Ngoại Giao Việt Nam Thời Nguyễn – Wikipedia Tiếng Việt

Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào

Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa triều đình nhà Nguyễn với các quốc gia láng giềng và phương Tây trong thời kỳ độc lập (1802-1884).

Với Trung Quốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản tấu của Đặng Văn Khải, Khâm phái sứ bộ sang nhà Thanh công vụ về việc tìm mua các loại ngọc quý (1830)

Sau khi lấy được Bắc Hà, vua Gia Long đă cử một sứ đoàn do Trịnh Hoài Đức dẫn đầu sang nhà Thanh xin cầu phong. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh nhà Thanh đổi quốc hiệu là Nam Việt. Sau những tranh luận về tên gọi vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa nằm ở lưỡng Quảng và cùng đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam,[1] vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây sang làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính. Đồ cống phẩm gồm: vàng 200 lượng; bạc 1000 lượng; lụa và cấp mỗi thứ 100 cây; sừng tê giác 2 bộ; Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân.[1]

Tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ vua Gia Khánh 50 tuổi. Liên tục từ 1813, 1817 và 1819 việc giao thiệp giữa Gia Long và nhà Thanh được êm đẹp[2]. Về sau, nhà Thanh đã nhiều lần cử người giúp triều Nguyễn trong vụ đàn áp Khởi nghĩa Lê Duy Phụng ở Bắc Kỳ những năm 1861-1865[cần dẫn nguồn].

Với Xiêm La

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc thư của Vua Xiêm gửi nhà Nguyễn báo cáo tình hình Nam Vang cử binh đánh Xiêm La, năm Gia Long thứ 15 (1816)
Quốc thư Vua Xiêm về việc cung tiến phỉ nghi để tăng tình hữu hảo, năm Gia Long thứ 15 (1816)
Quốc thư của nhà Nguyễn cảm tạ Xiêm La đã tặng lễ vật, năm Gia Long thứ 15 (1816)

Trong thời kỳ các chúa Nguyễn còn chiến tranh với Tây Sơn, Xiêm La đã lợi dụng cơ hội để phân chia đất Cao Miên năm 1779 dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh (Phya Tak).

Năm 1794, Nặc Ấn lưu vong qua Vọng Các rồi được vua Xiêm cho một đạo quân đưa về nước nhưng hai tỉnh Battambang và Angkor phải nhượng cho nước Xiêm. Nặc Ấn mất năm 1796. Năm 1802 Miên mới có vua là Nặc Ông Chân, con Nặc Ông Ấn. Tuy đă thần phục Xiêm La, Ông Chân vẫn cử sứ đoàn ra chầu vua Gia Long tại Thăng Long. Từ năm 1805 Miên thần phục triều đình Việt nhưng năm sau lại sang Vọng Các thụ phong tiếp.

Người Xiêm không tán thành chính sách nước đôi này nên ngầm giúp Nặc Ông Nguyên, em của Ông Chân, nổi loạn. Ông Chân phải chạy sang cầu cứu triều Nguyễn. Xiêm liền tiến quân đánh thành La Bích (Lovek). Vua Gia Long cử Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành dẫn 10.000 quân hộ vệ đưa Ông Chân trở về nước khiến Xiêm và Nặc Ông Nguyên phải rút lui. Lê Văn Duyệt sau đó đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên từ đấy và xây thành Nam Vang và thành La Lem. Sau đó vua cử Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân sang trấn giữ xứ này như một thuộc quốc.

Dù có xung đột nhưng việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng Cam Lộ, dân ở các vùng Cao nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, người Thượng (tức người Rhadé) ở các nước Thủy Xá và Hỏa Xá cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền của triều Nguyễn[3].

Năm 1827, Quân Xiêm La đánh Vạn Tượng khiến quốc vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải sang cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Minh Mạng cho Thống chế Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân Xiêm đánh bại. Năm 1828 Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục đem 3.000 quân và 24 con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane) nhưng đạo quân của nhà Nguyễn và A Nộ lại bị thua phải xin viện binh Nghệ An. Vua Minh Mạng chán việc này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ còn phòng vệ vùng biên giới. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị bắt nộp cho Xiêm La[4].

Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống chế Phạm Văn Điển và Tham tán Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân nhà Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư cho họ để trách cứ. Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy họ vẫn bí mật giúp người Chân Lạp nổi lên chống lại chính quyền Đại Nam hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình.

Cuối năm 1833, nước Xiêm mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì "Xiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam, lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra trên đất Việt Nam liền nắm ngay cơ hội để xâm lấn"[4].

Với Ai Lao

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ của Việt Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đều xin làm nội thuộc và trở thành các châu, phủ của Việt Nam[5].

