NGŨ CĂN TRONG PHẬT GIÁO
Có thể bạn quan tâm
NGŨ CĂN Ở ĐÂY LÀ: TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH VÀ TUỆ
TÍN
Tín là đức tin (la foi), lòng tin cậy (la confiance). Người Phật tử tin nơi điều gì? Tin nơi Phật, Pháp, Tang tam bảo.
– Phật là đấng giác ngộ, là sự giác ngộ. Tin nơi Phật là tin rằng sự giác ngộ là có thật.
– Pháp là những lời thuyết giảng của Phật. Tin nơi Pháp là tin rằng những lời thuyết giảng này có thể đưa con người đến nơi giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
– Tăng là đoàn thể những người xuất gia lẫn cư sĩ có hạnh nguyện đi trên con đường giải thoát. Tăng gồm có phàm Tăng và thánh Tăng.
Người Phật tử còn tin nơi điều gì nữa?
– Lý nhân quả hay nghiệp và quả.
– Thuyết tái sinh, luân hồi.
– Thuyết nhân duyên hay thập nhị nhân duyên (12)
– Tin Tứ niệm xứ là nấc thang đầu tiên để tiến tới nấc thang cuối cùng là Tứ Diệu Đế.
Về mặt thực hành:
Trước khi làm một việc gì, ta phải có sự tin tưởng thì mới làm. Cũng như trước khi trị bịnh, uống thuốc, phải tin rằng thuốc này làm ta giảm bịnh hay hết đau thì mới uống.
Thiền cũng vậy, ta phải tin rằng thiền có thể đem lại cho chúng ta sự bình an ở trong thân và trí tuê ở trong tâm thì ta mới thiền.
Ta phải tin rằng phương pháp mà ta đang thực hành đã được giảng dạy trong nhiều thế kỷ, bởi nhiều thế hê thiền sư chứng đắc, nó phù hợp với những giáo huấn của Đức Phật, nó dựa trên những bài kinh cổ điển về thiền, trích ra từ Tam Tạng kinh điển như kinh An Ban Thủ Ý, Kinh Tứ Niệm Xứ v.v…
Tin nơi Tăng, chúng ta tin ở sự hiểu biết và kinh nghiêm của người đi trước hướng dẫn mình, có thể giúp mình vượt qua những khó khăn trở ngại trên con đường tu tập. Đồng thời, cũng tin nơi những bạn đạo cùng tu có thể khuyến khích, hỗ trợ, trao đổi kinh nghiêm tu tập.
Tín còn là niềm tin nơi khả năng của chính mình có thể đi hết con đường từ đây cho tới khi nhắm mắt, không bỏ dở nửa chừng. Bởi vì tu là sự dấn thân, tự nguyên, tự hứa với lòng mình.

TẤN
Tấn hay tinh tấn là năng lực triển khai, thi thố để thực hành điều thiên và tiêu diệt điều ác. Tinh tấn rất quan trọng cho sự giác ngộ. Nó có mặt trong tất cả 7 bước để tiến đến giải thoát.
– 4 niệm xứ: Tinh tấn, niệm, giác tỉnh.
– 4 chánh cần: Ngừa, trừ, hành, trì
– 4 thần túc: Dục, cần, tâm, thẩm
– 5 căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ căn.
– 5 lực: Tín, tấn, niệm, định, tuệ lực
– 7 thất giác chi: Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, an định, xả.
– 8 chánh đạo: Chánh tinh tấn.
Tinh tấn gồm có 4 chi:
– Ngừa: Tích cực ngăn ngừa những ác pháp chưa phát sanh.
– Trừ: Tích cực diệt trừ những ác pháp đã phát sanh.
– Hành: Tích cực thực hành những thiện pháp chưa phát sanh.
– Trì: Tích cực duy trì những thiện pháp đã phát sanh.
Đức Phật Thích Ca là một gương sáng của sự tinh tấn: chúng ta hay nghe Ngài thuật lại giai đoạn đang còn tu khổ hạnh: “Khi muốn rờ da bụng thì tôi đụng nhằm xương sống, và khi muốn rờ xương sống thì tôi lại đụng nhằm da bụng. Vì thiếu vật thực, da bụng tôi ép sát vào xương sống và lúc muốn đứng dậy đi tiểu tiện thì tôi luống cuống té ngã xuống. Tôi đập nhẹ chân tay để làm cho thân mình sống lại. Than ôi, lúc đập như thế, lông trên mình tôi lả tả rơi xuống đất vì đã chết gốc. Những người thấy tôi như vậy thì nói: “Đạo sĩ Cồ Đàm đen”, và người khác nói: Đạo sĩ Cồ Đàm không đen mà xanh dương”. Màu da sáng của tôi tàn tệ đến như thế ấy vì thiếu vật thực. Tuy nhiên, sự tinh tấn của tôi vẫn một mực kiên trì. Những cảm giác đau đớn ấy không gây ảnh hưởng đến tâm tôi”.
