu người học đạt đến chỗ như thùng lũng đáy, lại vượt qua lao quan cuối cùng, làm một người tự tại, thì hành động của người này siêu việt tất các pháp môn. Vì thế gọi là Tổ Sư Thiền”.

29. Hỏi: Bốn pháp niệm Phật là gì?

Đáp: Đó là Trì danh niệm Phật, Quán tượng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật và Thật tướng niệm Phật. Quán tượng để thúc liễm thân tâm, có thể làm tiền đạo cho Quán tưởng, lại thêm Trì danh làm trợ duyên. Thật tướng tức lìa tất cả tướng, dứt lỗi bặt lầm, chẳng thể nghĩ bàn. Khi trì danh đạt đến lý nhất tâm, Quán tưởng đạt đến chỗ giác quán đều bặt thì đồng trở về thật tướng. Đạt đến chỗ cùng tột của niệm Phật thì thần công diệu dụng chẳng thể luận bàn, suy lường được.

30. Hỏi: Niệm Phật vốn cho là dễ hành, vì sao nay lại nói khó đến như vậy?

Đáp: Nói dễ là có hai ý: Một, đối với hàng trung hạ căn, nếu muốn đoạn dứt luân hồi, thẳng đến tây phương, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, chỉ cần chuyên chí niệm Phật, tâm không điên đảo. Được như thế, chẳng luận hiền ngu, tất cả đều thành tựu. Cho nên nói dễ. Hai, tu sáu độ muôn hạnh phải trải qua a-tăng-kỳ kiếp huân tu mới thành Phật đạo. Nay chỉ niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nếu chánh niệm rõ ràng, chẳng kể lâu mau, đều được đức A-di-đà tiếp dẫn, gá thân nơi thai sen, được bất thoái chuyển. Như thế, há chẳng dễ sao?

31. Hỏi: Người xưa nói rằng: “Vạn người tu, vạn người vãng sanh”, vì sao ngày nay người niệm Phật chưa chắc chắn vãng sanh?

Đáp: Kinh Lăng-nghiêm ghi: “Nhớ đến Phật nghĩ đến Phật, hiện tiền hoặc tương lai nhất định gặp Phật”. Đó là do cảm ứng đưa đến. Nếu vạn người chân thật cảm thì vạn người chân thật được ứng. Đó gọi là vạn người tu vạn người vãng sanh. Ngày nay người niệm Phật cầu vãng sanh, tuy miệng niệm Phật mà tâm chẳng nương Phật, vẫn như xưa, tự buông lung tâm ý, thế thì làm sao? Vừa nghe lời chân thật liền cho là khó mà kinh sợ, vừa nghe một lời phương tiện liền cho là dễ mà bỏ qua. Niệm Phật như thế, thật ra chỉ là hình thức mà thôi, chưa hẳn được vãng sanh. Nếu thấy khó chẳng sợ, thấy dễ chẳng bỏ qua, thường mong được chỉ dạy, luôn tinh tấn tư duy, nương Phật mà niệm Phật, thì lời của người xưa nhất định chẳng dối ông vậy.

32. Hỏi: Đã phát nguyện vãng sanh, chỉ cần niệm Phật, sao phải nhờ tu các công đức để trở thành nhân hữu lậu?

Đáp: Người tu Phật đạo thì nên trân quí cả phước và huệ. Hữu lậu hay vô lậu, tùy tâm người qui hướng. Chẳng thể vì phước hữu lậu vô thường mà bỏ phước đức lớn trang nghiêm Tịnh Độ. Cho nên kinh A-di-đà ghi: “Chẳng thể do một ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được vãng sanh Cực Lạc? Thiện căn tức niệm Phật, phước đức nhân duyên tức tu tập các công đức. Chương Tam bối vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, giữ gìn trai giới, xây cất chùa tháp, đúc tạo tôn tượng, dâng cúng sa-môn, treo phan thắp đèn, rãi hoa đốt hương”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Muốn sanh về nước kia, nên tu ba phước, một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ hầu hạ sư trưởng, tâm từ chẳng sát sanh, tu thập thiện nghiệp. Hai là thọ trì tam qui, lãnh thọ các giới, chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người tu hành”. Lại nói: “Phát ba tâm, liền được vãng sanh. Đó là Chí thành tâm, Thâm tâm và Hồi hướng phát nguyện tâm. Đầy đủ ba tâm này, nhất định được vãng sanh”. Lược nói như thế, không thể nêu hết, người học nên hết lòng vậy!

33. Hỏi: Niệm Phật vốn là pháp dễ hành trì, nếu nói như trên, há chẳng phải khiến cho người chùng bước sao?

Đáp: Đức Phật không nói hai lời, chỉ tự người nghe khéo hiểu. Căn tánh nhất định có lợi độn, sức người có mạnh yếu. Chỉ nên gắng sức tư duy, khổ thân tận tụy. Há lo buồn là không đủ sức sao?

34. Hỏi: Tại gia niệm Phật luôn bị các việc thiện trói buộc, có phương pháp gì khiến không trở ngại việc tu tập chăng?

Đáp: Việc này thuộc về mình khéo hay không khéo hành xử. Nếu hành xử đúng thì không ngại.

35. Hỏi: Niệm Phật và trì chú giống nhau chăng?

Đáp: Không giống. Chú có sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn, chỉ cần như pháp gia trì liền thành tựu sức cơ cảm, không cần tham cứu. Niệm Phật thì có sự có lý, có tánh có tướng, có quyền có thật. Cần phải do tham cứu mới sáng tỏ. Nên không giống nhau.

36. Hỏi: Niệm Phật và tụng kinh giống nhau chăng?

Đáp: Có thể cho là giống nhau. Vì sao? Vì tụng kinh, nếu nói rộng thì trong kinh tuy có biết bao nghĩa văn, biết bao nghĩa câu, biết bao nghĩa chữ, nhưng không ngoài một nghĩa Phật. Như ngài Thiên Thai nói: “Phàm nói Phật thì đã cùng khắp tất cả”. Nay niệm Phật, tức niệm tất cả nghĩa kinh, tất cả nghĩa văn, tất cả nghĩa câu, tất cả nghĩa chữ. Vì sao? Vì Phật nghĩa là Giác. Kinh ghi: “Diệu giác vô thượng cùng khắp mười phương xuất sanh Như Lai, đồng một thể bình đẳng với tất cả pháp.

37. Hỏi: Công phu niệm Phật, theo thứ tự có mấy bậc, có mấy giai đoạn khẩn thiết?

Đáp: Thứ tự có ba bậc là chuyên tâm niệm Phật, cứu tâm niệm Phật và nhất tâm niệm Phật. Lại có ba lúc khẩn thiết là khi bệnh, tuổi già và lâm chung.

38. Hỏi: Khi niệm Phật có tạp niệm xen vào. Xin hỏi tạp niệm này từ đâu đến?

Đáp: Trong một thân chỉ có một niệm, niệm niệm Phật cũng là nó, niệm niệm tạp cũng là nó, chỉ do một niệm này thôi. Khi không thể hoàn toàn trở về một niệm Phật, tức đã có ít phần vượt ra ngoài niệm Phật này. Tạp niệm, tức những niệm ngoài niệm Phật mang lấy nghiệp chủng trần lao, thừa lúc niệm Phật bỗng nhiên chen vào.

39. Hỏi: Làm sao trừ diệt tạp niệm?

Đáp: Chẳng cần tiêu trừ, chỉ nên phấn phát tinh thần, dùng một niệm này đặt trọn nơi Phật, tức tạp niệm liền không.

40. Hỏi: Dù biết như thế, nhưng ngặt nỗi tinh thần yếu kém, chẳng thể khiến tạp niệm rỗng không, như thế phải làm sao?

Đáp: Đạo lực chưa đủ, còn nhiều loạn tưởng, nên thâu nhiếp sáu căn, dần dần trở về thanh tịnh. Bất đắc dĩ, tạm dùng phương tiện đuổi trừ. Tức khi niệm Phật mà tạp loạn khởi thì chẳng cần để ý đến nó, vẫn cứ niệm Phật, mắt nhìn thẳng vào tượng Phật, hoặc tâm niệm chuyên chú vào tượng Phật, tự nhiên không còn tạp niệm.

