Nguồn Gốc Của Bảng Chữ Cái - Tư Liệu
Có thể bạn quan tâm
Nguồn gốc của Bảng Chữ Cái
Tác giả: John Boardlay
Người dịch: Thuy
Chữ viết là kết tủa, dạng rắn của ngôn ngữ. Nhưng còn hơn thế, đằng sau nguồn gốc, sự tiến hóa thì cách thức mà những con chữ được thêu dệt thành sản phẩm của một nền văn minh là một câu chuyện thật tuyệt vời. |
Đây là chuỗi bài viết cho bạn kiến thức về nguồn gốc của bảng chữ cái, từ sự hình thành những ký tự đầu tiên trên thế giới cho đến bảng chữ cái ngày nay mà chúng ta đang sử dụng. Phần đầu của câu chuyện, tôi sẽ đưa bạn đến với thế giới cổ xưa từ lúc bắt đầu của kiểu chữ tượng hình cho đến nền văn minh Etruscan.
Bảng chữ cái của chúng ta đến từ đâu?
Bạn có từng thắc mắc khi nhìn vào kí hiệu trên biển quảng cáo, bao bì, chữ viết trên sách vở, tạp chí; hay ngay lúc này đây khi bạn đang nhìn vào bài viết này – và tự hỏi – bảng chữ cái Latin này từ đâu mà có và từ đâu mà nó đã phát triển thành bảng chữ cái phong phú và phổ biến nhất thế giới? Typography – nghệ thuật và kỹ thuật sắp xếp con chữ- là một phát minh gần đây. Nhưng để thật sự khai thác hết nguồn gốc của con chữ, chúng ta cần quay về thật xa ở quá khứ, đến thời đại cùng với sự xuất hiện đầu tiên của nền văn minh nông nghiệp.
Robert Bringhurst đã ví von: “Chữ viết là kết tủa, dạng rắn của ngôn ngữ. Nhưng còn hơn thế nữa, đằng sau nguồn gốc, sự tiến hóa thì cách thức mà những con chữ được thêu dệt thành sản phẩm của một nền văn minh là một câu chuyện thật tuyệt vời.”
Câu chuyện cách đây khoảng hơn 5,000 năm trước, vậy nên chúng ta sẽ phải đi thật xa về quá khứ để gặp một vị hoàng đế vô cùng anh minh – Yorkshire, nàng công chúa Jezebel xứ Phoenician và bộ tộc “người tím”, bạn sẽ phải băng qua sa mạc, gặp những đồng bằng phì nhiêu và đi thuyền xuyên qua đại dương, đi qua thời Trung Cổ và cả thời Phục Hưng, như vậy chúng ta sẽ đặt chân đến và khám phá nơi bảng chữ cái của chúng ta bắt đầu để giải đáp câu hỏi làm thế nào và tại sao nó lại phát triển được như ngày hôm nay, và cả những câu hỏi tại sao khác, ví dụ tại sao chữ A lại là A?
Bảng chữ cái của người Sumer _ Cuneiform (chữ hình nêm)
Người Sumer đã bắt đầu những thử nghiệm đầu tiên với chữ viết vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên (TCN) ở Lưỡng Hà – vùng đất giữa sông Tigris và Euphrates (gần Iran ngày nay). Giống như hầu hết các hệ thống chữ viết, Cuneiform ban đầu được viết bằng cách chạm khắc, sau đó là viết lên những cục đất sét mềm, bắt đầu dưới dạng một loạt các biểu tượng – những hình ảnh đại diện cho chữ viết. Ví dụ từ Chim đầu tiên xuất hiện là hình ảnh đơn giản của một con chim. Hình bên dưới thể hiện cho chúng ta thấy được quá trình của sự trừu tượng hóa hay hợp lý hóa này. Theo thời gian, từ tượng hình không chỉ mô tả sự vật mà còn thể hiện được âm thanh. Rõ ràng là những chữ tượng hình đại diện cho âm thanh đòi hỏi ít ký tự hơn là khi thể hiện một sự vật hay một ý tưởng. Chúng ta sử dụng 26 chữ cái (người La mã chỉ sử dụng 23 chữ cái để tạo ra những tài liệu xuất sắc nhất mà thể giới đã biết đến) trong khi Trung Quốc đã phải nghiên cứu hàng ngàn ký tự mới có thể làm được điều đó. Ngay cả chữ hình nêm (Cuneiform) ban đầu cũng gồm khoảng 1,500 biểu tượng. Kiểu chữ dùng hình ảnh hay đồ thị đại diện cho một sự vật hay ý mà mình nói đến cũng có lợi thể riêng đó là dù chúng ta có thể nói bất kỳ ngôn ngữ nào đi chăng nữa thì cách viết chúng ra vẫn giống nhau. Ví dụ như người Trung Quốc đến từ những tỉnh phía Nam có thể nói một phương ngữ khác hoàn toàn với người đến từ Bắc Kinh, khi không nghe hiểu ngôn ngữ của nhau họ vẫn có thể hiểu nhau thông qua chữ viết.
