MRI Trong Chẩn đoán Ung Thư Bàng Quang

Trang chủ Hội - Hội viên Đào tạo - Nghiên cứu khoa học Tư liệu tham khảo Trường hợp lâm sàng Liên hệ - Tư vấn sức khỏe
Giới thiệu Hội
Điều lệ hội
Cơ cấu tổ chức
Danh sách hội viên
Đăng ký hội viên
Chuyên đề
Bài báo NCKH trong nước
Bài báo NCKH nước ngoài
Video clip
Thống kê y học
Thông tin Đào tạo
Tài liệu kỹ thuật
Sách - Tài liệu tổng quan
Tiết niệu
Thận học
Tư vấn sức khỏe
Trang chủ » Đào tạo - Nghiên cứu khoa học » Chuyên đề MRI trong chẩn đoán ung thư bàng quang

Jane Belfield

Ung thư bàng quang là một trong những bệnh lý ác tính phổ biến nhất của hệ tiết niệu, chiếm khoảng 6% trong tổng số ung thư ở nam và 2% trong tổng số ung thư ở nữ. Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo độ tuổi với 70% bệnh nhân được ghi nhận trên 65 tuổi. Nam giới có nguy cơ mắc ung thư biểu mô bàng quang cao hơn nữ giới gấp 3-4 lần và có tỷ lệ tái phát cao.

90% trường hợp ung thư biểu mô bàng quang là ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp ( transitional cell carcinoma). Các dạng khác của ung thư biểu mô bàng quang bao gồm: ung thư biểu mô tế bào vảy, ung thư dạng sarocoma, ung thư biểu mô giống u lympho. Ung thư biểu mô tuyến hiếm gặp và có liên quan sự tồn tại ống niệu rốn và u ống niệu rốn.

80-85% trường hợp các khối u biểu mô không xâm lấn cơ, được giới hạn ở lớp niêm mạc hoặc dưới niêm mạc và thường có tiên lượng tốt. 20-25% trường hợp u biểu mô ác tính xâm lấn cơ, và gần như tất cả trường hợp ung thư biểu mô vảy (squamous) và tuyến (adenocarcinoma) đều đã ở giai đoạn xâm lấn tại thời điểm chẩn đoán. 33% bệnh nhân đến khám phát hiện u bàng quang đa ổ, có tỉ lệ xâm lấn cao và có xu hướng tái phát.

Một số yếu tố nguy cơ bao gồm di truyền, hút thuốc, bệnh nghề nghiệp, phơi nhiễm phóng xạ ion và tiền sử nhiễm sán máng.

80% bệnh nhân có triệu chứng đái máu, không đau khi tiểu, nhưng cũng có thể biểu hiện các triệu chứng kích thích kèm theo như đái buốt, đái rắt, đái vội.

Siêu âm

Siêu âm có thể phát hiện u bàng quang nguyên phát nhưng không thể nhìn rõ các khối u phẳng, có kích thước bé. Nếu bàng quang ít nước tiểu tại thời điểm siêu âm, các khối u có thể bị bỏ sót vì thành bàng quang có thể trông dày hơn. Vai trò chính của siêu âm là để loại trừ trường hợp thận ứ nước, hay một nguyên nhân nào đó ở thận gây tiểu máu.

Thận ứ nước là một yếu tố tiên lượng độc lập cho ung thư bàng quang giai đoạn tiến triển và cho những bệnh nhân thận ứ nước có hiểu hiện lâm sàng xấu hơn [2]. Điều này cũng được cho là dự đoán trước cho tình trạng xâm lấn ngoài bàng quang và di căn hạch.

Chụp cắt lớp vi tính

Độ chính xác của CT-Scan trong phân giai đoạn ung thư bàng quang chỉ đạt 40-60%, nhưng lại có độ nhạy cao và độ đặc hiệu trên 90% khi dùng để chẩn đoán ung thư bàng quang ở bệnh nhân có tiểu máu. CT-Scan thường được chỉ định để đánh giá đường tiết niệu trên vì có thể tồn tại các khối u đồng thời ở 2.5% bệnh nhân ung thư bàng quang, và người ta cũng thấy có khoảng 1.8-6% trường hợp có ung thư biểu mô chuyển tiếp đường tiết niệu trên sau khi cắt bàng quang.

Những hình ảnh đạt chuẩn là những hình ảnh cho phép đánh giá đầy đủ hệ thống tiết niệu, bao gồm hình ảnh dày lên, khiếm khuyết hoặc bất thường của niệu mạc. Cũng như siêu âm, CT-Scan không thể đánh giá được u bàng quang nhỏ, dạng u trên bề mặt, nhất là khi bàng quang không đủ căng. Các khối u ở đáy bàng quang cũng có thể khó được phát hiện, nhất là ở bệnh nhân kèm tuyến tiền liệt lớn.

CT-Scan cũng cho phép đánh giá di căn hạch hoặc các tạng, đánh giá niệu quản đoạn xa và xác định các bất thường giải phẫu, như thận - niệu quản đôi và chèn ép niệu quản, đây là những điều cần được xác định trước khi phẫu thuật bàng quang.

CT-Scan là phương tiện hình ảnh chính để theo dõi bệnh và nên kết hợp với đánh giá nhằm phát hiện ung thư biểu mô chuyển tiếp đường tiết niệu trên. Hiện nay chưa có sự đồng thuận nào về tần suất hoặc thời gian theo dõi CT-Scan ở bệnh nhân ung thư bàng quang.

Chụp cộng hưởng từ (MRI)

Độ chính xác của MRI đối với phân giai đoạn của khối u nguyên phát được ghi nhận là 73-96% với giá trị trung bình là 85%. Các giá trị độ chính xác trong phân giai đoạn cao hơn CT 10-33% và MRI được xem là vượt trội hơn CT do độ phân giải tương phản mô mềm cao và khả năng chụp ảnh đa cực [4]. MRI vượt trội hơn CT trong việc chứng minh sự xâm lấn thành bàng quang và có thể phân biệt giai đoạn T2a và T2b.

Những tiến bộ trong MRI hiện nay cho phép thực hiện hình ảnh đa tham số, bao gồm sự kết hợp của các trình tự giải phẫu và chức năng, và có khả năng cải thiện hơn nữa độ chính xác khi phân giai đoạn [5]. Độ chính xác của MRI tăng cường tương phản động (DCE) trong việc xác định giai đoạn khối u bàng quang được ghi nhận là 52-93%, và khi được sử dụng kết hợp với cộng hưởng từ khuếch tán (DWI) và chuỗi T2, độ chính xác đã được ghi nhận là 92%.

MRI đa thông số sử dụng sự kết hợp của hình ảnh T1 và T2 cũng như các chuỗi tăng cường độ tương phản động (DCE) và cộng hưởng từ khuếch tán (DWI). Độ phân giải không gian cao đạt được bằng cách sử dụng coil bề mặt, các lát mỏng (

Từ khóa » Thành Bàng Quang Dày Trên Siêu âm