41. Hỏi: Thực hành như thế, lúc đầu thật hiệu nghiệm, lâu dần tạp niệm lại khởi, phải làm sao?

Đáp: Nội tâm hỗn trược, ngoại cảnh loạn động, niệm Phật chẳng được đắc lực. Thậm chí còn bị tạp niệm trói buộc chặc. Lúc bấy giờ không nên nóng vội, chỉ giữ cho tâm tư trong lặng, từ trên niệm đề khởi hồng danh Phật, từ miệng phát ra âm thanh, từ tai nghe rõ ràng từng tiếng. Lại từ niệm lưu xuất, xoay vòng luân chuyển, xuyên suốt không cho gián đoạn. Được như thế, tạp niệm liền không.

42. Hỏi: Phương pháp này ắt là kỳ diệu, ngặt nỗi người độn căn không thể hành trì, vậy phải làm sao?

Đáp: Đại sư Trí Giả lập hai môn thích và chán. Người mới phát tâm vào đạo, cần phải khởi tâm thích và chán. Một đời giữ được tâm ấy thì tinh tấn tự phát, dù nội tâm hỗn trược cũng dần dần được lặng trong; ngoại cảnh có loạn động cũng tự nhiên tiêu tán. Khi niệm Phật liền biết khinh an, vui thích. Nếu chẳng sanh tâm thích và chán, thì hoàn toàn không có đường vào.

Nếu người không biết thực hành công phu, niệm Phật có nhiều tạp tưởng, thì khi niệm tiếng “nam-mô A-di-đà Phật” thứ nhất ta ghi nhớ tại chữ Nam, tiếng thứ hai ta ghi nhớ tại chữ Mô, cứ như thế đến chữ Phật rồi trở lại chữ Nam, liên tục ghi nhớ không cho lẫn lộn và gián đoạn thì tạp niệm không có chỗ để chen vào.

43. Hỏi: Hàng thượng căn niệm Phật, tạp niệm khởi lên thì phải làm sao?

Đáp: Kinh Viên giác ghi: “Biết là hoa đốm trong hư không, tức không luân chuyển, cũng không có thân tâm lãnh thọ sanh tử”, huống gì là tạp niệm?

44. Hỏi: Niệm Phật đã nhiều năm, vì sao không đắc lực?

Đáp: Vì tâm không làm chủ được, chỉ theo cảnh theo duyên, mặc cho niệm nhiều năm, đâu thể đắc lực.

45. Hỏi: Vãng sanh hay không vãng sanh, lợi hại tại đâu?

Đáp: Một niệm tương ứng với A-di-đà Phật là lợi, còn một mãy duyên trần không buông được là hại. Tương ứng, giống như nói “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.

46. Hỏi: Tịnh nghiệp lấy gì làm gốc, lấy gì làm nhân, lấy gì làm cứu cánh?

Đáp: Người tu Tịnh nghiệp nên lấy tâm Bồ-đề làm gốc, lấy niệm Phật làm nhân, lấy tự lợi và lợi tha làm cứu cánh.

47. Hỏi: Một công đức thiện nhỏ cũng đều hồi hướng tây phương, nay không niệm Phật, chỉ tụng kinh, trì chú hồi hướng tây phương, nghĩ cũng không trái với giáo lý chứ?

Đáp: Đọc tụng kinh Đại thừa, tuy kinh có văn nghĩa rõ ràng, nhưng cũng chỉ là trợ hạnh. Quán kinh nói tu quán, kinh A-di-đà dạy chấp trì danh hiệu, đó là chánh hạnh. Bỏ chánh tu trợ, e rằng chưa đạt lý sâu xa. Ông đâu biết rằng quán tưởng và trì danh, chính là làm cho việc chuyển sanh được thuần thục. Đến lúc mạng chung dễ dàng cảm ứng. Còn tu các hạnh khác sợ rằng nguyện lực yếu kém, dễ bị pháp khác lay chuyển, chướng ngại việc vãng sanh.

48. Hỏi: Niệm Phật chẳng cần phải trường trai, có đúng vậy chăng?

Đáp: Nếu trước đã phát tâm Bồ-đề, nhất định chẳng cần phải hỏi lời này. Ngày xưa, có một vị quan hỏi ngài Mã Tổ:

– Ăn thịt hay không ăn thịt là đúng?

Ngài Mã Tổ đáp:

– Ăn là lộc của quan Trung thừa, không ăn là phước của quan Trung thừa.

Lời này thật có ý vậy!

49. Hỏi: Người niệm Phật chẳng trường trai được vãng sanh chăng?

Đáp: Phàm có lỗi nhỏ, công lớn có thể triệt tiêu lỗi. Nay người niệm Phật cầu sanh Cực Lạc, tâm vô cùng tha thiết, đến lúc lâm chung, đạo lực thắng nghiệp lực, nhất định được vãng sanh.

50. Hỏi: Trong pháp môn Niệm Phật, tôi thường nghe các câu: “Đới nghiệp vãng sanh, mười niệm thành tựu…”, thật là quá dối người!

Đáp: Chư Phật chẳng dối người, chỉ có người tự dối mà thôi. Sao gọi là tự dối? Bởi vì ỷ lại việc đới nghiệp vãng sanh, nên cứ thản nhiên tạo nghiệp. Vì ỷ lại chỉ mười niệm thành tựu, nên cứ mặc tình biếng trễ. Há chẳng biết nói đới nghiệp tức chẳng đợi ba nghiệp đoạn trừ. Nói mười niệm là vì người bận rộn, không có thời gian rãnh để niệm nhiều. Người niệm Phật không biết yếu chỉ này, dần dà để luống qua một đời, đến lúc lâm chung nghiệp lực thắng đạo lực, biết làm sao? Vì thế, lúc bình thường nên trừ dẹp ác nghiệp, tinh tiến vun trồng căn lành, để khỏi phải tự dối mình.

51. Hỏi: Đại sư Liên Trì lúc lâm chung phó chúc: Phải “Lão thật niệm Phật”. Chỉ có Lão thật niệm Phật, nên chẳng cần phải học tập, nghiên cứu và luận nghị ư?

Đáp: Nói Lão thật nghĩa là thuần chân chẳng vọng, chứ chẳng phải không học tập nghiên cứu là Lão thật. Kinh dạy: “Phật pháp, nếu không có người thuyết, dù có huệ cũng chẳng liễu”. Thế gian gọi người chất phác là người Lão thật. Nếu hoàn toàn không có tri thức thì gọi là kẻ ngốc. Nay nói Lão thật niệm Phật chẳng phải là ngốc niệm Phật. Hãy suy nghĩ kỹ!

52. Hỏi: Người đời tâm luôn tán loạn, vọng tưởng chẳng bao giờ dừng trụ, dù chỉ trong một sát-na. Vậy thế nào là làm một người ngốc niệm Phật, không có mãy may hiểu biết?

Đáp: Dù là người ngốc, nhưng khi đã nghe nói niệm Phật là tốt, người ấy liền vui mừng, biết được niệm Phật là tốt. Nghe nói niệm Phật sanh Tây phương, người ấy liền vui mừng, biết được niệm Phật sanh Tây phương. Thế là thành ngốc niệm Phật. Ngày nay ngốc niệm, ngày mai ngốc niệm, niệm mãi đến lúc mạng chung bỗng nhiên đức A-di-đà phóng ánh sáng tiếp dẫn, trong khoảng khắc vãng sanh thế giới Cực Lạc. Những người này có thể cho rằng ngốc mà chẳng ngốc. Còn những người thông minh biết tính toán, điều gì cũng thông, việc gì cũng biết, hôm nay bận rộn, ngày mai bận rộn, nếu là người công lưu hậu thế thì chẳng cần bàn đến, cứ bận rộn mãi đến ngày 30 tháng chạp, bỗng nhiên nghiệp chất cao như núi hiện ra trước mặt. Bấy giờ không biết làm sao, chỉ đợi người đưa đi mà thôi. Những người này có thể cho là chẳng ngốc mà chính là ngốc. Như Lai gọi họ là “Những người đáng thương xót”.