Tóm lại, Tinh tấn là sự cố gắng đem công sức và thời gian để thực hiện mục tiêu giải thoát.
Về phương diện thực hành
Có hai loại Tinh tấn: Ở bên ngoài thuộc về thân, ở bên trong thuộc về tâm.
Sự cố gắng thuộc về thân khiến chúng ta thu xếp thời giờ để có thời gian hành đạo, khiến chúng ta 5-6 giờ sáng lồm cồm thức giấc, đặt mình trong tư thế thiền, trong khi những người khác đang triền miên trong giấc điệp; nó cũng khiến chúng ta đều đặn liên tục không bỏ dở con đường.
Sự cố gắng thuộc về tâm là nỗ lực duy trì sự chú tâm, giác tỉnh trên đề mục, không lơ đễnh phóng tâm; nó cũng giống như năng lực của một người đang đọc sách trước khi ngũ, cố duy trì sự chú tâm trên trang giấy, thay vì buông sách, nhắm mắt ngũ, mặc dù rất buồn ngũ
NIỆM
Niệm, tiếng Pali là sati, tiếng Pháp là attention. Trong thiền, niệm không phải là tụng niệm, lặp đi lặp lại một danh hiệu Phật, Bồ tát hay một câu chú nào đó. Niệm ở đây là ý thức, nhận biết, nắm bắt một đối tượng khi nó lọt vào 6 cửa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đó là 5 giác quan giúp con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài ngay trong giây phút hiện tại và một cửa ý để mở vào thế giới bên trong, giúp ta nắm bắt các đối tượng nội tại ở 3 thời quá khứ, hiện tại, tương lai và cả những ý niệm trừu tượng như Tánh không chẳng hạn. Muốn làm được công việc hay biết ý thức này, Niệm phải đi chung với Tỉnh giác, sáng suốt và đồng thời phải có một năng lực tâm tối thiểu (énergie mentale). Năng lực này Phật giáo gọi là Tinh tấn. Khi hội đủ 3 yếu tố Niệm, Giác tỉnh và Tinh tấn ta nói là tâm có Chánh Niệm, tâm có người giữ cửa canh chừng không cho kẻ gian ác, bất thiện len vào. Chánh niệm là trụ cột của thiền, không có chánh niệm không có thiền.

Về phương diện thực hành: Niệm phải có đối tượng vì ý thức phải là ý thức về một cái gì, không thể có ý thức không không. Cũng như tâm là sự hay biết thì tâm luôn luôn phải hay biết cái gì. Đối tượng của Niệm có thể đã được chọn lựa trước, như trong Thiền Chỉ hoặc không chọn lựa trước như trong thiền Quán, Niệm hay biết tất cả những đối tượng lọt qua 6 cửa trong giây phút hiện tại.
Đây là một khả năng tinh thần rất quan trọng, nó biểu hiện sức mạnh của tâm thức. Khi tâm thức mạnh, nghĩa là được rèn luyện, tu tập thì ta ghi nhận rất nhanh lẹ, bén nhạy. Khi tâm thức yếu, con người trở nên lơ đễnh, chểnh mảng, không tập trung. Nó có nhiệm vụ gìn giữ một mức độ tỉnh giác để hay biết (từ bên ngoài) hoặc muốn biết, muốn theo dõi, quan sát (từ bên trong).
Nó là phương tiện để rèn luyện trí tuệ, sự khôn ngoan. Người thường biết chỉ để biết thôi, còn người tu biết để bớt đi hay biết để buông bỏ. Có như vậy ta mới chiến thắng được tham, sân và si
ĐỊNH
Định là trạng thái tâm dừng lại, trụ lại, hội nhập trên đối tượng. Tâm và đối tượng trở thành một, giữa chủ thể và khách thể không còn là hai. Giống như khi ta bấm nút “Arrêt sur image” trên máy truyền hình, hình ảnh sẽ dừng lại.