Hình ảnh nguồn gốc của chữ Cuneiform
Hình 2 là một ví dụ của chữ tượng hình Cuneiform, một trong những ví dụ sớm nhất của chữ viết mà chúng ta đã biết. Hình dạng của chữ Cuneiform là sự tồn tại giữa dạng thuần túy nhất của chữ tượng hình nhưng hình thức lại trừu tượng hơn. Hơn thế nữa, vì không có những hướng dẫn chuẩn hay dạng cố định nên những ký hiệu này thường được xoay để phù hợp với hướng người viết – một con chim sẽ vẫn là một con chim dù bị xoay 360 độ.
Chữ tượng hình Cuneiform. Chủ đề: khẩu phần rượu.
Trong khi ngôn ngữ của người Sumer dường như biến mất sau năm 2000 (TCN) nhưng ảnh hưởng từ hình thức chữ viết của họ (Cuneiform) vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Ngôn ngữ của người Sumer hầu hết đã được thay thế bằng ngôn ngữ của những người đã chinh phục Akkadia, tuy nhiên vẫn thông qua chữ viết Cuneiform của người Sumer. Mẫu chữ viết này đã được sử dụng cho đến tận thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên (sau CN). Hình 1.3 cho thấy cổ vật Cylus Cylinder với những dòng chữ được viết bởi Achaemenid vị vua của triều đại Cyrus, kể lại sự sụp đổ của Babylon năm 539 TCN (Daniel 5 trong Cựu Ước) của người Ba Tư do vua Cyrus dẫn đầu
Hình trụ Cyrus (hình nêm Akkadian) thế kỷ 6 TCN. Phòng trưng bày: Phòng 55, Bảo tàng Anh quốc. © Ủy viên Bảo tàng Anh
Chữ Hy lạp – Chữ viết của Chúa trời
Người Ai Cập đã phát triển một hệ thống chữ tượng hình tương tự, một số hình ảnh trong chúng rất quen thuộc. Các bản khắc chữ Hieroglyphic (chữ khắc thiêng liêng), giống như chữ Cuneiform, chữ tượng hình của họ cũng bắt đầu bằng hình ảnh đơn giản, và sau đó dùng hình ảnh trừu tượng hơn để thể hiện âm thanh. Khi nhìn vào những hình dạng khác nhau của chữ tượng hình Ai Cập chúng ta có thể hiểu rõ hơn từ ngữ mà những hình ảnh trừu tượng muốn đề cập đến. Trong khi bạn có thể thấy quen thuộc với chữ tượng hình mà người Ai Cập khắc (nghệ thuật điêu khắc trên đá) tuy nhiên còn chúng còn có rất nhiều hình thức và kiểu dáng khác nữa – tất cả đều chịu ảnh hưởng từ môi trường chúng được viết ra, mục đích và đối tượng mà người viết hướng tới.
Chữ tượng hình Ai cập
Các biểu tượng của người Ai cập đã phát triển thành một kiểu chữ được gọi là hieratic (chữ thầy tu), loại chữ viết tự do hơn, được viết nhanh hơn và có nhiều chữ hoa hơn.
Chữ Hieratic nguyên bản ở triều đại thứ 12
Một kiểu chữ phát triển sau đó là demotic (ký tự cổ của người Ai cập), đại diện cho hình thức trừu tượng nhất của chữ tượng hình Ai Cập. Mặc dù chỉ được viết chủ yếu bằng mực lên giấy cói, ví dụ nổi bật nhất được tìm thấy trên một loại đá granite tên Rosetta. Đá Rosetta (196 TCN) được tìm thấy bởi các học giả khi họ du lịch đến Ai Cập cùng với Napoleon vào năm 1799, phát hiện này vô cùng quan trọng vì nó chính là chìa khóa để giải mã các chữ tượng hình Ai Cập cổ đại. Được viết bằng hai ngôn ngữ và ba kiểu chữ khác nhau: hai kiểu chữ chữ Ai Cập (Hieroglyphic và demotic) và với một bản dịch tiếng Hy Lạp.
