Nhà Nước Palestine – Wikipedia Tiếng Việt

"Palestine" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem Palestine (định hướng).
Nhà nước Palestine
Tên bằng ngôn ngữ chính thức
  • دولة فلسطين(tiếng Ả Rập)Dawlat Filasṭīn
Quốc kỳ Quốc huy
Bản đồ
Vị trí của Palestine
Vị trí của Palestine
Vị trí của Palestine trên thế giới
Vị trí của Palestine
Vị trí của Palestine
Vị trí của Palestine
Quốc ca
"فدائي""Fida'i""Hiến thân tự nguyện"
Hành chính
De jure: Cộng hoà nghị việnDe facto: Cộng hoà bán tổng thống[1]
Tổng thốngMahmoud Abbas
Thủ tướngMohammad Mustafa
Chủ tịch Hội đồng Quốc giaSalim Zanoun
Lập phápHội đồng Quốc gia Palestine
Thủ đôĐông Jerusalem(tuyên bố trên danh nghĩa - không kiểm soát trên thực tế)Ramallah(thành phố hành chính - thủ đô trên thực tế)
Thành phố lớn nhấtThành phố Gaza
Địa lý
Diện tích6020 km² 2,400 mi²
Diện tích nước3,5[2] %
Múi giờGiờ Đông Âu (UTC+02:00); mùa hè: Giờ mùa hè Đông Âu (UTC+03:00)
Lịch sử
Thành lập
11 tháng 11 năm 1988Tuyên bố độc lập
30 tháng 11 năm 2010Quốc gia quan sát viên phi thành viên LHQ
Đang xảy raChiến Tranh,Tranh chấp chủ quyền với Israel
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Ả Rập
Dân số ước lượng (2018)4.854.013 người (hạng 123)
Mật độ731 người/km²
Kinh tế
GDP (PPP) (2008)Tổng số: 11.95 tỷ USD (hạng -)Bình quân đầu người: 2.900 USD (hạng -)
GDP (danh nghĩa) (2020)Tổng số: 14.75 tỷ USD (hạng 123)Bình quân đầu người: - (hạng -)
HDI (2014)Tăng 0,677 trung bình (hạng 113)
Hệ số Gini (2009)35,5 trung bình (hạng -)
Đơn vị tiền tệ
  • Bảng Ai Cập (EGP)
  • Shekel mới Israel (ILS)
  • Dinar Jordan (JOD)[3]
Thông tin khác
Tên miền Internet.ps
Mã điện thoại+970

Palestine (tiếng Ả Rập: فلسطين‎, chuyển tự Filasṭīn), quốc hiệu chính thức là Nhà nước Palestine (tiếng Ả Rập: دولة فلسطين‎, chuyển tự Dawlat Filasṭīn) là một quốc gia có chủ quyền về mặt pháp lý tại khu vực Trung Đông[4][5], được đa số các thành viên Liên Hợp Quốc công nhận và kể từ năm 2012 thì có vị thế là nhà nước quan sát viên phi thành viên tại đây.[6][7] Nhà nước Palestine yêu sách chủ quyền đối với Bờ Tây (giáp Israel và Jordan) và Dải Gaza (giáp Israel và Ai Cập) cùng Đông Jerusalem là thủ đô.[8][9][10] Tuy nhiên, hầu hết các khu vực mà Nhà nước Palestine yêu sách chủ quyền đều đã bị Israel kiểm soát kể từ năm 1967 sau Chiến tranh Sáu ngày cho tới nay.[11] Nền độc lập của Nhà nước Palestine được Tổ chức Giải phóng Palestine tuyên bố vào ngày 15 tháng 11 năm 1988 tại Algiers với vị thế là một chính phủ lưu vong.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ thời kỳ Anh cai trị, thuật ngữ "Palestine" liên kết với khu vực địa lý mà nay bao gồm Nhà nước Israel, Bờ Tây và Dải Gaza.[12] Sử dụng tổng thể thuật ngữ "Palestine" hoặc thuật ngữ liên quan cho khu vực tại góc đông nam của Địa Trung Hải nằm bên Syria có lịch sử từ thời Hy Lạp cổ đại, Herodotus viết "huyện của Syria, gọi là Palaistine" tại đó người Phoenicia tương tác với các cư dân hàng hải khác trong tác phẩm The Histories.[13][cần dẫn nguồn]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Lịch sử Palestine

