NGƯỜI BRU-VÂN KIỀU - Ủy Ban Dân Tộc

Tiếng Việt | English VN | EN Toggle navigation
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
  • TIN TỨC
  • TIN ĐA PHƯƠNG TIỆN
  • THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
  • THƯ ĐIỆN TỬ
  • ĐIỀU HÀNH TÁC NGHIỆP
GIỚI THIỆU

Chức năng, nhiệm vụ

Cơ cấu tổ chức

Lịch sử phát triển của Ủy ban Dân tộc

Cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc tại địa phương

TIN HOẠT ĐỘNG

Hoạt động của Bộ trưởng, Chủ nhiệm

Hoạt động của Ủy ban Dân tộc

Ủy ban Dân tộc với Bộ ngành

Ủy ban Dân tộc với địa phương

Hoạt động của các Ban Dân tộc

Cải cách hành chính

TIN TỔNG HỢP

Chủ trương - Chính sách

Thời sự - Chính trị

Kinh tế - Xã hội

Y tế - Giáo dục

Văn hóa - Văn nghệ - Thể thao

Khoa học - Công nghệ - Môi trường

Pháp luật

Quốc tế

Nghiên cứu - Trao đổi

Gương điển hình tiên tiến

Thông tin thị trường giá cả

TIN VIDEO

Tin hoạt động

Điểm báo

Phim tư liệu

TIN ẢNH

Ảnh hoạt động

Ảnh tư liệu

"Đổi mới tư duy, xây dựng pháp luật, từng bước nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp và chất lượng trong công tác xây dựng pháp luật"
  1. Trang chủ
  2. Giới thiệu
  3. Cộng đồng 54 dân tộc

NGƯỜI BRU-VÂN KIỀU

03:43 PM 04/11/2015 | Lượt xem: 41515 | In bài viết | Đọc bài viết A+ A-

Tên tự gọi: Có người cho Bru là tên tự gọi. Tên gọi khác: Bru, Vân Kiều. Nhóm địa phương: Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong. Dân số: 94.598 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần gũi với Tiếng Tà Ôi, Cơ Tu. Chữ viết mới hình thành theo cách phiên âm bằng chữ cái Latinh. Giữa các nhóm có một số từ vựng không giống nhau.

Lịch sử: Họ thuộc số dân cư được coi là có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.

Ðan lát là công việc dành riêng cho đàn ông. Họ cho ra đời các loại gùi, giỏ và nhiều đồ gia dụng cần thiết khác. Chiếc gùi trong ảnh được đan bằng mây, dùng vào việc đi lấy củi, lấy nước... phục vụ cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày.

Hoạt động sản xuất: Canh tác rẫy, trồng lúa là chính; nông cụ đơn giản: rìu, dao quắm, gậy trỉa, cái nạo cỏ có lưỡi cong. Cách thức sản xuất: phát rừng, đốt, rồi chọc lỗ gieo hạt giống, làm cỏ, tuốt lúa bằng tay; đa canh - xen canh trên từng đám rẫy kéo dài hàng năm từ tháng 3 đến tháng 10. Ngoài trồng các giống lúa tẻ, nếp, còn trồng sắn, bầu, chuối, cà, dứa, khoai mía v.v... Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn cùng nguồn lợi khác. Chăn nuôi trâu (về sau có cả bò), lợn, gà, chó là phổ biến.

Nghề thủ công không phát triển. Quan hệ trao đổi hàng hoá chủ yếu với người Việt và người Lào.

Ăn: Người Bru-Vân Kiều thích các món nướng. Canh thường nấu lẫn rau với gạo và cá hoặc ếch nhái. Họ ăn cơm tẻ thường ngày; khi lễ hội, cơm nếp nấu trong ống tre tươi; quen ăn bốc, uống nước lã, rượu cần (nay rượu cất là thông dụng). Nam nữ đều hút thuốc lá, tẩu bằng đất nung hoặc làm từ cây le.

Mặc: Theo phong tục, nam đóng khố, nữ mặc váy, còn áo không có tay, mặc chui đầu. Vải chủ yếu mua ở Lào. Y phục kiểu người Việt thời nay đã trở thành phổ biến, tập quán mặc váy vẫn được bảo lưu. Trước kia thường dùng vỏ cây rừng đập dập lấy xơ để che thân. Ðồ trang sức thường đeo là các loại vòng ở cổ, tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng thanh nữ búi lệch tóc về phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh đầu.

: Người Bru-Vân Kiều sống ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên thuộc miền tây các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Bình. Mỗi làng là một điểm cư trú quần tụ. Mỗi gia đình có nhà riêng, ở nhà sàn, bếp lửa bố trí ngay trên sàn nhà, kiêng nằm ngang sàn. Nhóm Trì, Khùa, Ma Coong nhà thường ngăn thành buồng làm chỗ ngủ riêng cho vợ chồng gia chủ, cho bố mẹ già (nếu có), cho con đã lớn.