Nguyên bản của kiểu chữ Demotic, thể kỷ III TCN
Bảng chữ cái đầu tiên -Wadi el-Hol
Cho đến khi phát hiện ra hai chữ khắc (graffiti – chữ khắc trên tường) ở Wadi el-Hol, Ai Cập vào năm 1999, người ta vẫn thường cho rằng sự bắt đầu của bảng chữ cái có thể được bắt nguồn từ khoảng 1600 đến 1500 TCN thuộc về người Phoenician, một tộc người thương nhân sống ở bờ biển Lebanon và Israel ngày nay. Tuy nhiên, phát hiện năm 1999 cho thấy, thay vì bảng chữ cái Semitic đầu tiên xuất hiện ở Syria-Palestine, nó đã được phát triển trước đó bởi những người nói tiếng Do Thái sống ở Ai Cập. Điều này tăng cường thêm vào giả thuyết có mối quan hệ chặt chẽ giữa chữ viết của Ai Cập và ảnh hưởng của chúng đối với bảng chữ cái Semitic hay bảng chữ cái proto-Sinaitic. Hơn nữa, nó đưa nguồn gốc của bảng chữ cái trở lại vào giữa năm 1900 đến 1800 TCN.
Trong bức ảnh điêu khắc từ Wadi el-Hol bên dưới, dấu hiệu được đánh dấu bằng màu cam là ký hiệu một đầu bò (thuộc giống đực) – nguồn gốc của chữ A Latin, và một lá thư có lịch sử lâu dài – chữ tượng hình Cuneiform của người Sumer ban đầu cũng sử dụng đầu bò như một dấu hiệu.
Hình điêu khắc 1 từ Wadi el-Hol.
Vào khoảng năm 1600 TCN, tại khu vực của hai hệ thống chữ viết đang thống trị thời đó, Cuneifform (chữ hình nêm của người Sumer) và chữ tượng hình Ai Cập, chúng ta lại thấy sự xuất hiện của bảng chữ cái có hệ thống khác như bảng chữ cái ugaritic (thế kỷ 14TCN) mà đã phát triển đến ngày nay tại Syria. Chữ ugaritic sử dụng 30 ký hiệu chữ hình nêm đơn giản. Và do đó, bắt đầu câu chuyện của bảng chữ cái.
Mẫu tự Abecedary từ Ugarit
Proto Sinaitic
Đồng thời khi chữ ugaritic tồn tại ngắn ngủi đang được phát triển (một bảng chữ cái được chỉnh sửa từ chữ hình nêm), hệ thống bảng chữ cái khác bị ảnh hưởng bởi chữ tượng hình Ai Cập đã xuất hiện. Bảng chữ cái nguyên âm proto-Sinaitic này là chữ tượng hình, tuy nhiên mỗi hình ảnh lại tượng trưng cho âm thanh chứ không phải sự vật hay ý tưởng. Bảng chữ cái proto-Sinaitic thực sự là một điểm xuất phát, gốc rễ của bảng chữ cái hiện đại ngày nay, từ tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái cho đến tiếng Hy Lạp và cả Latin.
Chữ proto-Sinaitic, năm 1500 TCN
Lưu ý sự khác biệt giữa các dấu hiệu của bảng điêu khắc 1 tại Wadi el-Hol (hình 3.1), và các chữ viết proto-Sinaitic nguyên thủy (hình 4.1). Chữ thứ hai chỉ trừu tượng hơn một chút. Đặc biệt là A (đầu bò), có một đường đơn giản (ít nét hơn). Lưu ý con số thanh đơn giản liên tưởng đến một người cầu nguyện. Cắt thân và đầu, xoay phần còn lại, và bạn sẽ thấy nó là nguồn gốc của chữ Latin E:
Sự tiến hóa của chữ E
Nhưng làm thế nào và tại sao bảng chữ cái này lại phát triển thành một loạt các biểu tượng ngày nay? Mark-Alai Ouaknin, trong Mầu nhiệm của bảng chữ cái đã gợi ý rằng câu trả lời sẽ được tìm thấy trong quá trình chuyển đổi từ thuyết đa thần sang thuyết độc thần.
Điều thứ hai trong Mười điều giáo lệnh: “Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác. Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống như những vật trên trời cao kia, hoặc ở lòng đất hay sâu trong làn nước”. Điều cấm này đã buộc người Semites, người vẫn viết ngôn ngữ của họ bằng chữ tượng hình phải thoát ra khỏi chính hình ảnh đó.
