Nghĩa Vụ Theo định Kỳ Là Gì? Thực Hiện Nghĩa Vụ Theo định Kỳ?

Mục lục bài viết

  • 1 1. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ:
  • 2 2. Đối tượng của nghĩa vụ:
  • 3 3. Quy định về thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ:
    • 3.1 3.1. Căn cứ pháp lý:
    • 3.2 3.2. Nội dung của quy định thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ:

1. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ:

Theo Điều 275 Bộ luật dân sự 2015 quy định về các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ thì các căn cứ phát sinh nghĩa vụ bao gồm các loại căn cứ sau đây:

– Thứ nhất: Hợp đồng là một trong số những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:

Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Như vậy, ta nhận thấy, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, cho thuê, mượn tài sản hoặc về việc thực hiện một công việc, theo đó hợp đồng sẽ làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong hợp đồng đó. Chính bởi vì thế mà khi các bên thỏa thuận nhằm mục đích để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nhau thì hợp đồng sẽ trở thành căn cứ hình thành và làm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa các bên.

– Thứ hai: Hành vi pháp lý đơn phương là một trong số những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:

Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi của các cá nhân mà hành vi đó được tạo lập nhằm thể hiện ý chí tự do, tự nguyện, tự định đoạt của bản thân người thực hiện hành vi đó nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và các nghĩa vụ dân sự. Khi một chủ thể thực hiện một hành vi pháp lý đơn phương thì hành vi đó có thể làm phát sinh nghĩa vụ của người đó với người khác hoặc phát sinh nghĩa vụ của người khác với người thứ ba.

– Thứ ba: Thực hiện công việc không có ủy quyền là một trong số những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:

Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một chủ thể là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng chủ thể này đã tự nguyện thực hiện công việc đó nhằm mục đích bởi vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi chủ thể này không biết hoặc biết mà không phản đối.

– Thứ tư: Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là một trong số những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:

Khi một chủ thể được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật thì sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của chủ thể đó kể từ khi người đó có khoản lợi trong tay. Từ thời điểm chủ thể được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đó biết hoặc phải biết về việc được lợi thì phải hoàn trả khoản lợi mà mình đã thu được.

– Thứ năm: Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là một trong số những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:

Khi các chủ thể thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật sẽ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. Trong quan hệ này thì bên gây thiệt hại sẽ có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bên bị thiệt hại theo đúng quy định pháp luật hiện hành.

– Thứ sáu: Căn cứ khác do pháp luật quy định là một trong số những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:

Trường hợp này do pháp luật khác quy định nhằm để tránh sự bỏ sót những phát sinh nghĩa vụ trong thực tiễn. Đó là những căn cứ pháp lý do pháp luật quy định điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ về tài sản giữa các chủ thể trong quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực dân sự.

2. Đối tượng của nghĩa vụ:

Bộ luật dân sự 2015 quy định về đối tượng của nghĩa vụ tại Điều 276 bao gồm các đối tượng như sau:

– Thứ nhất: Tài sản là đối tượng của nghĩa vụ.

Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 tài sản bao gồm:

+ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

+ Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Những loại tài sản này là những gì các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ tác động tới để qua đó thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.

– Thứ hai: Công việc phải thực hiện là đối tượng của nghĩa vụ.

Hiểu một cách đơn giản thì công việc là một dạng hoạt động cụ thể mà một bên mong muốn xác lập quan hệ nghĩa vụ để bên còn lại thực hiện hoạt động này. Hoạt động này có thể thông qua hoặc không thông qua hành vi cụ thể. Thông qua việc thực hiện công việc này thì bên yêu cầu có thể thỏa mãn được các nhu cầu về lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần. Cũng chính bởi vì thế, công việc phải thực hiện được hiểu là những hoạt động của các chủ thể được thực hiện thông qua hành vi cụ thể.

– Thứ ba: Công việc không được thực hiện là đối tượng của nghĩa vụ.