53. Hỏi: Lỗi tại đâu mà tu hành không đạt đến cảnh giới ngộ?

Đáp: Tu hành không có gì khác, chỉ cần diệt trừ các tập khí tạp nhiễm mà thôi. Ví như lau gương, hết bụi dơ thì sự trong sáng hiện. Tất cả chúng sanh đều có tập khí, vì thế trôi lăn trong sanh tử. Niệm Phật tức khiến tâm trở về đại giác, tập khí dần dần tiêu. Như Sơ quả phá hết Kiến hoặc, Nhị quả phá sáu phẩm Tư hoặc, Tam quả lại phá thêm ba phẩm Tư hoặc, Tứ quả phá sạch Kiến Tư hoặc, Duyên giác phá trừ tập khí; mười địa Bồ-tát, mỗi địa phá một phần vô minh; Đẳng giác và Diệu giác cũng như thế. Các bậc đoạn hoặc nầy, ta đâu làm được, chỉ có thể cầu xin chư Phật nhiếp thọ. Thuận theo phương tiện từ bi của Phật, đới hoặc vãng sanh. Nhưng nếu cấu nhiễm sâu dày chẳng thể trừ diệt, thành tu đạo gì đây? Như tham, sân, si, ái, tật đố, xiểm khúc cho đến dối trá, danh lợi riêng tư… đều là ác duyên chướng đạo. Ta chẳng thể diệt trừ chúng, lại bị chúng làm chướng ngại, vì thế tu hành chẳng đạt đến cảnh giới giác ngộ.

54. Hỏi: Thầy thân, bạn thiết thường lo sợ kéo nhau vào hầm lửa, mù mắt tu bừa, e lại trở thành hỗn loạn. Văn, tư, tu đã thiếu, tiến thối chẳng biết nương đâu?

Đáp: Mạt thế, pháp suy ma thịnh, chẳng cần phải bàn đến. Nhưng lóng tâm xét kỹ, trong thiên hạ chẳng phải không có thiện hữu. Bấy giờ cần phải gấp rút xem kinh, không được trì hoãn. Chỉ cần biết được đạo lý xem kinh là tốt. Như người tu Tịnh Độ xem kinh, trước hết nên xem kinh về Tịnh Độ, tham cứu kĩ càng, thể hội được lý, thông thấu đến nguồn, chớ mê tình chấp chướng. Rõ ràng pháp môn mình, rồi tùy tâm lực mà xem các kinh khác. Như nay các cư sĩ tại gia, phần nhiều lại xem chú giải kinh Kim Cang. Tuy tu Tịnh nghiệp mà không hiểu kinh sách nói về Tịnh nghiệp, thì thật là vô ích mà tổn hại nữa.

55. Hỏi: Kinh Kim Cang thần diệu khó lường, kinh A-di-đà tầm thường không có gì kỳ đặc. So sánh hai kinh có thể biết được hơn kém. Ngài nghĩ thế nào?

Đáp: Người tu hành xem kinh Phật, hiểu nghĩa Phật, gặp nghĩa thần diệu khó lường thì cho là hơn, gặp kinh bình thường không kỳ đặc thì cho là kém, thật không nên. Xem kinh hiểu nghĩa, cần phải ở nơi thần diệu khó lường tìm ra lý bình thường không kỳ đặc. Ở nơi bình thường không kỳ đặc tìm ra lý thần diệu khó lường. Được như thế mới gọi là người có mắt trí tuệ.

56. Hỏi: Chương Tam bối vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ nói phát tâm Bồ-đề là then chốt của việc vãng sanh. Nay vì sao các thiện tri thức chỉ nói cho người nghe về niệm Phật mà không đề cập đến tâm Bồ-đề?

Đáp: Long Thư Tịnh Độ bản hiệu đính thiếu câu phát tâm Bồ-đề, nên ngài Vân Thê đính chính. Ngài Tỉnh Am chăm chăm về việc này, nên soạn: “Khuyến phát Bồ-đề tâm văn”, nội dung rất tha thiết. Từ xưa, các đại thiện tri thức khai pháp môn Niệm Phật, nhất định lấy việc phát tâm Bồ-đề làm đầu để đạt cùng tận được chỉ thú của pháp môn rộng lớn này. Nhưng gần đây, người học càng ngày càng kém, thì đâu cần bàn đến.

57. Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói nhiều về năm thiện, năm ác, phải chăng giống với kinh điển Tiểu thừa?

Đáp: Kinh ghi: “Có Bồ-tát muốn nghe kinh này mà chẳng được…” vậy đâu phải là kinh điển Tiểu thừa. Ông y cứ nơi văn, chẳng nương nơi nghĩa thì đâu có được. Nhưng nay đã hỏi, thì tôi thử giải thích. Bởi sau khi các kinh pháp diệt hết, chỉ còn kinh này lưu hành một trăm năm để độ những người có duyên. Vã lại trong thời mạt pháp căn khí con người ngày càng chậm lụt. Đức Phật với tâm từ bi sâu rộng, dùng những lời thiết thật mà chúng sanh ngu độn có thể hiểu được để chỉ bày. Nên kinh nói như thế.

58. Hỏi: Hồi hướng là tự cho rằng vì khắp tất cả chúng sanh, độ tất cả chúng sanh. Nguyện rỗng như thế mà nói: “Có nguyện ắt thành”, thật là khó tin?

Đáp: Có lời mà vô tâm mới gọi là nguyện rỗng suông. Thật đã có tâm thì liền thành nguyện chân thật. Cho nên nói “ắt thành” vậy. Nếu đột nhiên nói: “Hiện tại vì khắp, tương lai độ khắp”, hẳn đó là lời nói suông. Trong kinh Hoa nghiêm, khi Thiện Tài đồng tử tham học khắp năm mươi ba vị thiện tri thức có nói: “Trước kia ta đã phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà chưa biết đạo Bồ-tát. Làm thế nào để học đạo Bồ-tát, tu hạnh Bồ-tát. Ta nghe bậc thánh khéo hay chỉ dạy, xin nói cho nghe”.

Đây là một cách phát tâm tu hành tốt nhất. Tức trước đã phát tâm Bồ-đề thì tất cả việc tu hành đều từ tâm Bồ-đề lưu xuất. Đồng thời vì khắp tất cả chúng sanh, độ khắp tất cả chúng sanh, cũng đều từ tâm Bồ-đề phát khởi, chân thật chẳng luống suông. Về lý, có gì không thỏa đáng?

59. Hỏi: Kinh A-di-đà ghi: “Chẳng thể với một ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước kia”. Vậy có phải nhiều mới được sanh, ít thì chẳng được sanh chăng?

Đáp: Xét ba bậc vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ, câu này chỉ cho bậc thượng, còn trung, hạ thì có khác.

60. Hỏi: Có phải niệm Phật cốt ở tâm trì, đâu cần phải niệm ra tiếng chăng?

Đáp: Tâm trì niệm danh hiệu Phật, rất hợp yếu chỉ sâu xa. Nhưng niệm Phật thành tiếng là dùng tiếng Phật để trợ duyên, đồng có lợi ích cho người và ta.

61. Hỏi: Thế thì niệm thầm được chăng?

Đáp: Chỉ riêng mình niệm Phật, thì ra tiếng hay niệm thầm đều được. Nếu theo chúng đồng tu, nhất định phải niệm thành tiếng.

62. Hỏi: Có người cho rằng niệm sáu chữ là giữ được ý qui kính, niệm bốn chữ là gọi thẳng danh hiệu thì không được, vì bất kính. Phải vậy chăng?

Đáp: Từ xưa không có thuyết này, đây là thuận theo tri kiến thế gian mà lập, ý nghĩa xưng danh không thuộc vào điều này.