Không thật sự thuyết phục. Khi mà cả hai chữ tượng hình Cuniform của người Sumer và chữ tượng hình của người Ai Cập đã phát triển từ các biểu tượng thành những dấu hiệu trừu tượng hơn. Cả hai nền văn minh vẫn đa thần trong suốt những triều đại chuyển tiếp đó. Do vậy, tôi nghĩ chủ nghĩa độc thần và việc cấm dùng các hình ảnh chạm khắc là không thể chịu trách nhiệm về sự phát triển của bảng chữ cái tượng hình proto-Sinaitic trở thành proto-hebraic và proto-Phoenician (hoặc proto-Canaanite). Có lẽ, trên thực tế, điều ngược lại mới đúng: Sử dụng những chữ cái trừu tượng đã gợi ra quan niệm về một Đức Chúa Trời trừu tượng đã ngăn cấm việc chạm khắc những hình ảnh – nhưng cho phép sử việc sử dụng các dấu hiệu trừu tượng thay thể.
Người Phoenicia – Bộ tộc người Tím
Chữ của người Phoenicia – cuối Thế kỷ 11 TCN
Bảng chữ cái của người Phoenicia có thể đã được phát triển nhanh chóng và dễ dàng để đọc những ghi chép của thương gia sẽ thực hiện chuyến đi của mình dọc theo các cảng Địa Trung Hải. Người Phoenicia giờ đây được biết đến với thần Baal khủng khiếp nhất, đã dùng trẻ em làm vật hiến tế trong lò đúc gang khổng lồ. Nhưng câu chuyện này là một phát minh vào thế kỷ 19, giống như hình ảnh gợi cảm của người Phoenicia trong tiểu thuyết lịch sử Salammbô của Flaubert. Người Phoenicia là những thương gia đã tạo nên một đế chế lỏng lẻo của các thành phố – bang dọc theo những bờ biển mà họ đã ghé thăm: Châu Phi, Tây Ban Nha và Sicily. Carthage có lẽ là thuộc địa nổi tiếng nhất của Phoenician. Điều này có được nhờ sự tăng lên của những con ốc sên mà ngày nay vẫn có thể tìm thấy trên bờ biển Li Băng, để dưới anh nắng mặt trời, có thể sử dụng để tạo ra màu tím – do đó người Hy Lạp đã gọi người Phoenician với tên khác là người Tím, và từ phoiniki có nghĩa là tím hay đỏ tía.
Trong lúc việc sáng tạo ra chữ viết riêng không thể tiến triển khi không có một nhà nước vững vàng và thậm chí độc đoán để lưu nó lại thì sự ra đời của bảng chữ cái hiện đại lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Trong chữ Cuneiform chúng ta có những chuyến phiêu lưu tuyệt vời của vua Gilgamesh và người bạn đồng hành Enkidu của mình, nhưng hầu hết các lưu khắc trên đất sét từ các thành phố nông nghiệp chỉ ra nhiều giá trị hơn thế, bao gồm: danh sách, thuế và các giao dịch thương mại.
Sự đơn giản và khéo léo của phụ âm trong bảng chữ cái hiện đại từ những dấu vết cuối cùng còn sót lại trên những biểu tượng đã bị xóa bỏ thực sự là một công cụ cho các thương gia thời xa xưa vì chúng dễ học, viết và thích ứng.
Đầu tiên, Moloch, vị vua kinh hoàng đẫm máu Trong sự hy sinh của những đứa trẻ, và những giọt nước mắt của cha mẹ; Mặc dù tiếng ồn ào của trống và Tiếng khóc của con cái của họ xuyên qua màng lửa Tới với thần linh đáng sợ của ông. – từ Thiên đường đã mất của Milton |
Bảng chữ cái Phoenician
Hy Lạp – khởi nguồn của nguyên âm
Mặc dù các chữ khắc Hy Lạp còn sót lại tồn tại từ thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên – những môn thể thao Olympic đầu tiên được tổ chức vào năm 776 TCN – nhiều học giả cho rằng người Hy Lạp đã áp dụng chữ Do thái của người phương Tây (bảng chữ cái phụ âm của người Phoenicia) trước đó ba thế kỷ. Trong một thời gian dài (ít nhất là cho đến khi nhận được sự chấp nhận rộng rãi chữ Ionia vào thế kỷ thứ tư TCN), chữ Hy Lạp đã không đi theo phương thức cố định nào, được viết từ trái sang phải, phải sang trái hay ngang theo cả hai chiều.
Boustrophedon từ tiếng Hy Lạp βουστροφηδόν “ox-turning” , là một loại văn bản hai chiều. Thay vì đi từ trái sang phải như trong tiếng Anh, hoặc sang trái như trong tiếng Hebrew và tiếng Ả Rập, thì chữ được viết theo dòng luân phiên và ta phải đọc theo các hướng ngược lại.