Có 3 mức độ định tâm:
– Mức sơ định: (parikamma samadhi) bình thường ai cũng có, đối tượng xuất hiện rõ trong tâm, đủ để tâm biết mà không bị các hình ảnh khác chen vào làm rối loạn. Nếu không thì trở thành một trường hợp bệnh lý (hyperactivité mentale, diffluence).
– Mức cận định: (upacara samadhi) với sự luyện tập thiền, tâm trở nên an tịnh, vắng lặng, đối tượng có thể được thay thế bởi một hình ảnh tương tợ thật rõ gọi là tợ tướng (image double similaire). Khi tợ tướng xuất hiện thì ta biết tâm đang ở trạng thái cận định, có thể sắp nhập vào sơ thiền.
– Mức toàn định hay an chỉ định: (appana samadhi) từ cận định tâm sẽ nhập toàn định, thấp nhất là Sơ thiền với 5 chi thiền xuất hiện đầy đủ ở trong tâm là: tầm, sát, phỉ, lạc, định.
* Lên nhị thiền tâm chỉ còn phỉ, lạc, định.
* Lên tam thiền tâm chỉ còn lạc, định.
* Lên tứ thiền tâm chỉ còn định và xả.
Trong 4 mức thiền nầy, tâm nhập Toàn định.
Thiền sư Brahm trong quyển “Cẩm nang của người tu thiền” đã mô tả những đặc điểm lúc nhập định như sau:
1- Không thể có ý tưởng khởi lên 2. Không có tiến trình tạo ra quyết định
3. Không thể đạt được sự hiểu biết bình thường
5. Hành giả hết sức tỉnh giác, nhưng chỉ tỉnh giác về niềm hỷ lạc bất động
6. Năm giác quan hoàn toàn đóng kín, chỉ có giác quan thứ 6, là tâm, là đang hoạt động mà thôi (trang 260).
Khi hành thiền Chỉ, hành giả có thể tiến đạt đến Tứ thiền (sắc giới) hoặc Bát thiền (thêm 4 mức thiền vô sắc giới nữa). Mức định ở đây rất là sâu mạnh, không thể lay chuyển, không bị ô nhiễm. Nhưng khi xả thiền rồi và nếu không tiếp tục tu tập thì tâm vẫn chứng nào tật nấy, không được chuyển đổi. Đức Phật khi còn là Bồ tát, cũng đã chứng đắc đến Bát thiền, nhưng Ngài cảm thấy tâm vẫn chưa được thanh lọc, nên Ngài phải từ bỏ và tìm một con đường tu tập khác là thiền Quán.
Khi hành thiền Quán, hành giả phải mở rộng sự chú tâm, thay vì chỉ chánh niệm trên một đề mục duy nhất, bây giờ phải lấy thêm đề mục thân, thọ, tâm, pháp. Nếu chánh niệm, giác tỉnh liên tục không gián đoạn trong suốt thời gian hành thiền trên các đề mục trên, tâm hành giả ở trong trạng thái “Cận định” (khanika samadhi) nghĩa là định dời đổi liên tục trên các đối tượng khi nó xuất hiện ở trong tâm, không sớm thì muộn, hành giả sẽ chứng ngộ đúng như ngài Lục Tổ Tuệ Năng đã ghi nhận “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”.
TUỆ
Phật giáo là một tôn giáo của Trí tuệ và Từ bi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo nhờ Trí tuệ, ý niệm Trí tuệ có mặt bàng bạc trong khắp giáo lý của Đức Phật.
– Trong Tứ Niệm xứ: tinh tấn, chánh niệm, giác tỉnh
– Trong Tứ Thần Túc: dục, cần, tâm, thẩm
– Trong Ngũ Căn, Ngũ Lực: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ
– Trong Thất Giác Chi: Niệm, Trạch Pháp, Tấn, Hỷ, An, Định, Xả.
– Trong Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, Chánh Tư duy.
– Trong Vi Diệu Pháp: Trí tuệ là một tâm sở thiện rất quan trọng trong 52 tâm sở.
– Trong Tứ Vô Ngại Trí là trí tuệ phân tích, biện giải không trở ngại về Phật pháp cũng như thế gian pháp.
– Trong Thiền Quán phải trải qua 16 cái Tuệ mới chứng đạt Tu đà hoàn.
– Khi đắc đạo thì Đạo Tuệ và Quả Tuệ là những Tuệ giác thấy rõ Niết bàn.