63. Hỏi: Lúc hôn trầm niệm Phật có được lợi ích chăng?

Đáp: Trong hôn trầm mà niệm Phật, chỉ là miệng niệm chứ tâm chẳng niệm. Cần phải tự mình cảnh tỉnh, chớ để thành thói quen hôn trầm niệm Phật.

64. Hỏi: Người thế gian thường cho rằng hàng tại gia niệm Phật, tụng kinh sẽ hiếm cháu con. Thật có điều này chăng?

Đáp: Làm thiện được phước, tạo ác gặp họa, đó là lẽ đương nhiên. Nay cho rằng niệm Phật tụng kinh sẽ bị tai ương. Như vậy niệm Phật tụng kinh là việc ác sao? Làm sao thông được lý này? Lại ở thế gian, người hiếm con cháu chẳng phải ít, đâu hẳn là người niệm Phật tụng kinh? Đó là luận theo pháp thế gian, nếu luận theo Phật pháp, thì con cháu là nghiệp duyên đã kết chặt đời trước. Nếu gặp con cháu hiền, tức đã kết nghiệp duyên thiện, nếu gặp con cháu kém hèn, là đã kết nghiệp duyên ác. Nên biết, pháp vô thường đều như mộng, huyễn, bọt, bóng.

65. Hỏi: Niệm nhanh chậm, tiếng lớn nhỏ, lúc ngồi đi, như thế nào mới hợp?

Đáp: Niệm quá chậm thì lơi mà không có sức mạnh, niệm quá nhanh thì gấp mà không được tự tại. Hoà hoãn, không chậm không nhanh thì bình ổn mà trong sáng. Niệm quá lớn e tổn thương khí lực, niệm quá nhỏ thì dễ rơi vào hôn trầm, tản mác. Chẳng lớn chẳng nhỏ thì hòa hoãn, du dương. Khi ở trong đạo tràng cùng đại chúng tu tập thì đi niệm, hoặc ngồi niệm đều đã có thời gian nhất định. Nếu đã biết sơ lược qua rồi thì tự tại niệm Phật. Chỉ cần niệm Phật như pháp, chẳng cần phải theo một định lệ nào, mà nên dung thông. Đại khái nên ngồi nhiều, đi ít. Nhưng những lúc thanh sảng thì nên ngồi nhiều, lúc hôn trầm thì nên đi nhiều.

66. Hỏi: Gần đây có nghe nói trong kỳ hạn bảy ngày niệm Phật, vào buổi chiều có pháp cầm hương vừa chạy vừa niệm Phật, gọi là Tranh đoạt Tây Phương. Vậy có pháp này chăng?

Đáp: Tôi mới nghe qua, bất giác vô cùng kinh hãi. Có thể tranh đoạt được Tây phương sao? Bởi không tin niệm Phật, khinh chê niệm Phật, thậm chí người có lòng tin cũng không chịu niệm Phật, nên đều bị lời vô căn cứ như thế lừa dối, không phát khởi đạo tâm, lại khiến cho người hiểu biết xa lánh. Ôi! Thật đáng kinh ngạc, đáng xót xa vậy!

67. Hỏi: Lại xin chỉ bày về Nhất tâm bất loạn!

Đáp: Tâm như mặt trăng tròn sáng, vằng vặc trên hư không, ánh sáng bao phủ muôn vật. Tâm đã chẳng tự là tâm thì tạp loạn từ đâu khởi. Nhưng nếu hướng về Đệ nhị môn, thì chẳng phải không có phương tiện. Thí như ở đời có người ưa thích một môn, hoặc là cầm kỳ thi họa, hoặc là ti, trúc, quản, huyền[9].. Tâm tha thiết nghĩ đến các việc ấy không lo gì đến tánh mạng. Đông chẳng biết lạnh, Hạ chẳng biết nóng, cũng chẳng biết mệt, chẳng biết đói khát. Tất cả các việc cần thiết đều buông bỏ. Nếu có người đến ngăn cản, quấy nhiễu thì rất giận dữ. Như nay việc niệm Phật cầu sanh Tây phương cũng hành như thế, tức là Nhất tâm bất loạn.

68. Hỏi: Người niệm Phật bị bệnh gì nặng nhất, mắc bệnh gì nhiều nhất?

Đáp: Một điểm linh minh trạm tịch, xưa nay chưa từng có bệnh. Bởi tình sanh nên trí mất, các bệnh liền sanh. Trong đó bệnh thiên chấp là lớn nhất, bệnh tham là nhiều nhất. Nhưng chẳng phải chỉ môn Niệm Phật mà tất cả các pháp môn khác đều như thế. Cho nên ngài Vĩnh Minh Diên Thọ soạn Tông cảnh lục một trăm quyển, Vạn thiện đồng qui tập sáu quyển, đều là thuốc hay để chữa bệnh thiên chấp.

69. Hỏi: Bệnh thiên chấp và bệnh tham, người ngu chắc chắn có, nhưng bậc hiền trí có lẽ không?

Đáp: Bệnh thiên chấp và tập khí tham, bậc hiền trí cũng đều có, nhưng rất vi tế. Nên biết, sự đấu tranh kiên cố đều do bệnh thiên chấp mà có. Phật pháp suy tàn đều do tham dẫn đến. Nhớ nghĩ đến điều này, ta bất giác rơi lệ.

70. Hỏi: Như muốn tránh ngọn sóng dữ vô thường ập đến, thì phải làm sao?

Đáp: Phải nhờ vào bậc đại nhân có năng lực, nghĩ nhớ đến ơn sâu dày của Phật, đồng thời nhờ mọi người giúp sức. Như thế kẻ hèn này dù không phước đức, cũng dám theo làm kẻ nô bộc.

71. Hỏi: Như nay xiển dương pháp môn Niệm Phật, nên lấy việc gì làm đầu?

Đáp: Nho giáo có câu: “Sự ắt phải học theo người xưa”. Lại nói: “Một, cần phải có nhân phẩm cao; hai, cần phải học phép tắc của người xưa”. Phật giáo chúng ta tu tập cũng nên tuân theo lời này, chọn lấy người xưa làm phép tắc. Dẫu không hợp thời nghi, cũng đâu ngại tùy duyên sống qua ngày.

72. Hỏi: Chọn lấy người xưa làm phép tắc, xin chỉ cho biết là vị nào?

Đáp: Sự chỉ cần giản lược, công nhất định sâu xa. Nếu mênh mông nhiều lối, thì chỉ có danh mà không thật. Trong Phật môn chỉ có ba vị mà mọi người đều biết rõ, lại hay khảo cứu và y cứ là Vĩnh Minh Diên Thọ, đại sư Liên Trì và pháp sư Tỉnh Am mà thôi.

73. Hỏi: Trong Tịnh nghiệp, sách vở rất nhiều, cũng cần tìm cầu những bộ giản lược để mọi người dễ xem đọc. Đó là những bộ nào?

Đáp: Vân Thê pháp vị của đại sư Liên Trì, Diệu tông sao của pháp sư Tứ Minh Tri Lễ, Tỉnh Am pháp sư di thư của pháp sư Tỉnh Am là ba bộ cần thiết. Tuy Vạn thiện đồng qui tập không chuyên ròng về Tịnh Độ, nhưng người tu Tịnh nghiệp cũng không thể thiếu. Như Tông cảnh lục, văn nhiều nghĩa rộng, là bộ sách lớn nhất luận về tu đạo, tất cả cũng không thể bỏ qua. Còn Long Thư Tịnh Độ của cư sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống, Tịnh Độ thánh hiền lục (bản hiệu đính) của cư sĩ Bành Nhị Lâm ở Ngô Trung đời Thanh cũng đều là phép tắc chân chánh cho người tu Tịnh nghiệp. Đó là hai vị cư sĩ tại gia niệm Phật, chí thành tha thiết tu trì, đều là thạch trụ của pháp môn. Gần đây có người vội khắc in Liên tông cửu tổ truyện lược, muốn cho chánh mạch Liên tông có nơi y cứ. Nhưng rất tiếc văn lại quá ngắn, quá giản lược.

