NGUỒN GỐC ĐỜI SỐNG ĐAN TU (phần I) - Dòng Xitô Thiên Phước

Hai tiếng ‘đan tu’ dễ tạo nên cảm giác xa lạ với thế giới hôm nay, đồng thời dễ hình dung đến một lối tu khắc khổ, khép kín với mọi người. Phải chăng đời sống đan tu là như vậy ? Để có cái nhìn chính xác về đời sống đan tu trong Giáo Hội, ta sẽ tìm hiểu lối sống này qua dòng thời gian.

Đời sống đan tu nói riêng và đời sống tu trì nói chung, là một lối sống mà công đồng Vaticanô II gọi là theo Chúa Kitô (Sequela Christi). Lối sống này họa lại đường nét, hình ảnh của Chúa Kitô ở trần gian, và để tận hiến cho Chúa Kitô bằng một con tim không chia sẻ (1Cr 7, 34). Nhưng lối sống này không có nguồn gốc rõ ràng trong Kinh Thánh. Kinh Thánh không hề nói đến đời sống tu trì, mà chỉ nói đến hình ảnh một người thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu : “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời” (Mt 19, 16), và Chúa Giêsu trả lời : “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21).

Từ câu chuyện này đã khơi lên trong lòng nhiều người ước muốn sống trọn lành, và cũng từ câu chuyện này mà “từ những thế kỷ đầu đã có nhiều tâm hồn dám bỏ tất cả để đi tìm một lối sống đặc biệt, xa cách thế giới bên ngoài qua việc tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, tự nguyện theo Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát… trong số đó có những tâm hồn được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đã chọn cho mình nếp sống cô tịch trong sa mạc” (Vat II, Sắc lệnh canh tân thích nghi dòng tu, số 1). Thực ra đời sống trọn lành không phải là ơn gọi dành riêng cho một số người hay một nhóm người nào, nhưng là ơn gọi chung cho tất cả mọi kitô hữu. Vì Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Như vậy, sống trọn lành hay nên thánh là một ơn gọi và là bổn phận của mọi kitô hữu.

1. Những Mẫu Gương Từ Kinh Thánh.

Tuy không trực tiếp nói về đời tu, nhưng Kinh Thánh cũng có những hình thức, những lối sống hé mở một lối tu mà ít nhiều có ảnh hưởng đến đời sống tu trì trong Giáo Hội sau này. Chẳng hạn, trong Cựu Ước có trường hợp của tiên tri Êlia (1V 17, 2-6), ông được coi như mẫu gương của đời chiêm niệm. Các nhà ẩn sĩ thường qui chiếu về ông và xem ông như mẫu gương của đời sống đức tin. Do đó, Êlia trở nên gương mẫu cho đời sống thiêng liêng của họ. Thánh Ambrosio xem Êlia như bậc tôn sư, còn các đan sĩ thuộc hàng đệ tử.

Ngoài ra còn còn có Êlisê môn đệ của Êlia (2V 2, 25; 2V 4, 25), cũng một thời sống ẩn dật trong sa mạc, một hình thức tu; hay các ngôn sứ như Amốt, Hôsê, Giêrêmia… cuộc sống của các ngài cũng phần nào loan báo cuộc sống của các đan sĩ khi lý tưởng hoá cuộc sống trong sa mạc.

Hay trong Tân Ước vào thời các tông đồ có các tín hữu ở Giêrusalem mà quen gọi là cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi (Cv 2, 42-44). Nét nổi bật của cộng đoàn này là : sống chung, để tất cả của cải làm của chung, và nhất tâm phụng thờ Thiên Chúa. Những chương đầu sách Công Vụ đã minh chứng điều này : “Họ chỉ có một lòng một ý” (Cv 4, 32). Đây là nền tảng là đặc nét làm nên đời sống đan tu nói riêng và đời sống tu trì kitô giáo nói chung. Tất cả các dòng tu sau này trong Giáo hội đều lấy cộng đoàn này làm khuôn mẫu.

Sau cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi thì nổi lên phong trào ẩn tu. Đó là những tâm hồn được Chúa thúc đẩy và muốn rút mình ra khỏi cuộc sống xô bồ ôn ào náo nhiệt, để đi tìm một nơi thanh vắng nơi rừng núi, hang động trong sa mạc để sống với Chúa.