Công việc không được thực hiện là thể hiện dưới dạng các chủ thể không đưa ra một hành động cụ thể. Hoạt động này cũng sẽ là đối tượng của quan hệ nghĩa vụ khi các bên có thỏa thuận hoặc do pháp luật hiện hành có các quy định cụ thể. Thông qua hoạt động này, một trong các bên có được những quyền và lợi ích của mình.

Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định.

Pháp luật quy định đối tượng là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện cần phải xác định được một cách rõ ràng. Quy định này là vô cùng cần thiết bởi vì khi đối tượng không thể xác định thì các bên chủ thể không thể tác động vào đó để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của mình. Và khi không thể xác định được đối tượng của nghĩa vụ thì các bên chủ thể càng không thể tạo ra các quyền và nghĩa vụ một cách cụ thể theo quy định của pháp luật dân sự.

3. Quy định về thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ:

3.1. Căn cứ pháp lý:

Thực hiện nghĩa vụ dân sự hiểu một cách đơn giản là việc các chủ thể triển khai hành vi của người có nghĩa vụ trong việc chuyển giao một tài sản, thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công việc vì lợi ích của người có quyền.

Theo Điều 282 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ có nội dung cụ thể như sau:

“Điều 282. Thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ

Nghĩa vụ được thực hiện theo định kỳ theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ có thể được hiểu là các chủ thể là người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong một khoảng thời gian nhất định và khoảng thời gian này có tính chất lặp đi lặp lại.

3.2. Nội dung của quy định thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ:

Theo như những phân tích cụ thể ở trên thì thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ là việc thực hiện nghĩa vụ trong một quãng thời gian nhất định, khoảng thời gian đó có hạn định và tính chất chất lặp đi lặp lại theo từng chu kỳ cụ thể. Nghĩa vụ được thực hiện theo định kỳ được tiến hành với nội dung như sau:

– Thực hiện theo thỏa thuận:

Quan hệ nghĩa vụ phát sinh dựa trên thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch cũng chính bởi do vậy mà các bên cũng có quyền thỏa thuận về việc đưa ra một khoảng thời gian hợp lý để có thể thực hiện nghĩa vụ, thông qua việc thống nhất ý chí với nhau hoặc chấp thuận ý chí của nhau. Đây là trường hợp các bên đã thống nhất ý chí với nhau, bằng cách thỏa thuận định ra một thời gian có tính chất định kỳ để thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ cũng có thể được thực hiện thông qua việc các bên chấp nhận ý chí của nhau và việc thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ thông qua việc các bên chấp nhận ý chí của nhau dễ thấy trong các hợp đồng theo mẫu.

– Theo quy định của cơ quan có thẩm quyền:

Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có quyền được can thiệp vào thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ của các chủ thể bằng các quy định của pháp luật. Dựa trên các quy định của pháp luật thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng, đầy đủ theo quy định của pháp luật.

– Theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền:

Các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng là sự can thiệp của ý chí của Nhà nước bắt buộc chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện, tuy nhiên thay vì quy định trong các văn bản pháp luật, ý chí của Nhà nước được thực hiện thông qua quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thông qua việc ban hành các quyết định, cơ quan có thẩm quyền ấn định một kỳ hạn hợp lý mà các bên phải tuân theo.

Cũng cần đặc biệt lưu ý rằng các bên mang nghĩa vụ phải có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn trong các kỳ hạn thực hiện nghĩa vụ. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn ở kỳ này nhưng đến kỳ sau lại chậm thực hiện nghĩa vụ thì cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ. Bởi vì việc thực hiện nghĩa vụ theo định kỳ mang tính liên tục, nghĩa vụ gắn với chủ thể từ khi bắt đầu đến khi kết thúc việc thực hiện nghĩa vụ. Việc các chủ thể là người có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ ở kỳ này không đồng nghĩa với việc họ sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình ở kỳ sau cũng chính bởi vì điều đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên có quyền trong kỳ hạn người có nghĩa chậm thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp này thì bên có quyền sẽ có quyền khởi kiện đối với bên có nghĩa vụ để yêu cầu họ thực hiện đùn nghĩa vụ của mình.

Từ khóa » Theo định Kỳ Là Gì