74. Hỏi: Vì pháp vì người, vì điều gì trước?

Đáp: Trước nên vì mình, vì sao? Nếu trước chẳng vì mình, giúp chính mình thông đạt thì đâu thể vì người? Nếu chưa thông đạt, thì không chỉ không thể vì pháp vì người, mà còn dối pháp dối người và dối cả chính mình. Cần phải biết rằng việc lớn Phật pháp là việc vô cùng quan trọng, chẳng phải là việc đùa giỡn của trẻ con.

75. Hỏi: Muốn làm thầy của người, đó chẳng phải là ý xấu, vì sao có lỗi?

Đáp: Nói muốn làm thầy, thật ra là tự ý tự chuyên, chưa khai ngộ mà tự cho là khai ngộ, cho nên có lỗi.

76. Hỏi: Hàng xuất gia thọ giới thì không cần phải bàn, còn nam nữ tại gia muốn vào đạo thì thế nào?

Đáp: Đã phát chánh tín, chánh nguyện, trước cần thọ tam qui. Khi thực hành thuần thục rồi thì phát tâm lãnh thọ năm giới. Lại nên chọn một vị thầy xuất gia đủ đức hạnh để cầu thọ giới. Còn giới Bồ-tát thì y theo mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh trong kinh Phạm võng. Đó chính là giới tướng, tự mình phải thành kính phát tâm rộng lớn lãnh thọ. Nhất thiết không được bất chợt cao hứng, tùy tiện theo người thọ giới Phật. Lúc thọ giới, cần phải phát tâm khẩn thiết sâu nặng, phát tâm cung kính, phát tâm Đại Bồ-đề, khởi nghĩ cho là nghìn đời khó gặp. Quyết không nên mới vừa nghe qua liền thúc giục người kia dẫn kinh nói luận. Đó đều là lời chẳng đúng lúc. Đến như giới Thức-xoa-ma-na thì từ chỗ hiểu biết lầm lẫn mà truyền thọ lầm lẫn[10]. Không có người chấn chỉnh, chỉ dạy. Thật đáng buồn vậy!

Kẻ hèn này cuồng ngôn như thế, chẳng phải là làm chướng ngại thắng duyên, thật ra là để giúp phát khởi thắng tâm, thành tựu đạo nghiệp.

77. Hỏi: Ví như chẳng thọ tam qui, có thể tu hành được chăng?

Đáp: Cũng có thể tu hành, nhưng cần phải biết rõ nguyên nhân chẳng thọ. Nếu đã hợp với chánh lý thì được. Nếu không thì trong Quán Kinh có ghi: “Thọ trì tam qui, đầy đủ năm giới, là chánh nhân của Tịnh nghiệp”. Kẻ hèn này lại có một lời rằng: “Nếu người nữ muốn thọ tam qui, ngũ giới cũng có thể thỉnh thầy về nhà, lập tòa cung kính lãnh thọ.

78. Hỏi: Các bộ Tịnh Độ thập yếu và Tây Phương hiệp luận, phần sau cùng có chép một thiên “Thuật mộng”, thật là việc rất kỳ dị. Ngài nghĩ thế nào?

Đáp: Chẳng cần nói kỳ hay không kỳ, chỉ cần ghi nhớ vài dòng cuối cùng sau đây:

– Trung lang nói: “Ta chẳng ngờ niềm vui cùng tột như thế. Ví như khi còn ở trên thế gian, ta nghiêm trì giới luật, thì còn chẳng dừng ở đây. Nếu giới và huệ đều gấp thì phẩm sanh về cao tột. Nếu giới gấp thì nơi sanh về rất an ổn. Nếu có huệ mà không có giới thì bị nghiệp lực kéo lôi, rơi vào tám bộ quỉ thần. Tôi đã thấy có người đồng tu như thế. Đệ có khí lực trí tuệ rất sâu, nhưng giới lực và định lực rất kém. Phàm ngộ lý mà chẳng thể sanh giới định thì chỉ là cuồng huệ mà thôi. Đệ trở lại thế gian, hãy ngay lúc thân thể khỏe mạnh mà thật tu thật ngộ, giữ gìn giới nguyện, siêng thực hành phương tiện, thương xót tất cả, không bao lâu sẽ có cuộc hội ngộ tốt đẹp. Chớ để một khi rơi vào đường khác, thật đáng kinh sợ. Nếu chẳng thể trì giới, thì pháp lục trai (sáu ngày trai) của ngài Long Thọ vẫn còn, hãy tuân theo đó hành trì. Giới sát rất nặng, ta có vài lời gửi bạn đồng học: ‘Chẳng thể nào ngày ngày vung đao, miệng tham vị tanh mà có thể sanh vào cõi thanh thái được. Dù có thuyết pháp trôi chảy như mây như mưa, cũng đâu có ích gì đến việc vãng sanh’. Đây là lời chân thật, có thể trợ giúp xiển dương giáo pháp, cần ghi nhớ!

79. Hỏi: Quán kinh dạy nên đọc tụng kinh Đại thừa, nhưng kinh Đại thừa quá nhiều, vậy nên chọn đọc những kinh nào là thiết yếu?

Đáp: Ngoài ba kinh Tịnh Độ, nên đọc các kinh Hoa nghiêm, Viên giác là cần thiết. Còn những bộ khác thì tùy theo khả năng.

80. Hỏi: Đang lúc tụng kinh, cần phải dừng lại để suy nghĩ thấu hiểu nghĩa lý hay tụng luôn.

Đáp: “Cư sĩ Bàng Uẩn có bài kệ:

Tụng kinh nên hiểu nghĩa

Hiểu nghĩa liền tu hành

Nếu y giáo liễu nghĩa

Liền vào thành Niết-bàn”.

Nhưng đang lúc đọc tụng, không cần phải dừng lại để giải nghĩa. Khi đọc tụng hãy chú ý đến việc thông thuộc, đợi lúc vắng lặng chọn một câu, một đoạn, suy nghĩ nghiên cứu ý nghĩa trong đó. Cũng có thể dùng những bản giải thích hay để tham khảo mà lãnh hội. Như thế lâu ngày tự có chỗ ngộ. Đó gọi là giải nghĩa.

81. Hỏi: Kinh Kim cang được mọi người xem trọng, vì sao không xếp vào thường khóa?

Đáp: Người đời đọc tụng tu hành kinh này, phần nhiều đều hỏi như thế. Bởi do họ xem qua kinh Pháp bảo đàn rồi cho rằng Ngũ tổ dạy: “Người tụng đọc làu thông kinh Kim cang có thể minh tâm kiến tánh”. Nhưng xưa nay nhiều người tụng kinh, nhưng ít người thể hội được tâm. Vì sao? Theo kẻ hèn này biết thì không có gì khác, chỉ vì bị các chú giải làm lầm lẫn. Dẫu có ngộ, cũng là thức tình chấp trước suy lường, chẳng phải là chân tham thật ngộ. Đâu biết chỉ cần đọc tụng làu thông kinh Kim cang, bỗng nhiên sẽ thể hội, cuối cùng có chỗ vào. Nên Ngũ tổ mới nói như thế. Nhưng ý này cũng khó nói cho người biết!

82. Hỏi: Tất cả những chú giải của các kinh điển đều dối người hết sao?

Đáp: Ôi! Ông nói gì vậy? Mỗi mỗi đều có cơ nghi riêng, không thể gom thành một loại. Như kinh Hoa nghiêm thì có Hoa nghiêm sớ sao, Hoa nghiêm hiệp luận. Kinh Viên giác thì có Lược sớ của Khuê Phong, của Thanh Lương quốc sư. Đây là những bản sớ giải chân chính xưa nay. Nếu sợ văn rộng và dài thì đọc Hiệp luận, trong đó Lý trưởng giả (Lý Thông Huyền) đề xướng: “Thập trụ sơ tâm liền thành chánh giác” là xác thật. Thiền sư Khuê Phong soạn bộ Viên giác lược sớ thật giản lược mà rõ ràng thấu đáo, là một diệu pháp. Còn rất nhiều chú sớ các kinh khác, nhưng không thể nêu lên hết.