2. Thánh Antôn:

Nói về đời sống ẩn tu phải kể đến là thánh Antôn (251-356), hay còn gọi là thánh Antôn tu rừng. Thực ra trước thánh Antôn đã có những người sống đời ẩn tu Phaolô thành Thèbes (234-347), nhưng thánh Antôn được coi như “nhà ẩn sĩ tiên khởi” (thánh Hieronimo), vì thánh Antôn có tầm ảnh hưởng lớn trên đời sống đan tu, và thánh Athanasio gọi thánh Antôn là “cha đẻ ra nếp sống đan tu Kitô giáo”. Theo thánh Athanasio, thánh Antôn được Chúa kêu gọi vào lúc 20 tuổi. Trong một buổi cầu nguyện, thánh nhân được Chúa lôi kéo qua câu Tin mừng : “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh rồi đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21). Được Lời Chúa thúc đẩy, thánh Antôn đã làm theo Lời Chúa dạy và thực sự đã trở nên nghèo. Cái nghèo của ngài không phải là nghèo về sở hữu, là có ít hoặc không có, vì ngài sở hữu một gia tài khá lớn từ cha mẹ ngài để lại; nhưng ngài trở nên nghèo ngay trong hiện hữu : chẳng những không có (của cải đã đem cho người nghèo), nhưng còn không muốn có. Đây là cái nghèo mà người đan sĩ bằng mọi giá phải đạt cho bằng được. Họ trở nên nghèo, sống nghèo không phải vì không có của cải, nhưng là muốn thoát ly khỏi những ràng buộc, những lệ thuộc của vật chất để sống hết mình cho đức ái. Thánh Antôn là người đầu tiên đã khai mở ra một con đường, một lối sống đã có sức cuốn hút biết bao tâm hồn thành tâm thiện chí muốn sống với Chúa trong cô tịch và thanh vắng, đã dám từ bỏ những tiện nghi vật chất để phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch.

Điều đánh động và ảnh hưởng nhất của thánh Antôn trên đời sống đan tu là “bắt chước Chúa Kitô” và “theo Chúa Kitô”. Người đan sĩ không tìm Thiên Chúa trong cô độc, nhưng hiệp nhất với anh em mình. Họ càng đi vào cô tịch, càng đi vào tương quan một cách huyền nhiệm với Thiên Chúa và tha nhân. Kiên nhẫn cầu nguyện với Chúa Giêsu là phương thế hữu hiệu nhất của người đan sĩ để chống lại ma quỷ và xác thịt. Sau thánh Antôn thì phong trào sống ẩn tu càng phát triển mạnh hơn.

3.Phong Trào Ẩn Tu Sau Thánh Antôn.

Đời sống ẩn tu bấy giờ đã có những đổi mới, thay vì mỗi người sống riêng lẻ như thánh Antôn, thì nay có một sự ràng buộc, liên kết tối thiểu nào đó giữa những người cùng chung lý tưởng với nhau trong một vùng một miền nào đó để giúp mọi người an tâm tìm Chúa. Vì thế, người ta tạo ra những tổ chức sinh hoạt tối thiểu như lò bánh mì, nhà nguyện để họp ngày thứ bảy và chủ nhật… những tổ chức này đưa người ẩn sĩ tới chỗ gần nhau hơn, có sự liên đới tương trợ lẫn nhau và nâng đỡ nhau trong ơn gọi.

Các nhà ẩn sĩ thường chọn cho mình một vị cao niên để làm vị linh hướng. Vì thế, tuy không sống chung, nhưng vị cao niên này rất có ảnh hưởng trên các nhà ẩn sĩ khác, họ thực sự là những bậc thầy, những nhà tu đức. Nổi danh nhất là thánh Sabba, thánh Hilarion… Đời sống ẩn sĩ có những đặc điểm sau đây:

– Cầu nguyện không ngừng : trong khi làm việc chân tay, các ẩn sĩ không ngừng cầu nguyện bằng những lời nguyện tắt.

– Sống khắc khổ, chay kiêng, đánh tội.

Thật đáng khâm phục về nếp sống từ bỏ của các nhà ẩn sĩ với những hy sinh, khổ chế của họ. Tuy nhiên, bên cạnh những điều tốt của nếp sống này, ta cũng dễ nhận ra những điều không tốt cho đời sống hoàn thiện. Đó là lối sống lập dị. Vì không có luật chung, không có bề trên, nên mỗi người tự tạo cho mình một lối sống riêng với những sinh hoạt riêng theo sở thích của mình. Bên cạnh đó còn có tính ganh đua, muốn nổi danh, nên có những lối hãm mình, chay kiêng nhằm phô trương. Đây là điều không tốt cho đời sống thiêng liêng, và đó cũng là cửa ngõ cho ma quỷ xen vào. Bên cạnh những điều nói trên, còn có một mối nguy khác đó là sự chán nản. Cuộc sống đơn điệu, cô đơn cũng dễ làm cho người ẩn sĩ chán nản, mất dần lòng nhiệt huyết ban đầu; hoặc cố gắng quá trong việc hành xác dẫn đến suy nhược tinh thần và thể xác… và còn những bất toàn khác nữa dễ đưa người ẩn sĩ đến chỗ bỏ cuộc.

Tuy có những bất toàn trong lối sống này, nhưng đây đã là khởi đầu cho một lối tu mới có tổ chức tiến tới đời sống cộng đoàn, đời sống chung. Đây cũng là động lực làm cho đời đan tu xuất hiện.

(tiếp bài 2: Đời sống đan tu chính thức xuất hiện).

Emmanuel Triệu Vĩnh

Từ khóa » đan Tu Là Gì