Giấy papyrus từ cây chỉ thảo (Artemisia) của người Hy Lạp, thế kỷ thứ 3 TCN, xem sách của Thompson, trang 119
Trong các văn tự Hy Lạp, chúng ta chứng kiến việc vứt bỏ các hình thức biểu trưng để ủng hộ các hình thức trừu tượng, tuyến tính. Dựa trên sự so sánh các bảng chữ cái của người Phoenician cuối cùng và các văn tự Hy Lạp cổ đại (và truyền thống Hy Lạp, ví dụ như Herodotus), người Hy Lạp đã chấp nhận hầu hết các dấu hiệu của chữ Phoenicia nhưng thêm vào các nguyên âm mà người Phoenicia đã loại bỏ.
Chữ Hy Lạp được phục hồi, thế kỷ 8 TCN
Văn minh Etruscan
Người Etruscan đến Ý từ Tây Ít Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ hiện tại). Từ khoảng năm 750 TCN, người Hy Lạp đến tận phía bắc của Naples, Ý. Finley viết về sự chìm đắm trong đam mê với mọi thứ của Hy Lạp – ngoại trừ sự ảm đạm về thế giới bên kia và thế giới ngầm đáng sợ.
Người Etruscans không chỉ chấp nhận và áp dụng theo phần lớn nghệ thuật và lễ nghi tôn giáo của người Hy Lạp, quan trọng nhất trong câu chuyện này chính là việc họ đã thừa nhận bảng chữ cái Hy Lạp. La Mã ngày nay có thể không có đến một thị trấn là người Etruscan nhưng các vị vua La Mã từng là những người Etruscan. Sau cuộc tấn công thảm khốc trên thuộc địa của Hy Lạp cổ xưa nhất Cumae (địa danh xinh đẹp nằm trên một ngọn đồi cao trên bờ biển, mười dặm về phía bắc của Napoli) năm 524 trước Công nguyên, và việc trục xuất sau đó của nhà vua Etruscan đế quốc La Mã và nền văn minh đang suy yếu của họ, Tarquinius Superbus. Trong vòng vài thế kỷ đất nước Cộng hòa La Mã đã làm chủ nước Ý và thu hút toàn bộ người Etruscan.
Mẫu tự Abecedary từ Marsiliana, Etruria, khoảng năm 700 TCN
Tuy nhiên, bảng chữ cái của họ tồn tại và thịnh vượng là nhờ vào sự lan tỏa của nó trên khắp thế giới cùng với việc mở rộng tìm kiếm thuộc địa trên toàn thể giới của đế chế La Mã hùng mạnh.
Tiếp nối câu chuyện về thời đại hùng mạnh của đế chế La Mã đã đưa kiểu chữ của người Hy Lạp ra toàn thế giới, chúng ta sẽ tiếp tục khám phá những câu chuyện lịch sử thú vị – gắn liền với sự phát triển mang tính cải cách hơn, thay đổi rõ nét hơn của những con chữ để hình thành bảng chữ cái như ngày nay.
Rustic capitals – chữ viết Thư pháp thời La Mã cổ đại
Tiếp nối chữ viết hoa của thời La Mã (được bảo quản trên bệ của cột chiến thắng – Traianus (114 sau CN), các kí tự đã phát triển thành những chữ viết thư pháp tự do với những đường nét mỏng hơn – mang tên Rustic capital.
Chữ Rustic capitals , khoảng thế kỷ thứ IV
Kiểu chữ Uncial và Half-Uncial – sự hình thành kiểu chữ thường – “lowercase”
Hầu hết văn bản dĩ nhiên được viết trên giấy cói – papyrus và trên tường, không chú trọng hình thức và thực hiện nhanh chóng.
Chữ thảo – cursive là mẫu tự mà Martialis đã đọc to bài thơ của mình cho bạn bè vào ban đêm. Đây là mẫu chữ có thể ghi lại nhanh chóng bằng một cây bút nhúng mực. Cách viết chữ ‘cũ’ khó đọc nhưng lại có nhiều thay đổi ‘mới’, đã phát triển từ thế kỷ thứ IV trở đi giống như là một kiểu chữ viết tay. Cách viết này đã sinh ra kiểu chữ nhỏ – Carolingian minuscule – là nguồn gốc sinh ra các loại chữ in ấn ngày nay.