83. Hỏi: Niệm Phật vốn rất cần thuận duyên, bỗng nhiên có người vô cớ đến gia hại, hoặc gặp cảnh ngoài ý muốn đến xúc não, khiến phải khởi tâm sân hận. Lúc ấy phải làm sao?

Đáp: Lúc ấy nên nghĩ đến vô thường mà tự cảnh tỉnh, hoặc sợ chiêu cảm nghiệp ác, hoặc là mong giữ gìn chánh niệm. Hàn Sơn Tử thi tập có bài:

Sân là lửa trong tâm,

Đốt cháy rừng công đức.

Muốn hành đạo Bồ-tát,

Nhẫn nhục ngăn tâm sân.

Nếu được như thế thì tất cả nghịch cảnh đều tiêu trừ.

84. Hỏi: Niệm Phật vốn cần thoát ly ba cõi, bỗng nhiên có cảnh duyên vừa ý hiện đến trói buộc, kéo lôi, bấy giờ phải làm sao?

Đáp: Trước tiên phải chiếu phá tất cả các cảnh duyên vừa ý, xem chẳng phải là việc tốt đẹp gì, chỉ dối gạt giết người. Ta dùng Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà so sánh, thì cảnh kia đâu có ý nghĩa gì. Lúc ấy tất cả sẽ nhàm chán, ghét bỏ, đâu có gì đáng ưa thích.

85. Hỏi: Người xuất gia, nếu muốn được cảnh duyên thuận, chỉ cần nối tiếp làm hưng thạnh Phật pháp, chẳng đồng như người tại gia. Phải thế chăng?

Đáp: Nối tiếp làm hưng thịnh Phật pháp, việc ấy nào dễ dàng! Người có tâm thiện xuất gia hãy nên suy nghĩ thật kỹ, xếp đặt cho thật thỏa đáng các cảnh duyên thuận kia, chớ nhận định lầm lẫn nhân quả.

86. Hỏi: Người thế gian tạo nghiệp mưu sinh, nay qui y Tam bảo, e rằng chẳng hợp. Vậy nên làm thế nào mới được?

Đáp: Việc này chỉ do nơi chính mình khéo léo điều tiết. Bởi hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, khó có thể nói nhất định được. Tạo nghiệp hại mạng chúng sanh là nặng nhất. Nếu tạo nghiệp mưu sinh mà tích nhiều công đức thì không cần bàn đến. Nếu đã biết rõ mà cố phạm thì nghiệp ác chất chồng, tâm đâu thể an ổn? Nên thu gọn việc nhà, tìm một kế sinh nhai khác, đủ để khỏi đói rét, tức tránh được hai chữ “tạo nghiệp”, như thế há chẳng tốt sao? Giàu nghèo do mệnh trời, chẳng nên nghi ngờ. Niệm Phật là việc lớn sanh tử, chẳng thể lầm lẫn.

87. Hỏi: Xin cho một lời chỉ dạy thêm về việc niệm Phật chẳng được nhất tâm.

Đáp: Tôi thường thấy việc niệm Phật, chưa hẳn phải hành công phu sáu thời không gián đoạn. Chỉ cần trong một thời niệm hai, hoặc ba cây hương mà thôi. Ví như có các việc khác, nên sắp xếp ổn thỏa rồi mới niệm Phật. Trong tâm đã không lo thì vạn sự chẳng cần đoái hoài đến. Bấy giờ mới ngồi xuống bồ đoàn, phấn chấn tinh thần, khẩn cấp khởi một niệm chuyên chú nơi Phật. Từng câu, từng câu không gián đoạn. Như thế, đâu khó gì trong một hai cây hương mà không đạt được nhất tâm?

88. Hỏi: Lúc sinh hoạt bình thường niệm Phật cũng muốn được nhất tâm mà không thể. Xin Ngài cho vài lời chỉ dạy.

Đáp: Nhất tâm ở đây và nhất tâm đã nói ở trước khác nhau, vì sao? Việc trước chỉ cần tất cả đều chẳng đoái hoài thì liền được nhất tâm. Đây là nhất tâm của vô sự phân tâm. Nhưng con người đều có sự, có sự đâu thể không lo. Nếu sắp xếp an bài trước thì cũng chỉ là tạm gác qua, chứ đâu thể sắp xếp được mãi? Nếu có sự động niệm khiến chẳng được nhất tâm, vậy thì vĩnh viễn sẽ không được nhất tâm trong sinh hoạt bình thường. Há có lý này sao? Nên biết, chẳng phân hai tâm cũng là nhất tâm. Thế nào là chẳng phân hai tâm? Nghĩa là mặc tình muôn sự kéo đến, tất cả cứ khởi niệm đáp ứng, tính toán, sắp xếp, an bài. Nhưng tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ vẫn kiên cố dõng mãnh, chẳng động chẳng lay. Có sự cũng thế, không sự cũng thế, chẳng tăng chẳng giảm. Đó gọi là chẳng phân hai tâm, chẳng phân hai tâm chính là nhất tâm. Đây là nhất tâm của hữu sự phân tâm.

89. Hỏi: Trước đã được chỉ dạy, lòng rất vui mừng. Nhưng đó chỉ là nhất tâm mà có nhất tâm, chưa phải là nhất tâm mà không nhất tâm, hoàn toàn chẳng khế hợp với lý nhất tâm. Ý Ngài nghĩ sao?

Đáp: Nếu ông cho nhất tâm không nhất tâm là chân thật khế hợp với lý nhất tâm, thì ông đã rơi vào đoạn kiến. Ông há không biết: chấp có, chấp không, chấp cũng có cũng không, chấp chẳng có chẳng không đều là hý luận ư? Nay tất cả chẳng để ý đến có không, mà chỉ là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Lại chẳng thấy có, chẳng thấy không, chẳng thấy chẳng có chẳng không, chẳng thấy cũng có cũng không. Ta chỉ thấy tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ rõ ràng bất khả đắc.

90. Hỏi: Chúng sanh căn tánh bất đồng làm sao cùng được về chánh đạo?

Đáp: Người học đạo phần nhiều đều có thầy hay bạn giỏi. Nhưng cần phải chọn bậc Tác gia (vị thầy kiệt xuất). Người xưa từng nói: “Đầu tiên chẳng gặp bậc Tác gia, đến già trở thành vô dụng”. Liên quan đến đạo nghiệp của một đời, chẳng phải cũng quan trọng lắm sao? Người xưa, khi gặp được bậc Tác gia, Tông tượng liền quên thân để nương gá, nên dễ trở về chánh đạo, dễ thành tựu công phu. Người đời nay xem thường thầy tổ, trọn không có tâm cầu đạo. Hễ thấy thuận theo việc làm thì còn qua lại tới lui. Nếu hơi trái ý một tí thì liền tránh xa. Cho nên ít người thấu tỏ được chánh đạo, nói gì đến công phu!

91. Hỏi: Tô Đông Pha hằng ngày thường mang tượng Đức Phật A-di-đà đi khắp nơi, có thể nói tâm niệm Phật rất tha thiết, vì sao không vãng sanh?

Đáp: Ngày xưa, Tô Đông Pha vẽ một tượng Phật A-di-đà, ai hỏi đều trả lời rằng: “Đây là công cứ Tây Phương của Thức”. Như thế cũng có thể thấy được tâm thiết tha cầu sanh Cực Lạc. Nhưng lúc lâm chung, có người hỏi về việc vãng sanh Tây phương. Tô Đông Pha liền đáp: “Tây phương chẳng phải không có, nhưng bây giờ dụng công không được”. Do đó mà không nghe nói ông vãng sanh.