Với Chân Lạp

[sửa | sửa mã nguồn]
Lãnh thổ bảo hộ Chân Lạp 1818-1863
Chiếu mời Quốc vương Cao Miên đến bàn chính sự, năm Gia Long thứ 16 (1817)
Bài chi tiết: Lịch_sử_Campuchia_(1431-1863) § Phiên_thuộc_của_Việt_Nam

Khi Gia Định bị thất thủ, quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La. Đến năm đinh mão (1807), Nặc Ông Chân bỏ Xiêm La xin về thần phục vua Việt Nam, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần. Đồ cống vật gồm: voi đực cao 5 thước hai con; sừng tê giác 2 chiếc; ngà voi hai cái; hột sa nhân 50 cân; đậu khấu 50 cân; hoàng lạp 50 cân; cánh kiến 50 cân; và sơn đen 20 lọ.[6]

Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, Tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp[5].

Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai nối dõi, quyền bính chuyển sang cho Trà Long và Lê Kiên - hai người Chân Lạp làm quan cho người Việt. Năm sau, Trương Minh Giảng lập công chúa Angmey, con của Nặc Ông Chân, còn gọi là Ngọc Vân công chúa, làm quận chúa. Ông đổi nước Chân Lạp thành Trấn Tây thành, chia làm 32 phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan coi sóc mọi việc quân sự và dân sự[5].

Do quan lại Đại Nam tại Chân Lạp làm nhiều điều ức hiếp, nhũng nhiễu dân Chân Lạp; do nhà Nguyễn bắt Ngọc Vân công chúa về Gia Định, đày Trà Long và Lê Kiên ra miền Bắc Việt Nam, dân chúng Chân Lạp oán giận và nổi dậy chống quân Việt Nam ở khắp nơi. Người em của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa với sự giúp đỡ của Xiêm La. Quân nhà Nguyễn đánh dẹp không nổi, đến khi vua Minh Mạng qua đời thì Trương Minh Giảng phải bỏ Trấn Tây thành rút về An Giang[5].

Ký ức của người Khmer về các cuộc nổi dậy của họ thời đầu thế kỷ 19 và về sự tàn bạo của quan quân nhà Nguyễn khi đánh dẹp đã được lưu truyền trong ca dao và truyện kể của người Khmer. Họ dùng từ "Youn" (trong tiếng Khmer có nghĩa là "man rợ") để chỉ người Việt. Các bà mẹ thường dùng chuyện "Youn bắt" để dọa con. Kênh Vĩnh Tế - con kênh đào dài 25 dặm được xây dựng bởi dân phu Việt và một phần người Khmer ở Thoại Sơn - đã để lại những câu chuyện về cách đối xử tàn ác của người Việt đối với người Khmer mà sau này Khmer Đỏ đã sử dụng trong các chiến dịch tuyên truyền khơi dậy lòng hận thù của người Campuchia đối với người Việt[7].

Với phương Tây

[sửa | sửa mã nguồn]
Văn bản trình thư của Vua Anh gửi cho Hoàng đế Gia Long (1817)
Thư của Quản tàu Xuy Lê Đê La Ca Đi Ô về việc Vua Pháp gửi tặng lễ vật cho Quốc vương Đại Nam để tỏ tình hữu hảo, năm Gia Long thứ 16 (1817) 02

Năm 1803, Anh Quốc sai sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Gia Long không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng vẫn bị từ chối.

Đối với nước Pháp, vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian truân có nhờ ông Bá Đa Lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi người 50 lính hầu và khi chầu thì không cần lạy Hoàng đế.

Năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa[6].

Cảnh hành hình giáo sĩ Pierre Borie năm 1838 dưới thời Minh Mạng

Tuy nhiên, sự bành trướng của Châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e ngại, nhất là sau khi nước Anh chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không thể biệt đãi một quốc gia đặc biệt nào. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự dễ dàng khi buôn bán ở Việt Nam.

Vua Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược[8]. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo.

Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến.

Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng không được tiếp nhận.

Từ năm 1855 các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông thương cũng không được. Sau khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài nhưng không có kết quả vì những người được ủy thác vào các việc này không được học gì về ngoại giao[8].