Phát minh lớn thứ hai, codex – một loại sách chép tay, đã xuất hiện cùng lúc đó. Trong khi người Roma vẫn đang sử dụng cuộn giấy làm bằng lá cói, vào thế kỷ thứ IV người ta đã có ý tưởng cắt vải da thành từng miếng thuôn dài và may chúng lại với nhau – và ngẫu nhiên tạo ra sự tiếp cận đầu tiên về sách. Cùng với kiểu chữ có thể dễ dàng để đọc, đây hẳn là một trong những phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
Chữ Ông-xi-an, Pháp, thế kỷ thứ 7
Trái: kiểu chữ Insular, Anh, thể kỷ thứ VIII; Phải: kiểu chữ Visigothic, ở Đức và Pháp, thế kỷ thứ IX
Ở Pháp, thời vương triều Mêrôvê (cai trị nước Pháp từ năm 500 đến năm 751), kiểu chữ Visigothic tại bán đảo Iberia (hình 11.2), kiểu chữ Beneventan (hình 11.3) ở niềm Nam nước Ý (kiểu chữ này thể hiện nét đặc trưng của kiểu chữ Half-Uncial và chữ thảo của người La Mã sau này, ở Anh và Ireland thì có kiểu chữ dạng Insular
Kiểu chữ Beneventan, khoảng năm 1100
Triều đại Carolingian với kiến trúc Gothic – Một vị Hoàng đế và người Yorkshire.
Tác giả ẩn danh của tập thơ Carmen de carolo Magno đề cập đến Charlemagne được biết đến như “vị lãnh đạo đáng kính của châu Âu” và “cha đẻ của châu Âu”. Mặc dù có chút cường điệu, tầm ảnh hưởng của vua Charlemagne rất đáng kể và lâu dài, ông cũng đã thành công trong việc thống nhất hầu hết các nước Tây Âu lần đầu tiên kể từ Đế chế La Mã.
Là một vị vua bị ám ảnh bởi việc mang lại trật tự cho quốc gia đang mở rộng của mình nên ông đã tìm cách cải cách đất nước trong mọi lĩnh vực. Trong câu chuyện chúng ta đang nói đến, thì đóng góp quan trọng nhất ở đây là nỗ lực của ông trong cải cách chữ viết. Dừơng như mọi nỗ lực đều được thực hiện, ông đã mời một người Yorkshire tên là Alcuin từ xứ York làm việc cho mình. Alcuin đã nỗ lực để tìm ra sự rõ ràng và thống nhất của chữ viết. Những nỗ lực này cùng với sự hậu thuẫn của vua Charlemagne và Giáo hội, đã làm ra đời kiểu chữ nhỏ Carolingian minuscule (hay kiểu chữ Carolingian). Một số nguồn (ví dụ như Lettering: A Reference Manual of Techniques, trang 14) cho rằng Alcuin đã phát triển kiểu chữ Carolingian. Điều này không đúng, thay vào đó, Alcuin đã chọn nó như một kiểu chữ mẫu cho đế quốc.
Một cuốn sách đẹp, dễ đọc; phần đầu chữ (Ascender) và đuôi chữ (Descender) dài, cho phép ánh sáng giữa các dòng, các chữ cái rõ ràng và tròn với vài chữ ghép và mẫu chữ khác. Chữ Carolingian ban đầu ảnh hưởng một vài đặc điểm của kiểu chữ Half-Uncial La Mã (hình dạng “đầu chữ có chân” ở phần đầu chữ như b, d, h, và l, vào thế kỷ 11 chúng được thay thế bởi các hình tam giác, tương tự như chúng ta vẫn thấy ở nhiều kiểu chữ La Mã của thời kỳ ban đầu (nửa sau của nửa thế kỷ 15). Phần đầu và tròn của chữ a đã bị bỏ giống như những gì tìm thấy ở chữ Uncial ban đầu của người La Mã. Trong những bản thảo được viết tay, không khó để thấy chữ r với phần đuôi chữ.
Với sự hậu thuẫn của vua Charlemagne và Giáo hội, nhanh chóng lan rộng ra khắp châu Âu, và trở thành kiểu chữ của vô số vùng miền mà nó đi qua. Vào nửa cuối của thế kỷ thứ mười, chữ Carolingian du nhập đến Anh, thay thế mẫu chữ Insular cuối cùng; còn ở Tây Ban Nha nó đã thay thế cho kiểu chữ Visigothic.
Từ thế kỷ 12, chữ Carolingian với hình thức rõ ràng đã bị thay thế bởi chữ Gothic – đậm hơn, thu gọn hơn, góc cạnh, gạch nối bị loại bỏ và với hình thức khép kín. Như Delorez viết: “Đây là một trong số những bí ẩn của lịch sử”.