Ôi! Chỉ ngay lúc cần phải dụng công, trái lại nói là dụng công không được. Cư sĩ lầm lẫn ư? Nếu xét theo tình thì Tô Đông Pha là một đại tài tử, đọc rất nhiều kinh sách Phật. Ông cho rằng nhất định mình sẽ được một pháp diệu viên mới được tôn là cao thủ. Nếu chân thật niệm Phật thì đâu khác gì với hạng nam nữ tầm thường, hình như ông ta chẳng cam lòng. Ngặt vì thường ngày không chịu thấu triệt pháp diệu viên kia, nên đến lúc này gượng gạo sắp xếp, chỉ biết: “Bây giờ không thể dụng công được”. Người niệm Phật, lúc lâm chung vẫn bình thản chân thật, nhất tâm niệm Phật là tốt nhất. Nếu thích kỳ diệu, thích thù thắng, thì đó gọi là muốn khéo hóa vụng. Tô Đông Pha có thể làm tấm gương để chúng ta soi xét.

92. Hỏi: Người niệm Phật lúc lâm chung không thấy tướng lành xuất hiện, tâm sanh nghi ngờ. Bấy giờ nên thế nào?

Đáp: Lúc lâm chung có điềm lành ứng hiện như tự biết giờ chết, thấy hoa sen, nhạc trời trong hư không, mùi hương lạ lan tỏa đầy phòng. Đó đều là do cảm ứng mà có. Nhưng hoặc là ẩn hoặc là hiển, không nhất định. Cần phải biết nhân thật thì quả thật, chẳng cần phải nghi ngờ. Bấy giờ chỉ nên buông bỏ tất cả tạp niệm, nổ lực nhất tâm niệm Phật. Lúc lâm chung niệm Phật mạnh mẽ không gián đoạn, người tạo tội thập ác còn được vãng sanh Tịnh Độ, huống gì người thường ngày đã phát nguyện tu tập niệm Phật?

93. Hỏi: Người tu Tịnh nghiệp có thể quyết định được lúc chết mình vãng sanh hay không vãng sanh?

Đáp: Cần phải xem hành nghiệp lúc còn sống của người ấy. Theo nhân mà bàn về quả, đây là phép tắc nhất định. Căn cứ vào cảnh giới lúc lâm chung mà quyết định. Nếu có điềm lành ứng hiện thì chẳng cần phải bàn, nhưng phải đúng với khế kinh nói. Nếu hỗn tạp không hợp, dù tốt cũng chẳng phải. Tóm lại người chánh niệm rõ ràng ắt có khí tượng thanh thản, tự tại làm chủ được. Nhất định không thấy trạng thái yếu mềm, không phấn chấn, lúc tỉnh lúc mê. Lúc bấy giờ chỉ thấy dáng vẻ siêu thoát, vô ngại, đâu giống như đèn hết dầu, le lói sắp tắt. Chính mắt kẻ hèn này thấy trạng thái kỳ diệu ấy nơi Hòa-thượng bổn sư lúc lâm chung.

94. Hỏi: Hành nghiệp lúc còn sống có trước sau, tốt xấu khác nhau, nên lấy đâu làm chuẩn?

Đáp: Chẳng cần bàn là trước tốt sau xấu, hay trước xấu sau tốt, chỉ lấy đoạn thời gian tu hành sau cùng làm chuẩn.

95. Hỏi: Pháp môn Tịnh Độ có gặp ma sự chăng?

Đáp: Há không có ma sự sao? Nhưng người tu hành bị nó mê hoặc thì ít, mà tự dối mình thì nhiều. Chẳng chịu lắng tâm tự xét, chẳng vì đạo mà thân cận người hiền. Bên trong thì chứa đầy lỗi lầm, bên ngoài gượng dáng vẻ tu hành. Tự dối mình như thế chính là ma sự.

96. Hỏi: Niệm Phật chắc chắn là một việc tốt, nhưng chẳng hợp với người nữ trẻ tuổi. Ngài nghĩ sao về điều này?

Đáp: Tu hành là việc chung của tất cả chúng sanh, chẳng có gì là không hợp. Đã nói “tất cả chúng sanh” là gồm cả chim thú, địa ngục, ngạ quỉ. Bồ-tát tùy loại hóa thân, thường sanh vào các loài chim thú, hoặc địa ngục, ngạ quỉ, để giáo hóa, khiến chúng đều thành Phật đạo. Há chẳng phải đã hợp tất cả sao? Chúng ta sanh trong loài người, hoặc là trai hoặc là gái, là tăng là tục, là già là trẻ đều phải nên sớm tu hành, vì sao? Vì hàng súc sanh, địa ngục… tội chướng sâu nặng, rất khó tu hành, còn loài người thì dễ. Nếu chẳng ở nơi dễ mà tu, lại để luống trôi qua thì thật đáng tiếc.

Nếu cho rằng người nữ trẻ tuổi không hợp với pháp môn tu hành này, thì chẳng đúng. Khi nêu ra thính chúng, trong kinh thường nói đến đồng nữ. Đồng nữ chẳng phải là người nữ trẻ tuổi sao? Phật đã cho là hợp, há chúng ta cho là không hợp sao? Phàm người tại gia tu hành, cần phải hành xử cho hợp chánh pháp, không nên vội nghe lời những kẻ ngu si, chạy theo cảnh duyên, luống uổng vô ích.

Tu tập pháp niệm Phật, trong nhà nên xếp đặt những kinh sách đã nêu trên, nếu người nữ không biết chữ, nên mời người đến giải thích. Tùy phần mà suy nghĩ nghĩa lý. Nên giữ thường khóa tu tập, luôn luôn phát nguyện vãng sanh. Bên ngoài nếu có bậc thật đức độ, nên thỉnh về nhà giảng giải. Phàm người có thật đức, họ chỉ vì pháp mà đến, nhất định không dối gạt người tu hành. Ví như nhà nghèo thiếu, thì ngay trong lúc bận rộn vì kế sinh nhai, hãy định ra giây phút rãnh rang để niệm Phật, luôn phát nguyện vãng sanh Tịnh Độ. Như thế chẳng luận là giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, già trẻ đều có thể niệm Phật và rất thích hợp.

97. Hỏi: Tụng kinh niệm Phật mà trong nhà không được an tỉnh, lại không thể tịnh khẩu được thì phải làm sao?

Đáp: Đối với người đời thì tiền tài là quan trọng nhất. Thí như một số tiền lớn có thể về tay mình, nhưng khi còn chưa nắm được trong tay, thì ngày đêm bất luôn an. Do chỗ bất giác không an tỉnh đó mà không còn nhớ nghĩ đến điều khác. Nay niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì sợ không an tỉnh, vì sao? Vì tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, không tha thiết bằng tâm nghĩ đến tiền tài. Không nên như vậy! Hãy ngay nơi lúc không an tỉnh mà luôn luôn nhớ nghĩ niệm Phật, có gì không được? Còn như việc tịnh khẩu, thì lúc làm Phật sự như tụng kinh, lễ bái, sám hối… hoàn toàn không có cái lí không tịnh khẩu. Nay tu hành, hãy ngay lúc chưa được tịnh khẩu đó mà phấn chấn tu hành, tụng kinh niệm Phật, thì có gì lại không được? Đạo tâm chuyên nhất, dõng mãnh, nhìn thấu suốt thì có ai mà không được tịnh khẩu.

98. Hỏi: Lý Tam giáo đồng nguyên như thế nào mà người tại gia học Phật hay xiển dương?

Đáp: Ngày nay, người giỏi văn chương vừa phát tâm tin Phật, hễ mở miệng ắt nói Tam giáo đồng nguyên. Nhưng ba giáo, mỗi mỗi có môn phong riêng, mỗi mỗi có phép tắc riêng, có chí lý riêng, đâu thể nói là đồng? Nếu chí lý đồng, như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lúc mới sanh ra liền đi bảy buớc, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: “Trên trời, dưới đất chỉ có ta là tôn quí”. Nói: “Chỉ có ta tôn quí” thì biết rằng không có ai tôn quí bằng. Tức biết rằng chí lý của Phật, thật không có lý nào bằng. Đó là nói theo liễu nghĩa, chẳng phải bất liễu nghĩa. Nếu nói địa vị, thì Phật ở tại nguồn (nguyên), nghìn sông vạn suối đều xuất phát từ nguồn. Ông nên suy nghĩ thật kỹ điều này. Trở về một nguồn (nhất nguyên) mới có thể gọi là đồng.