Không biết dệt vải, nhưng trước đây trong những ngày lễ tết, hội hè, phụ nữ Bru - Vân kiều lại có bộ y phục khá hoàn chỉnh, với váy và áo dài tay thường được mua từ bên kia biên giới Việt - Lào.

Phương tiện vận chuyển: Người Bru-Vân Kiều dùng các loại gùi, đeo gùi sau lưng, 2 quai gùi quàng vào đôi vai. Chiếc gùi gắn bó khăng khít với mỗi người như hình với bóng, là vật dụng vận tải đa năng.

Quan hệ xã hội: Dân làng thuộc các dòng họ khác nhau, cùng sinh sống trên một địa vực, trong đó đất trồng trọt thuộc về từng gia đình, kể cả khi bỏ hoá. Người "già làng" có vai trò quan trọng đối với đời sống của làng. Sự giàu-nghèo hình thành, nhưng hầu hết các hộ trong làng tương đối khác biệt nhau. Tài sản được xác định bằng chiêng, cồng, ché, nồi đồng, trâu v.v...

Hiện tượng người bóc lột người không phổ biến.

Cưới xin: Cô dâu về ở đằng nhà chồng, nhà trai tổ chức cưới vợ cho con và phải biếu đồ sính lễ cho nhà gái, trong đó có thanh kiếm và thường cả chiếc nồi đồng nữa. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng còn phải làm "lễ cưới" lần thứ 2 khi có điều kiện về kinh tế, gọi là lễ Khơi, để người vợ chính thức được coi là thành viên dòng họ nhà chồng.

Theo tục lệ, việc con trai cô lấy con gái cậu được khuyến khích, việc kết hôn giữa vợ goá với anh hoặc em chồng cũng như giữa chồng goá với chị hoặc em vợ đều được chấp thuận và khi dòng họ A đã gả con gái cho dòng họ B thì dòng họ B không gả con gái cho dòng họ A nữa.

Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai kiêng ăn thịt các con vật sa bẫy, không bước qua cây nằm ngang đường v.v... Họ đẻ con tại nhà, có bà mụ vườn đỡ đẻ. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau vai ba tháng, phải tránh trùng với tên của người đã khuất trong dòng họ, nhưng thường các tên trong nhà được đặt cùng vần nhau.

Bru - Vân kiều thường chọn những khoảng đất tương đối bằng phẳng làm nơi cư trú. Nhà có sàn cao, mái tròn ở đầu hồi, dựng quây quần quanh sân chung của làng. Lối kiến trúc truyền thống này ít nhiều còn được duy trì đến ngày nay.

Ma chay: Tử thi ở nhóm Vân Kiều được đặt năm ngang sàn nhà, chân hướng về phía cửa sổ, ở các nhóm Khùa và Ma Coong thì tử thi được đặt dọc sàn, chân hướng về phía cửa chính. Sau 2-3 ngày mới đưa ma, chôn người chết vào bãi mộ chung của làng.

Quan tài gỗ đẽo độc mộc, gồm hòm và nắp; xưa kia có nơi người chết được bó trong vỏ cây hoặc tấm đan bằng giang, nứa. Chọn đất đào huyệt theo cách dùng trứng gà thả rơi, vỡ trứng là được. Tang gia trước khi mai táng mỗi ngày cúng cơm đặt thức ăn vào miệng tử thi 3 lần (sáng, trưa, tối), khi chôn cất phải dành phần cho người chết nhiều thứ từ đồ mặc đến vật dụng thông thường và cả giống mía, ngô, khoai môn, v.v...

Thờ cúng: Người Bru-Vân Kiều chú trọng thờ cúng tổ tiên. Theo họ, hiện thân của "linh hồn" các thân nhân quá cố là những mảnh nồi, mảnh bát v.v... đặt trong chòi nhỏ dựng riêng. Có nơi thờ cúng cả thần bản mệnh: mỗi người trong gia đình có một chiếc bát đặt chung trên bàn thờ tại nhà. Người ta rất tin và các "thần linh" (Yang): thần lúa, thần bếp lửa, thần núi, thần đất, thần sông nước v.v... Ma gia đình đằng vợ (Yang cu gia) cũng được con rể thờ cúng.

Lễ tết: Người Bru-Vân Kiều có nhiều lễ cúng khác nhau trong quá trình canh tác lúa rẫy nhằm cầu mùa, gắn với các khâu, phát, trỉa và thu hoạch. Ðặc biệt lễ thức trước dịp trỉa lúa diễn ra như một ngày hội của dân làng. Trong một đời người, mỗi người cũng có hàng loạt nghi lễ cúng quải về bản thân mình: khi ra đời, lúc đau ốm, khi qua đời, lúc thành hôn v.v... Lễ cúng có đâm trâu là lễ trọng nhất. Tết đến từng làng sớm muộn khác nhau, nhưng đều vào thời gian sau kỳ tuốt lúa.