Nguyên nhân của việc thay thế chữ Carolingian bằng chữ Pregothic hay Gothicizing đã được thảo luận trong một thời gian dài và hầu như đã kết thúc mà không có bất kỳ lời giải thích nào được chấp nhận. – theo Derolez, trang 68. Có lẽ một phần đáp án có thể được tìm thấy trong kiến trúc thẩm mỹ mới Gothic – đã từng càn quét khắp châu Âu.
Bên trái: chữ Carolingian cũ, giữa năm 1033 và 1053, ở giữa: chữ Pregothic, giữa thế kỷ thứ 12, bên phải: chữ Gothic (Textualis Formata), giữa năm 1304 và 1321
Tất nhiên trong hình thức của cuốn sách chép tay chính thức là chữ Gothic, hay còn gọi là Textualis (chính xác hơn, Textualis Formata) mà sau này trở thành mẫu cho kiểu chữ được sử dụng để thiết lập 42 dòng Kinh Thánh của Gutenberg (khoảng năm 1455).
Bên trái: Tironian và chi tiết này từ bản thảo thế kỷ 14, được viết bằng chữ Textualis Formata. Ví dụ đầu tiên ở dòng đầu: Arbres et fleurs et ce que orne. Bên phải: chi tiết từ 42 dòng Kinh Thánh của Gutenberg (khoảng năm 1455). Chú ý tironian et trên dòng cuối cùng.
Từ đầu thế kỷ XII, ghi chú tironian viết tắt của “et” (vẫn còn được sử dụng ở Ailen cho đến ngày nay) bắt đầu thay thế ký hiệu e + t, hoặc “và”. Cách viết này vẫn không phổ biến cho đến khi chữ Humanist trở thành kiểu mẫu cho chữ La Mã đầu tiên.
La Mã – Khởi đầu của Typography
Công nghiệp in ấn và chủ nghĩa nhân văn thế kỷ XV có sự liên quan chặt chẽ, và vì các nhà triết học và nhà nghiên cứu nhân văn người Mỹ (theo nghĩa đen là “những người đam mê từ ngữ”, họ yêu thích Latin cổ điển) đã mang tiếng Latin cổ điển thành ngôn ngữ chung cho các lớp học của họ, không có gì ngạc nhiên khi các chữ cái La Mã đầu tiên của các máy in sớm nhất chỉ sử dụng 23 chữ cái của thời đại cổ điển. Chữ J đã được thêm vào bảng chữ cái sau đó. Bản in đầu tiên của chữ J có thể đã được làm ở Ý, đầu thế kỷ 16; mẫu đơn đầu tiên được viết sử dụng lần đầu tiên vào thời Trung Cổ, ở Pháp và Hà Lan. Chữ W là chữ cái không được biết trong chữ Latin nhưng lại được sử dụng thường xuyên trong ngôn ngữ bản địa của phương Tây. Vào thế kỷ 17 chữ W đã được thiết lập theo kiểu như 2 chữ V- VV, nhưng chúng ta cũng có thể thấy 2 chữ V đã được giảm cách viết và tạo thành chữ W.
Bên trái: chữ La Mã cổ đại của Sweynheim & Pannartz, ở La Mã, năm 1469. Bên phải: kiểu chữ Jenson, ở Venice, năm 1472.
Chúng ta đang đứng ở thế kỷ thứ XVII, khoảng 5,000 năm sau khi người Sumer lần đầu đặt bút viết lên đất sét. Giờ đây ta đã có bảng chữ cái kép với 26 chữ cái, cả dạng chữ viết hoa và viết thường.
Khó có một đường thẳng để nhìn vào lịch sử của bảng chữ cái. Không có sự phát triển của học thuyết Darwin cũng không có sự chọn lọc tự nhiên “Sự sống sót thuộc về những người thích nghi tốt nhất” ở đây. Nhiều kiểu chữ được kể ở trên đây đã phát triển song song, một số biến mất và một số xuất hiện lại, một số có thể được chứng minh là sản phẩm từ trí óc con người như Alcuin ở xứ York. Và chúng ta không thể biết được là điều gì sẽ xảy ra nếu Hannibal hành quân thẳng tới La Mã sau khi chiến thắng trong trận Cannae thay vì la cà quanh quẩn.
Đặt các mảnh ghép lại với nhau
Các văn bản và bảng chữ cái phát triển vì nhiều lý do. Chúng ta có thể giải thích quá trình chuyển đổi từ chữ tượng hình sang các nét mảnh khảnh, hình thức trừu tượng hơn về mặt hợp lý hóa. Hơn nữa, những thay đổi về quốc gia và dân tộc phát triển, thành công của họ một phần là do các yếu tố chính trị và địa lý-chính trị: Kẻ xâm lược thắng trận sẽ mang theo văn hóa của nó và nước bị xâm chiếm, bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói và cả chữ viết.