Trong Phật giáo, người ta thường đề cập đến 3 loại Trí tuệ:
– Trí văn là sự hiểu biết do học hỏi. Kết quả của nó là những kiến thức về các giáo lý căn bản của đạo Phật, kiến thức về lịch sử Phật giáo qua các thời đại hay qua các quốc gia khác ” nhau và những kiến thức ứng dụng của đạo trong đời sống để giúp nhân loại thoát khổ, được an vui hòa bình.
– Trí tư là sự hiểu biết do sự suy nghĩ, luận xét, phân tích, tổng hợp. Kết quả của nó là khả năng phân tích, biện giải giúp ta phân biệt đâu là sự thật, đâu là giả tạo; đâu là điều thiện, đâu là điều ác; đâu là bản chất, đâu là hiện tượng.
– Trí tu là trí tuệ trực giác bừng sáng do sự rèn luyện, thực hành thiền định. Ở đây Trí Tuệ không phải là sự hiểu biết nhưng là cái khả năng sử dụng, áp dụng sự hiểu biết; nó là sự tổng hợp chớp nhoáng của tất cả các loại trí tuệ ở trên, trong một giây phút hiện tại để khám phá bản chất thật sự của vạn hữu, khám phá những định luật chi phối thân và tâm. Trong phút chốc nó thiêu rụi những phiền não lậu hoặc, nó đâm thủng màn vô minh, tà kiến và đưa đến sự giải thoát cùng tột.
Về phương diện thực hành, trí tuệ khởi đầu với sự giác tỉnh trên 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp; với sự tinh tấn dùi mài, từ từ hành giả sẽ phân biệt được danh, sắc là Tuệ đầu tiên của thiền Tứ Niệm Xứ, tương đương với sự kiến tánh của thiền Tông (kiến tánh khởi tu). Sau đó, với sự làm việc công phu của ngũ căn, ngũ lực trên đối tượng Danh, Sắc, hành giả sẽ chứng nghiệm được vô thường, khổ, vô ngã (tuệ thứ 3).
Sau đó ngũ căn, ngũ lực tiếp tục quán chiếu ba Pháp ấn trên sẽ lần lượt chứng nghiệm những sự thật của thân, tâm (danh, sắc) này, chứng nghiệm những định luật chi phối thân, tâm (từ tuệ thứ 4 đến tuệ thứ 13). Từ Thất Giác Chi sẽ xuất hiện để phát hiện Đạo Tuệ và Quả Tuệ (tuệ 14-15). Đạo tuệ,
Quả tuệ phát hiện Niết bàn, đối tượng của chúng là Niết bàn. Đến đây một phần hoặc tất cả phiền não vô minh sẽ được diệt tận tuỳ theo trình độ chứng ngộ 1 trong 4 thánh quả của đạo Phật: Tu đà hoàn, tư đà hàm, A na hàm, A la hán.

Ngũ căn là phương tiện giúp ta tiến bước trên con đường tu chứng. Khi đã được rèn luyện, dùi mài, ngũ căn sẽ trở thành ngũ lực, sẽ chiến đấu hiệu quả để triệt tiêu năm triền cái. Nếu ngũ lực được phát triển điều hòa một cách quân bình thì Thất Giác Chi sẽ xuất hiện để làm hiển lộ mục tiêu cuối cùng là Bát Thánh Đạo. Bát Thánh Đạo sẽ có mặt tròn đủ khi tâm chứng ngộ Niết bàn. Đến đây không còn việc gì để nói nữa. Ngũ căn là 5 khả năng tinh thần có ít nhiều trong người hành giả đã biết cách hành Tứ Niệm Xứ. Họ đã biết cách chiến đấu để chống lại 5 triền cái.
– Tín căn chống lại Hoài nghi.
– Tấn căn chống lại lười biếng, uể oải.
– Niệm căn chống lại hôn trầm, thụy miên.
– Định căn chống lại trạo cử, phóng dật.
– Tuệ căn chống lại Tham, Sân, Si hoặc tình trạng quá Định.
Ngũ lực là Ngũ căn đã phát triển một cách thuần thục, mạnh mẽ, nó có mặt thường trực nơi một hành giả đã tu luyện công phu, khi hành giả cần đến là nó có mặt tức khắc. Chẳng hạn hành giả có thể nhập thiền bất cứ lúc nào và ở đâu, hoặc xuất thiền bất cứ lúc nào và ở đâu. Có thể kéo dài hay chấm dứt nhập thiền.