Nay không cần phí lời như thế, kinh Lăng-nghiêm ghi: “Một môn siêu xuất, một con đường vi diệu trang nghiêm”. Hễ tu một môn thì nhất định từ một môn mà vào. Nay tu niệm Phật, nên từ môn niệm Phật mà vào, không cho xen một môn khác, huống gì ba giáo? Kẻ hèn này từng nói: “Hai giáo Phật và Nho, về đạo lý để học tập thì luôn hợp nhau, nhưng chí lý qui về thì có xuất thế gian và thế gian sai biệt”. Tôi lại nói: “Nghĩa Tam giáo đồng nguyên chưa hẳn đã không có, nhưng ông chỉ cần đến thế giới Cực Lạc, thì không cần nói Tam giáo, mà vô lượng thế giới trong mười phương, mỗi mỗi thế giới có vô lượng giáo môn, tất cả đều từ lỗ mũi của ông lưu xuất. Phật ta thật có chí lý như thế, chép đầy đủ trong các kinh, còn các sách khác thì không có.

99. Hỏi: Nói Tam giáo đồng nguyên, cũng chẳng tổn thương gì đến Phật đạo, cần gì phải khổ tâm, nhiều lời luận biện như thế?

Đáp: Huyền môn, ngoại đạo thường trộm lời Phật, mê hoặc người đời, thật là tai hại lớn. Nho và Phật, thì Phật có lợi ích cho Nho, mà Nho lại có công làm lợi cho Phật. Từ trí tuệ Phật mà xét, dù có phân chia hai đường riêng khác, chắn chắc cũng không ngăn ngại. Nhưng đối với những nhà Nho có tâm thích học Phật, trước thấy được lý Nho sâu xa, nay nghe câu “Tam giáo đồng nguyên”, liền cho rằng lý Phật giống như vậy. Thế là họ không chịu nghiên cứu, mất đi cơ hội tiến tu, cuối cùng trở thành mê muội, không thấu được nguồn chân của biển giáo, không thành tựu thắng duyên, bờ kia thành hư dối . Cho nên lời Tam giáo đồng nguyên lại dối gạt người. Vì thế bất đắc dĩ mới nói đến.

Hỗn độn của Nho gia, Tam tai của Phật giáo đồng là cảnh giới mờ mịt. Bởi khi Tam tai đến thì thế giới đều hoại, trống rỗng không còn gì. Bậc đại thánh đại hiền của Nho gia, thật chẳng phải là hàng phàm phu, mà chính là các thánh hiền ngoài ba cõi đến đây, tùy loại hiện thân để giúp người độ đời, vốn chẳng phải thật trầm luân. Cho nên chẳng thể vội nói là đọa lạc.

100. Hỏi: Đại ý của pháp môn Tịnh Độ niệm Phật vãng sanh, tôi đã được nghe trình bày như thế. Bây giờ xin ngài khái quát lại những điểm tinh yếu để hàng ngu trí thế gian đồng thấu hiểu, những người có mắt đều thấy biết.

Đáp: Thông thường thì tín, hạnh, nguyện là ba điều kiện thiết yếu của pháp môn Tịnh Độ. Nhưng theo quan điểm của tôi thì người xưa đề xuất hai môn ưa thích Tịnh Độ và nhàm chán Ta-bà là quan trọng nhất. Nhưng còn chưa đủ, nếu chưa nhận chân thì dù có ưa thích và nhàm chán cũng chỉ là nói suông mà thôi. Cho nên biết, đã ưa thích và nhàm chán lại thêm nhận chân, có thể nói là thiết yếu trong thiết yếu, mới đúng là điểm tinh yếu vậy. Vậy ưa thích những gì? Đó là ưa thích niệm Phật, ưa thích cõi Tây Phương. Nếu đã ưa thích thì tâm nhất định thiết tha mong cầu. Nhàm chán những gì? Đó là nhàm chán Ta-bà, nhàm chán sanh tử. Nếu đã nhàm chán thì tâm nhất định muốn xa lìa. Ưa thích ắt phải có nhàm chán, nhàm chán ắt phải có ưa thích. Không thể có nhàm chán mà không ưa thích, ưa thích mà không nhàm chán. Chỉ khi ưa thích và nhàm chán đã cùng tột, thì “tín” nhất định chân thật, “hạnh” nhất định chuyên ròng và “nguyện” nhất định tha thiết.

Nếu ưa thích và nhàm chán chưa cùng tột, dẫu có tín thì tín ắt cạn, dẫu có hạnh thì hạnh chẳng chuyên, dẫu có nguyện thì nguyện chẳng tha thiết. Cho nên muốn khuyên người phát lòng tin chân thật, tu hạnh chuyên, lập nguyện thật, trước nên chỉ bày môn ưa thích cùng tột việc niệm Phật cầu sanh Tây Phương, nhàm chán cùng tột Ta-bà năm trược. Kế đó mới phát khởi chân tín, thuần thục chuyên hạnh, thành tựu thật nguyện. Sau cùng khuyên họ nhận chân việc tu tập. Niệm Phật như thế, chưa có ai không được vãng sanh. Lời này chẳng sâu xa, cũng chẳng thô lậu, đối với nghĩa lý cũng chẳng bí mật, cũng chẳng sai sót, trí ngu đều thấu hiểu, người có mắt đều thấy biết.

Đã hỏi đáp xong, chí tâm hồi hướng, cung kính nói kệ:

Con dùng tâm Đại bi

Xiển dương pháp niệm Phật,

Ngưỡng mong ba ngôi báu,

Từ bi gia hộ con.

Nhờ ánh đom đóm này,

Hóa thành đèn trí tuệ,

Chiếu sáng khắp thế gian

Dẫn người chuyên niệm Phật.

Niệm Phật nguyện vãng sanh,

Trở lại độ hữu tình,

Đạt đến Bất thoái chuyển,

Thẳng đến chứng Bồ-đề.

Chú thích:

1 Tam tế, Lục thô: Tam tế: Vô minh nghiệp tướng, năng kiến tướng, cảnh trí tướng. Lục thô: Trí tướng, tương tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh tự tướng, khởi nghiệp tướng, nghiệp hệ khổ tướng. Đây là 9 tướng căn bản của tất cả vọng pháp do căn bản vô minh sanh khởi.

[1] Ngày 30 tháng chạp: ngày cuối năm, dụ cho lúc lâm chung.

[2] Sư Tử Lâm: tức thiền sư Thiên Như Duy Tắc.

[3] Thủy Vân đạo nhân: tức sa-môn Ngộ Khai.

[4] Ba tông: có hai thuyết: a. Pháp tướng, phá tướng, pháp tánh. b. Thật pháp, giả danh, viên giáo.

[5] Chánh thuyết: lập thuyết đúng, hoặc luận bàn chính xác, không sai tông chỉ.

[6] Ba bộ kinh Tịnh Độ: Kinh A-di-đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ.

[7] Tam quán: Quán không, quán giả, quán trung là tam quán của tông Thiên Thai.

[8] Bốn thiền, Tám định: Bốn thiền: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền là Tứ thiền thuộc cõi Sắc. Tám định: gồm 4 định cõi Sắc nêu trên và 4 định cõi Vô Sắc: Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.

[9] Ti, trúc, quản, huyền: Ti là đàn dây tơ; Trúc, Quản là tiêu, sáo; Huyền là đàn.

[10] Thức-xoa-ma-na: giới của chúng ni xuất gia, nay cho người nữ tại gia lãnh thọ, nên nói là lầm lẫn.

Từ khóa » Những Lời Niệm Phật