Bối cảnh cũng là một yếu tố quan trọng: Suy ngẫm về hành động của các bị hoàng đế từ văn bản khác so với những hình ảnh từ vết trầy xước trên những bức tường ở nhà chứa tại Pompeii. Bề mặt dùng để viết hay vật liệu viết, cho dù là đất sét, đá, viên sáp, gỗ, kim loại, giấy cói, giấy da dê hoặc da cừu, những vật liệu viết như cây sậy, cây đũa, cây bút chì, cây những cây bút chấm mực – tất cả đều ảnh hưởng đến hình dạng của bảng chữ cái.
Tốc độ của bàn tay cũng là một yếu tố trong số đó. Hãy thử viết ra bảng chữ cái in hoa như là một bài tập thú vị.
ABCDEFGHIJKLMNOPQRSTUVWXYZ
Viết các chữ cái chậm và thong thả – mang lại cảm giác an tâm trong đôi tay của bạn. Bây giờ hãy viết lại những con chữ với tốc độ gấp đôi thật nhiều lần, cuối cùng, hãy viết nhanh nhất có thể. Tay bạn đã sẽ quen với việc giảm lại các nét viết và ít nhấc bút lên hơn. Những kiểu chữ cái gọn gàng ban đầu giờ đây trở nên tự do hơn hơn. Sau đó phát triển kiểu chữ viết tay này, viết lại những cách viết nhanh nhất của từng chữ trong bảng chữ cái một cách hợp lý, điều chỉnh tỷ lệ các chữ, chỉnh lại những chữ bị mâu thuẫn và kết quả tạo ra một kiểu chữ mới.
Tóm tắt sự ra đời của chữ A
Tôi đã tập trung vào hệ thống chữ viết đã đóng góp vào sự phát triển sau này của chữ Latin, nhưng dĩ nhiên câu chuyện về chữ cái sâu và rộng hơn rất nhiều. Tôi vẫn chưa đề cập đến những hệ thống chữ cái phát triển độc lập (như chữ Trung Quốc hay chữ Nhật), và các những bảng chữ cái đã bị biến mất do chữ proto-Sinaitic và Phoenician như tiếng Hy Bá Lai hay Ả Rập. Sự phát triển của bảng chữ cái không thể đánh giá đầy đủ (thậm chí là thấu hiểu) một cách độc lập được. Câu chuyện của nó được thêu dệt sâu vào lịch sử qua những nền văn minh cổ xưa, con đường của nó còn bị dẫn dắt bởi chính trị, tôn giáo, kinh tế, và bởi vô số các nhân tố khác. Vì vậy, khi lần tiếp theo bạn đặt bút lên giấy viết hay đặt tay gõ trên bàn phím, hãy dành chút thời gian để suy nghĩ về nguồn gốc của những ký hiệu, các ký tự đơn giản nhưng mang lại một năng lực đáng kinh ngạc – năng lực mô tả tất cả mọi thứ – và công cụ giao tiếp tuyệt vời nhất nhân loại.
Từ khóa » Chữ Cổ Hy Lạp được Tìm Thấy ở đâu
-
Tiếng Hy Lạp - Wikipedia
-
Bảng Chữ Cái Hy Lạp – Wikipedia Tiếng Việt
-
[PDF] ⅠVăn Minh Cổ đại 1. Sự Phát Sinh Của 4 Nền Văn Minh Cổ đại Lớn
-
Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ - Báo Tuổi Trẻ
-
Tiếng Hy Lạp Cổ đại - Wikiwand
-
Vì Sao Bảng Chữ Cái Hy Lạp được đặt Tên Biến Thể COVID-19 - SBS
-
Những Phát Hiện Khảo Cổ ấn Tượng Nhất Thế Giới
-
Các Thành Phố Của Hy Lạp Cổ Đại Mà Bạn Không Nên Bỏ Lỡ
-
Giải Mã Các Quái Vật Trong Thần Thoại Hy Lạp - BBC News Tiếng Việt
-
[PDF] LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
-
Tìm Thấy Bộ Sưu Tập Tiền Vàng La Mã Cổ Lớn ở Châu Âu
-
Nguồn Gốc Của Bảng Chữ Cái (Phần 1) - IDesign
-
CÂU CHUYỆN CHỮ VIẾT - Lien Hiep Hoi Phu Yen
-
19/07/1799: Phiến đá Rosetta được Tìm Thấy - Nghiên Cứu Quốc Tế