Nét đặc Sắc Trong Nguyên Tắc đại đoàn Kết Dân Tộc Của Chủ Tịch Hồ ...

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. (Ảnh tư liệu)

Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có thái độ “cầu đồng tồn dị” - chấp nhận sự khác biệt của các giai tầng trong xã hội nhưng không trái với mục tiêu chung: Độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với những kẻ thù xâm lược đến từ phương Bắc, sau này là từ phương Tây. Dựng nước gắn liền với giữ nước. Theo Hồ Chí Minh, mẫu số chung của mọi giai tầng trong xã hội Việt Nam, đó là khát vọng được độc lập, khát vọng vươn tới một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Người khẳng định: “Người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.

Để xây dựng khối đoàn kết toàn dân vững mạnh, Người khuyên đồng bào vì lòng yêu nước thương nòi, hãy xóa bỏ mọi bất hòa, thành kiến để cùng phấn đấu cho một tương lai tươi sáng. Trong Thư gửi đồng bào Nam bộ, Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đầu hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu con người cũng có người thế này thế khác nhưng thế này thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc...có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.

Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân.

Dân trong tư tưởng Hồ chí Minh là những người cùng chung một nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ thống nhất. Người gọi nhân dân là “quốc dân”, là “đồng bào”, là “người trong một nước”. Dân là những người có chung một cội nguồn, tất cả sinh cùng một bọc, là “con Lạc cháu Hồng”, là “con Rồng cháu Tiên”, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Đó là toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc VN, kể cả những người ở nước ngoài, “không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo”, trừ bọn tay sai cho đế quốc thực dân, bọn Việt gian, bọn phản bội lại lợi ích Tổ quốc.

Nguyên tắc này vừa là sự kế thừa tư duy chính trị truyền thống của dân tộc “Dân là gốc của nước”, vừa là sự quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Hồ Chí Minh cho rằng: Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết. "Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân". Dân là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của khối đại đoàn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị. Do đó, cần phát huy sức mạnh của Nhân dân. Đoàn kết phải thực sự tạo thành sức mạnh vật chất và tinh thần. Đoàn kết phải thông qua các tổ chức chặt chẽ để tập hợp các tầng lớp Nhân dân. Trong Di chúc Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực ký quý báu của Đảng và Nhân dân ta”.

Năm 1950, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với lớp đào tạo cán bộ Tư pháp. Đó là một đêm mùa Hè ở vùng núi chiến khu Việt Bắc, tiết trời rất nóng nực. Bác mặc chiếc áo sơ-mi bằng vải màu vàng đã sờn bạc, để lộ bên trong chiếc áo may-ô nhuộm màu nâu. Dưới ánh đèn dầu le lói, một tay cầm chiếc quạt giấy, tay kia Bác rút trong cặp ra một xếp giấy, gồm những câu hỏi mà học viên trong lớp đã gửi lên để nhờ Bác giải đáp. Bác đọc từng câu, vừa trả lời vừa giải thích thật cặn kẽ và dễ hiểu. Đáng nhớ nhất có câu hỏi: “Làm thế nào để Tư pháp gần được dân?”. Bác trả lời: “Muốn gần dân thì đừng xa dân!”.

Sự ủng hộ của nhân dân là hết sức to lớn. Ví dụ: Sự ủng hộ về vật chất và tinh thần cho Chính phủ ta sau khi CMT8 thành công, Tổng tuyển cử, “Tuần lễ vàng”, “Hũ gạo cứu đói”…

Thứ ba, đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết lâu dài, chặt chẽ.

Đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết trên lập trường vô sản, theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là một tập hợp có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nền tảng là khối liên minh công - nông - trí thức.

Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”. Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi.

Thứ tư, đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải gắn liền với tự phê bình và phê bình.

Xuất phát từ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của con người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân tộc trong khối đại đoàn kết. Đồng thời, Người cho rằng, trong đoàn kết có đấu tranh, đấu tranh để củng cố đoàn kết. “Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Do đó, trong đoàn kết phải thực hiện tự phê bình và phê bình, để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, củng cố nội bộ, củng cố tổ chức, tăng cường đoàn kết.

Trong tác phẩm Di chúc, điều mong muốn cuối cùng của Người là: Toàn đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng. Tinh thần đại đoàn kết được hun đúc và rèn luyện trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta mà người thắp nên ngọn lửa đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Nguyễn Thanh Thủy

Từ khóa » đồng đoàn Kết Là Gì