Năm 1947, Liên Hợp Quốc thông qua kế hoạch phân chia cho giải pháp hai nhà nước tại lãnh thổ uỷ trị Palestine. Kế hoạch được giới lãnh đạo Do Thái chấp thuận song các thủ lĩnh Ả Rập bác bỏ, còn Anh từ chối thi hành kế hoạch. Ngay trước khi Anh triệt thoái, Cơ quan Do Thái vì Israel tuyên bố thành lập Nhà nước Israel theo kế hoạch Liên Hợp Quốc đề xuất. Ủy ban Cao cấp Ả Rập không tuyên bố một nhà nước của mình, thay vào đó họ cùng với Ngoại Jordan, Ai Cập và các thành viên khác của Liên đoàn Ả Rập bắt đầu hành động quân sự dẫn tới chiến tranh Ả Rập-Israel 1948. Trong chiến tranh, Israel giành được thêm các lãnh thổ vốn được kế hoạch của Liên Hợp Quốc xác định là bộ phận của nhà nước Ả Rập. Ai Cập chiếm đóng Dải Gaza và Ngoại Jordan chiếm đóng Bờ Tây. Ai Cập ban đầu ủng hộ thành lập một chính phủ toàn Palestine, song từ bỏ vào năm 1959. Ngoại Jordan chưa từng công nhận chính phủ này, thay vào đó họ quyết định hợp nhất Bờ Tây vào lãnh thổ của mình để hình thành Jordan. Hành động sáp nhập được phê chuẩn vào năm 1950 song bị cộng đồng quốc tế bác bỏ. Trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, Ai Cập, Jordan, và Syria chiến đấu với Israel, kết quả là Israel chiếm đóng Bờ Tây và Dải Gaza, cùng các lãnh thổ khác.

Năm 1964, khi Bờ Tây còn do Jordan kiểm soát, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được thành lập với mục tiêu là đương đầu với Israel. Hiến chương Quốc gia Palestine của Tổ chức Giải phóng Palestine xác định biên giới của Palestine là toàn bộ lãnh thổ còn lại của lãnh thổ uỷ trị, kể cả Israel. Sau chiến tranh Sáu ngày, Tổ chức Giải phóng Palestine chuyển đến Jordan, song rời sang Liban sau sự kiện Tháng 9 Đen năm 1971.

Hội nghị thượng đỉnh Liên đoàn Ả Rập năm 1974 xác định Tổ chức Giải phóng Palestine là đại biểu hợp pháp duy nhất của nhân dân Palestine và tái xác nhận "quyền lợi của họ về thành lập cấp bách một nhà nước độc lập."[14] Trong tháng 11 năm 1974, Tổ chức Giải phóng Palestine được công nhận là đủ thầm quyền trên mọi vấn đề liên quan đến vấn đề Palestine khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc trao cho họ vị thế quan sát viên với tư cách một "thực thể phi quốc gia" tại Liên Hợp Quốc.[15][16] Sau Tuyên ngôn Độc lập năm 1988, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận tuyên ngôn và quyết định sử dụng định danh "Palestine" thay vì "Tổ chức Giải phóng Palestine" trong Liên Hợp Quốc.[17][18] Mặc dù vậy, Tổ chức Giải phóng Palestine không tham gia Liên Hợp Quốc với vai trò là chính phủ của Nhà nước Palestine.[19]

Năm 1979, thông qua Hiệp định Trại David, Ai Cập chấm dứt yêu sách của mình đối với Dải Gaza. Trong tháng 7 năm 1988, Jordan nhượng lại yêu sách chủ quyền của mình đối với Bờ Tây—với ngoại lệ là trách nhiệm giám hộ Haram al-Sharif—cho Tổ chức Giải phóng Palestine. Trong tháng 11 năm 1988, cơ quan lập pháp của Tổ chức Giải phóng Palestine tuyên bố thành lập "Nhà nước Palestine". Trong tháng sau, Nhà nước Palestine nhanh chóng được nhiều quốc gia công nhận, bao gồm Ai Cập và Jordan. Trong Tuyên ngôn Độc lập Palestine, Nhà nước Palestine được mô tả là được thành lập trên "lãnh thổ Palestine", song không nêu cụ thể hơn. Do đó, một số quốc gia công nhận Nhà nước Palestine trong tuyên bố công nhận của họ đề cập đến "biên giới năm 1967", do đó công nhận đó chỉ là lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng chứ không phải là Israel. Nhà nước Palestine khi trình đơn xin làm thành viên Liên Hợp Quốc cũng ghi rõ rằng họ dựa trên "biên giới năm 1967".[8] Trong các cuộc đàm phán Hiệp định Oslo, Tổ chức Giải phóng Palestine công nhận quyền tồn tại của Israel, và Israel công nhận Tổ chức Giải phóng Palestine là đại biểu của nhân dân Palestine. Từ năm 1993 đến năm 1998, Tổ chức Giải phóng Palestine cam kết thay đổi các điều khoản của Hiến chương Quốc gia Palestine không phù hợp với mục tiêu giải pháp hai nhà nước và cùng tồn tại hoà bình với Israel.