Làm quân bình 5 căn, ngũ lực trong ngũ căn, ngũ lực, niệm lúc nào cũng phải được củng cố và làm tăng trưởng. Đức Phật dạy: “Vì sao tâm phải nương vào niệm, phải có niệm phòng hộ cho tâm? vì rằng: Khi có niệm, tâm không quá lừng lẫy, cũng không quá lui sụt” (Tăng chi bộ kinh) Niệm được ví như người thủ tướng một chính phủ, vị nầy phải có đủ uy tín, được tin cậy bởi những bộ trưởng (Tín), phải siêng năng hăng hái làm việc (Tấn), phải sáng suốt nhìn xa, thấy rộng (Tuệ) và phải bình tỉnh, vững tâm, không bị lung lạc (Định)
Niệm ở giữa điều hành sự quân bình của các cặp: Tín và Tuệ, Tín và Tấn, Tấn và Định, Định và Tuệ.
– Nếu Tín mạnh và Tuệ yếu, thì đức tin có thể trở nên mù quáng, không có nền tảng vững chắc vì thiếu trí tuệ suy xét chân chính. Chẳng hạn hành giả thấy ấn chứng, thấy Phật, thấy tiên giới, tin chấp vào đó, cho rằng có thật. Điều này sẽ đưa vào chấp thủ tà kiến.
– Nếu Tuệ mạnh và Tín yếu, hành giả dễ rơi vào hoài nghi và phóng tâm, lúc nào cũng lý luận, ngụy biện. Ngồi thiền mà cứ độc thoại, hoặc tưởng tượng người ra để đối thoại.
– Nếu Tấn mạnh và Định yếu, thì dễ sinh phóng tâm, trạo cử.
– Nếu Định mạnh và Tấn yếu, thì dễ sinh thụ động, biếng nhác, thích thụ hưởng sự an tịnh, không tin tấn phát triển tuệ giác.
– Tín nhiều có thể ảnh hưởng trên Tấn làm cho hành giả tu tập nhiều hơn, có khi ngày đêm hành thiền, quên ăn, quên ngủ, làm mất quân bình khí lực, có thể gây bệnh mất ngủ.
– Tín nhiều mà Tấn yếu, người nầy chỉ có đức tin suông, nói nhiều mà chẳng có hành động,chẳng có tu tập.
– Hai cặp Định và Tuệ sẽ quyết định khuynh hướng hành thiền Chỉ hoặc thiền Quán:
– Nếu hành giả muốn tiến hành thiền Chỉ thì nặng về Định, sẽ dễ dàng nhập định hơn.
– Nếu hành giả muốn tiến hành thiền Quán thì nặng về Tuệ một tí cũng không sao, nhưng phải có Định làm nền để Tuệ đừng đi quá đà.
– Riêng đối với Niệm: mỗi lần các căn kia mạnh lên là Niệm được củng cố và Tăng cường.
Ngũ căn có thể được làm điều hoà bằng cách:
– Thay đổi các oai nghi: oai nghi nằm hoặc đi có thể làm dịu tấn căn.
– Làm điều hòa thân nhiệt: đi tắm, lau mặt có thể làm dịu định căn.
– Mở mắt, hoặc nhắm mắt có thể điều hoà tuệ căn.
– Điều hòa ngủ nghỉ: không được ngủ ít hơn 6 giờ đồng hồ.
10.823099 106.629664Cảm ơn quý khách đã đọc bài
QUAY LẠI TRANG CHỦ WEBSITE TƯỢNG PHẬT GIÁO
Share this:
- X
Từ khóa » Tín Lực Tấn Lực
-
Ngũ Lực (Bala) Là Gì ? Tín Lực, Tấn Lực, Niệm Lực, định Lực, Tuệ Lực Là Gì ?
-
Ngũ Lực Trong Phật Giáo Bao Gồm Những Gì?
-
Ngũ Căn & Ngũ Lực | Giác Ngộ Online
-
Ngũ Lực – Wikipedia Tiếng Việt
-
NGŨ LỰC - Nguyên Thủy Chơn Như
-
Ngũ Căn - Ngũ Lực - .vn
-
Ngũ Căn Ngũ Lực - Phật Học - THƯ VIỆN HOA SEN
-
Ngũ Căn – Ngũ Lực
-
Đôi Nét Về đạo Phật Và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam - Giới Thiệu Các ...
-
Unilife - Kiên Giang - NGŨ LỰC TRONG ĐẠO PHẬT Và Cách ứng ...
-
NGŨ CĂN – NGŨ LỰC - Bát Chánh đạo
-
Luật Sư Nguyễn Tấn Lực | Giỏi - Uy Tín - ILAW