Lịch: Họ căn cứ vào mặt trăng để định ra các ngày và tên ngày trong tháng. Quan niệm có những ngày tốt (nhất là mùng 4, 7, 9) và những ngày xấu (nhất là 30 và mùng 1). Mỗi năm, lịch nông nghiệp Bru-Vân Kiều gồm 10 tháng, tiếp đến thời kỳ nghỉ ngơi, chơi bời trước khi bước vào mùa rẫy mới.

Văn nghệ: Người Bru-Vân Kiều có nhiều truyện cổ được truyền miệng, kể về sự tích các dòng họ, nguồn gốc dân tộc, về đề tài người mồ côi v.v... Có các điệu hát như: Oát là loại hát đối đáp giao duyên. Prdoak là hát chúc vui, chúc tụng khi có việc mừng. Xươt là hát vui trong các sinh hoạt vui đùa đông người. Roai tol, Roai trong là loại hát kể lể nặng nề, oán trách. Adâng kon là hát ru trẻ con. Trong đám ma và lễ hội đâm trâu thường có múa kết hợp với hát. Nhạc cụ phổ biến là: cồng, chiêng, đàn Achung, Plư, Ta-lư, kèn Amam, Ta-ral, khèn Pi, nhị, đàn môi, trống, sáo...

File đính kèm

(Bức tranh Văn hóa các Dân tộc Việt Nam - NXB Giáo dục)

Từ khóa Tin liên quan Tin khác Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh dự Đại hội đại biểu các DTTS tỉnh Đồng Nai lần thứ IV, năm 2024 (1 ngày trước) Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh tham dự Đại hội đại biểu các DTTS tỉnh Thanh Hóa lần thứ IV, năm 2024 (21/11/2024) Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ lần thứ IV, năm 2024 (21/11/2024) “Học viện Dân tộc cần tiếp tục khẳng định vị thế và nỗ lực hơn nữa trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho vùng DTTS và miền núi” (21/11/2024) Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT Nông Thị Hà dự Đại hội Đại biểu các DTTS lần thứ IV tỉnh Vĩnh Phúc (21/11/2024) Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh tham dự Lễ Khai giảng năm học mới tại Trường Dự bị Đại học Dân tộc Sầm Sơn (20/11/2024) Các dân tộc tỉnh Lạng Sơn đoàn kết, đổi mới sáng tạo, phát huy lợi thế, tiềm năng, hội nhập và phát triển bền vững (19/11/2024) Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Nông Thị Hà chúc mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 tại Bộ Giáo dục và Đào tạo (19/11/2024) Hội thảo góp ý Đề án Tiêu chí xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030 (18/11/2024)
  • MỚI NHẤT
  • XEM NHIỀU

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh dự Đại hội đại biểu các DTTS tỉnh Đồng Nai lần thứ IV, năm 2024 1 ngày trước

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh tham dự Đại hội đại biểu các DTTS tỉnh Thanh Hóa lần thứ IV, năm 2024 21/11/2024

Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ lần thứ IV, năm 2024 21/11/2024

“Học viện Dân tộc cần tiếp tục khẳng định vị thế và nỗ lực hơn nữa trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho vùng DTTS và miền núi” 21/11/2024

"Đổi mới tư duy, xây dựng pháp luật, từng bước nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp và chất lượng trong công tác xây dựng pháp luật" 70464 lượt xem

Xây dựng Khung Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc ở Việt Nam đến năm 2030 3381 lượt xem

Gia Lai: Đặc sắc Chương trình nghệ thuật “Vũ khúc Dã quỳ - Chư Đang Ya” 2045 lượt xem

Ủy ban Dân tộc gặp mặt Đoàn đại biểu Người có uy tín trong đồng bào DTTS tỉnh Kon Tum 1850 lượt xem

THÔNG BÁO

Mời tham gia thực hiện thẩm tra Báo cáo kinh tế - kỹ thuật dự án "Xây dựng Tạp chí dân tộc điện tử" (15/11/2024) Xin ý kiến các địa phương về dự thảo Tờ trình, Quyết định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT phê duyệt điều chỉnh, bổ sung và hiệu chỉnh tên huyện, xã, thôn ĐBKK; thôn thuộc vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2025 (11/11/2024) Bộ tài liệu đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng thuộc Tiểu dự án 4, Dự án 5 Chương trình 1719 (29/11/2023) Xem thêm >>

CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM

NGƯỜI HÀ NHÌ

Xem thêm>>
  • ẢNH

  • VIDEO

Phim tài liệu: Chặng đường vẻ vang 70 năm công tác dân tộc

Xem thêm>>

Các hoạt động của Ban Dân tộc về giáo dục, tuyên truyền, pháp luật và kinh tế - xã hội

Xem thêm>> VN | EN Toggle navigation
  • TRANG CHỦ
  • CƠ QUAN QUẢN LÝ VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TẠI ĐỊA PHƯƠNG
Trang chủ Lên đầu trang

Từ khóa » Bru Vân Kiều ở Tỉnh Nào