Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Triết Học

Mục lục bài viết

  • 1 1. Lý luận là gì?
  • 2 2. Thực tiễn là gì?
  • 3 3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học:

1. Lý luận là gì?

Lý trí là khả năng áp dụng logic một cách có ý thức bằng cách rút ra kết luận từ thông tin mới hoặc thông tin hiện có, với mục đích tìm kiếm sự thật. Nó gắn liền với các hoạt động đặc trưng của con người như triết học, khoa học, ngôn ngữ, toán học và nghệ thuật, và thường được coi là khả năng phân biệt mà con người sở hữu. Lý trí đôi khi được gọi là tính hợp lý.

Lý trí gắn liền với các hành vi suy nghĩ và nhận thức, và liên quan đến việc sử dụng trí tuệ của một người. Lĩnh vực logic nghiên cứu các cách thức mà con người có thể sử dụng lý luận chính thức để đưa ra các lập luận hợp lý về mặt logic. Lập luận có thể được chia thành các dạng lập luận logic, chẳng hạn như: suy luận suy luận, suy luận quy nạp và suy luận tổng hợp. Aristotle đã rút ra một sự khác biệt giữa lý luận diễn đạt logic (lý do thích hợp) và lý luận trực giác, trong đó quá trình suy luận thông qua trực giác – dù có giá trị đến đâu – có thể nghiêng về phía cá nhân và chủ quan không rõ ràng. Trong một số bối cảnh xã hội và chính trị, các phương thức lập luận logic và trực quan có thể mâu thuẫn với nhau, trong khi trong các bối cảnh khác, trực giác và lý trí chính thức được coi là bổ sung cho nhau hơn là đối nghịch. Ví dụ, trong toán học, trực giác thường cần thiết cho các quá trình sáng tạo liên quan đến việc đạt được một chứng minh chính thức, được cho là khó nhất trong các nhiệm vụ lập luận chính thức.

Lý trí, giống như thói quen hoặc trực giác, là một trong những cách mà tư duy chuyển từ ý tưởng này sang ý tưởng có liên quan. Ví dụ, lý trí là phương tiện mà các cá nhân có lý trí hiểu được thông tin cảm tính từ môi trường của họ, hoặc khái niệm hóa các phân đôi trừu tượng như nguyên nhân và kết quả, chân lý và giả dối, hoặc các ý tưởng liên quan đến khái niệm thiện hay ác. Lý luận, là một phần của quá trình ra quyết định hành pháp, cũng được xác định chặt chẽ với khả năng tự thay đổi một cách có ý thức, về mục tiêu, niềm tin, thái độ, truyền thống và thể chế, và do đó với khả năng tự do và tự quyết định.

Trái ngược với việc sử dụng “lý do” như một danh từ trừu tượng, lý do là một sự cân nhắc được đưa ra nhằm giải thích hoặc biện minh cho các sự kiện, hiện tượng hoặc hành vi. Lý do biện minh cho quyết định, lý do hỗ trợ giải thích các hiện tượng tự nhiên; các lý do có thể được đưa ra để giải thích các hành động (ứng xử) của các cá nhân.

Sử dụng lý do, hay lý lẽ, cũng có thể được mô tả một cách đơn giản hơn là đưa ra những lý do chính đáng hoặc tốt nhất. Ví dụ: khi đánh giá một quyết định đạo đức, “đạo đức, ít nhất, là nỗ lực hướng dẫn hành vi của một người bằng lý trí – nghĩa là, làm những gì có lý do tốt nhất để làm – trong khi đưa ra trọng lượng cho lợi ích của tất cả những người bị ảnh hưởng bởi những gì một người làm.”

Các nhà tâm lý học và nhà khoa học nhận thức đã cố gắng nghiên cứu và giải thích cách mọi người lập luận, ví dụ: các quá trình nhận thức và thần kinh nào được tham gia, và các yếu tố văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến các suy luận mà mọi người rút ra. Lĩnh vực lý luận tự động nghiên cứu cách lý luận có thể được mô hình hóa một cách tính toán. Tâm lý học động vật xem xét câu hỏi liệu động vật khác với con người có thể suy luận hay không.

2. Thực tiễn là gì?

Thực hành triết học, một nhánh của triết học hiện đại, sử dụng triết học như một phương tiện để đặt ra, phân tích và giải quyết các vấn đề thế giới quan được xác định trên cơ sở nhu cầu tinh thần của khách hàng. Nhiệm vụ của một nhà thực hành triết học là nâng cao các vấn đề riêng tư của thân chủ lên tầm triết học, thực hiện với họ một sự suy ngẫm triết học về những vấn đề này với mục tiêu mở rộng ranh giới trong thế giới quan của thân chủ. như một quy luật, các mảnh vỡ của các tác phẩm triết học được sử dụng để phản ánh triết học.

Trái ngược với liệu pháp tâm lý trong việc phân tích nhân cách của thân chủ, thực hành triết học dựa trên các nguyên tắc bản thể học của triết học hiện sinh, thay vì dựa trên các đặc điểm y sinh học hoặc tâm lý học.

Phạm trù cơ bản trong lí luận nhận thức Mác – Lênin cho rằng thực tiễn là: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận nhận thức”.

Cũng dựa theo triết học Mác – Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học. Triết học Mác khẳng định: “Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội”.

3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học:

Trong quá trình hoạt động để phát triển và tồn tại thì để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của mình về thế giới con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu đó để nhằm mục đích cải biến thế giới. Các nhà khoa học đã phân sự hiểu biết của con người dựa trên các cấp độ khác nhau để đo lường chúng.

Kinh nghiệm được xem là cấp độ thấp của nhận thức. Vậy kinh nghiệm được hiểu theo một cách đơn giản nhất đó chính là việc con người có nhận thức này sẽ hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Đến cuối cùng thì tri thức kinh nghiệm là kết quả đạt được của nhận thức kinh nghiệm. Từ đó các nhà kho học đã phân chia tri thức kinh nghiệm thành hai loại: tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.

Sự không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau của thực tiễn và lý luận đã thể hiện được sự tống nhất giữ chúng. Trong quá trình tác động lẫn nhau thì thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lí luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Như đã khẳng định ở trên là thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức. Tai sao lại được nhận định như vậy là vì:

Thực tiến được con người dùng để liên hệ vói thế giới bên ngoài, bởi bì thế giới khách quan bên ngoài chỉ được nhận thức khi thông qua hoạt động thực tiễn. Bởi vì những nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận thức đều được thực tiễn đề ra và nó được xác định là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức.

Những nhu cầu khách quan mà còn người tạo ra đó chính là cải tạo thế giới và phải giải thích. Chính nhu cầu này mà bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời sẽ làm cho sự vật biến đổi và vận động qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp con người nhận thức được bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới. Dựa vào đó để con người có thể hình thành các lý luận và lý thuyết kho học nhất định. Đó chính là sự thống nhất giữ lý thuyết và thực tiễn.

Từ những điểm trên, chúng ta cần quán triệt những điểm vận dụng sau :

Một là, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.

Hai là, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn.

Ba là, phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.

Trong thực tiễn thì hoạt động cơ bản, đầu tiên của nó đó chính là hoạt động sản xuất. Trong hoạt động này con người sử dụng những phương tiện thích hợp tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Từ đó, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.

Những hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển thì được gọi chung lại thành hoạt động chính trị xã hội. Đây là những hoạt động làm cải biến mối quan hệ xã hội, làm thay đổi các chế độ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.

Từ khóa » Suy Lý Là Gì Triết Học