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nhà Nguyễn
  • Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Trần Trọng Kim 1971, tr. 173
  2. ^ Phạm Văn Sơn 1960, tr. 415
  3. ^ Phạm Văn Sơn 1960, tr. 415-416
  4. ^ a b Phạm Văn Sơn 1960, tr. 424
  5. ^ a b c d Trần Trọng Kim 1971, tr. 191
  6. ^ a b Trần Trọng Kim 1971, tr. 174
  7. ^ Nayan Chanda 1986, tr. 52
  8. ^ a b Phạm Văn Sơn 1960, tr. 432

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến Thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.
  • Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, 2 tập, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục, Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2018, truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
  • Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục, Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2009, truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
  • Đặng Việt Thủy; Đặng Thành Trung (2008), 54 vị Hoàng đế Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân.
  • Trương Hữu Quýnh (2005), Đại cương Lịch sử Việt Nam-tập I, nnk., Nhà xuất bản Giáo dục
  • Trương Hữu Quýnh (2004), Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến 1858, nnk., Nhà xuất bản ĐH Sư phạm
  • Đinh Xuân Lâm (2007), Đại cương Lịch sử Việt Nam-tập II, nnk., Nhà xuất bản Giáo dục
  • Trần Đức Anh Sơn (2004), HUẾ Triều Nguyễn một cái nhìn, Nhà xuất bản Thuận Hóa.
  • Nguyễn Thị Thạnh (2008), The French conquest of Cochin-China, 1858-1862, [Ph.D. Thesis], Cornell University 1982.
  • Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản KHXH,Hà Nội.

  • Nguyễn Thế Anh (2008a), Việt Nam Thời Pháp Đô Hộ, Nhà xuất bản Văn Học, ISBN 7-02-000357-5.
  • Nguyễn Khắc Thuần (2005), Đại cương lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.
  • Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, TP Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn.
  • Lê Nguyễn (2009), Nhà Nguyễn và những vấn đề lịch sử, Hà Nội: Nhà xuất bản Công an nhân dân
  • Phạm Văn Sơn (1960), Việt sử toàn thư.
  • Nguyễn Phan Quang (1976), Lịch sử Việt Nam (1427-1858), quyển II, Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục.
  • Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam Thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Nguyễn Đình Đầu (2005), Việt Nam-Quốc hiệu và Cương vực qua các thời đại, Nhà xuất bản Trẻ.
  • Nayan Chanda (1986), Brother Enemy, Harcourt Brace Jovanovich.
  • Vu Tam Ich. "A Historical Survey of Educational Developments in Vietnam". Bulletin of the Bureau of School Service Vol XXXII, No 2. Lexington, KY: University of Kentucky, College of Education, 1959.

  • x
  • t
  • s
Nhà Nguyễn thời độc lập (1802–1884)
Các vua (* là vua bị giết) Gia Long  • Minh Mạng  • Thiệu Trị  • Tự Đức  • Dục Đức*  • Hiệp Hòa*  • Kiến Phúc*
Các sự kiện, cuộc chiến Nổi dậy Đá Vách • Chiến tranh Việt–Xiêm (1833-1834 • 1841-1845) • Cải cách Minh Mạng • Vụ án Mỹ Đường • Kinh lý Chân Lạp • Tranh chấp Ai Lao • Khởi nghĩa Phan Bá Vành • Khởi nghĩa Ba Nhàn, Tiền Bột • Nổi dậy Lê Văn Khôi • Nổi dậy Lê Duy Lương • Nổi dậy Nông Văn Vân • Khởi nghĩa Cao Bá Quát • Khởi nghĩa Lâm Sâm • Nổi dậy Hà Tiên • Khởi nghĩa Ba Xuyên  • Nổi dậy Thất Sơn • Vụ án Hồng Bảo • Chính biến chày vôi • Quân Pháp xâm lược • Tạ Văn Phụng phản quốc
Các lĩnh vực Chính trị  • Hành chính  • Quân sự  • Quan chế  • Văn học  • Kinh tế (Thủ công nghiệp  • Thương mại  • Nông nghiệp  • Tiền tệ)  • Giáo dục  • Ngoại giao
Các nước ngoài liên quanTrung Quốc • Cao Miên  • Vạn Tượng  • Xiêm La  • Pháp  • Tây Ban Nha
  • Hồng Bàng
  • An Dương Vương
  • Triệu
  • Tự chủ
  • Đinh
  • Tiền Lê
  • Trần
  • Hồ
  • Lê sơ
  • Lê trung hưng
  • Mạc
  • Tây Sơn
  • Nguyễn
  • x
  • t
  • s
Lịch sử ngoại giao Việt Nam
Các thời kỳ Hồng Bàng  • An Dương Vương  • Nhà Triệu  • Tự chủ  • Nhà Ngô  • Nhà Đinh  • Nhà Tiền Lê  • Nhà Lý  • Nhà Trần  • Nhà Lê sơ  • Nhà Mạc  • Đàng Ngoài  • Đàng Trong  • Nhà Tây Sơn  • Nhà Nguyễn
Các nước có bang giao Trung Quốc  • Mân Việt  • Chiêm Thành  • Chân Lạp  • Ai Lao  • Xiêm La  • Pháp  • Anh  • Tây Ban Nha
Liên quan Ngoại giao đương đại

Từ khóa » Trình Bày Chính Sách Ngoại Giao Của Nhà Nguyễn