Sau khi Israel giành quyền kiểm soát Bờ Tây từ Jordan và Dải Gaza từ Ai Cập, họ bắt đầu lập các khu định cư Israel tại đó. Các khu này được tổ chức thành quận Judea và Samaria (Bờ Tây) và Hội đồng khu vực Hof Aza (Dải Gaza). Quyền cai quản cư dân Ả Rập trong các lãnh thổ này thuộc Chính quyền Dân sự Israel và các hội đồng tự quản địa phương tồn tại từ trước khi Israel chiếm cứ. Năm 1980, Israel quyết định đóng băng bầu cử cho các hội đồng này và thay vào đó lập ra các liên minh làng có các công chức chịu ảnh hưởng của Israel. Sau đó mô hình này trở nên không hiệu quả đối với cả Israel và người Palestine, và các liên minh làng bắt đầu tan vỡ, liên minh làng cuối cùng mang tên liên minh Hebron giải thể vào năm 1988.[20]

Năm 1993, trong Hiệp định Oslo, Israel thừa nhận đoàn đàm phán của Tổ chức Giải phóng Palestine là "đại biểu của nhân dân Palestine", đổi lại Tổ chức Giải phóng Palestine công nhận quyền tồn tại hoà bình của Israel, chấp thuận các nghị quyết 242 và 338 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, và từ bỏ "bạo lực và khủng bố".[21] Do đó, vào năm 1994 Tổ chức Giải phóng Palestine thành lập Chính quyền Dân tộc Palestine (PNA hoặc PA), thực thi một số chức năng chính phủ tại một số nơi của Bờ Tây và Dải Gaza.[22][23]

Theo hình dung trong Hiệp định Oslo, Israel cho phép Tổ chức Giải phóng Palestine thành lập các thể chế hành chính lâm thời trên các lãnh thổ Palestine, dưới hình thức PNA. Họ được giao quyền kiểm soát dân sự tại khu vực B và quyền kiểm soát dân sự và an ninh tại khu vực A, và duy trì không can thiệp vào khu vực C. Năm 2005, sau khi Israel thi hành rút quân đơn phương, Chính quyền Dân tộc Palestine giành quyền kiểm soát hoàn toàn Dải Gaza với ngoại lệ là biên giới, sân bay và lãnh hải. Năm 2007, Hamas chiếm Dải Gaza khiến người Palestine bị phân chia về chính trị và lãnh thổ, với phái Fatah của Abbas cai quản phần lớn Bờ Tây và được quốc tế công nhận là Chính quyền Palestine chính thức,[24] trong khi Hamas đảm bảo quyền kiểm soát đối với Dải Gaza. Trong tháng 4 năm 2011, các đảng phái Palestine ký kết một thoả thuận hoà giải, song việc thực hiện bị đình trệ[24]

Ngày 29 tháng 11 năm 2012, với đa số phiếu tán thành,[25] Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết 67/19, nâng cấp Palestine từ một "thực thể quan sát viên" thành một "nhà nước quan sát viên phi thành viên" trong hệ thống Liên Hợp Quốc, được mô tả là hành động công nhận chủ quyền của Tổ chức Giải phóng Palestine.[26][27][28]

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Dải Gaza có địa hình bằng phẳng hay gợn sóng, với các đụn cát gần bờ biển. Điểm cao nhất là Abu 'Awdah (Joz Abu 'Auda), với độ cao 105 mét trên mực nước biển. Địa hình Bờ Tây chủ yếu là vùng cao gồ ghề bị chia tách, có một số thực vật tại phía tây, song phía đông hơi khô cằn. Độ cao biến đổi từ bờ bắc của biển Chết là 429 m dưới mực nước biển,[29] đến điểm cao nhất trên núi Nabi Yunis đạt 1.030 m trên mực nước biển.[30] Khu vực Bờ Tây không giáp biển, là khu vực tiếp nước cho nước ngầm duyên hải của Israel.

Đồng bằng duyên hải Gaza gồm các đụn cát và trầm tích pha cát màu mỡ. Ngoại trừ một cát kết đá vôi xốp gọi là kurkar trong tiếng Ả Rập, không có đá nào khác trong khu vực. Trong khi đó, các núi thấp chiếm ưu thế tại Bờ Tây: núi Gerizim (881m), Nabi Samwil (890m), và núi Scopus (826m). Các đá chủ yếu bao gồm trầm tích biển (đá vôi và dolomit). Tính xốp của đá cho phép nước ngấm xuống địa tầng không xốp, rồi cung cấp nước cho nhiều tầng ngậm nước trong khu vực.[31]

Thung lũng Jordan là một đứt đoạn của hệ thống đứt đoạn Biển Chết, một phần kéo dài của Thung lũng tách giãn Lớn phân tách mảng châu Phi khỏi mảng Ả Rập. Toàn bộ đứt đoạn được cho là từng gãy nhiều lần, chẳng hạn như trong động đất năm 749 và năm 1033. Hụt trượt do sự kiện năm 1033 đủ để gây ra một trận động đất khoảng 7,4 Mw.[32]

Sông Jordan là sông lớn nhất tại Palestine, tạo thành biên giới phía đông của Bờ Tây cho đến khi đổ vào biển Chết. Báo cáo cho hay có tới 96% nước sạch sông Jordan bị điều hướng bởi Israel, Jordan và Syria, mặt khác lượng lớn nước thải chưa xử lý được cho chảy ra sông. Một báo cáo vào năm 2013 cho thấy rằng Israel thường từ chối để cư dân Palestine tại thung lũng Jordan tiếp cận sông.[33] Biển Chết là thực thể nước lớn nhất tại Palestine, còn thung lũng Marj Sanur tạo thành một hồ theo mùa.[34] Một số dòng chảy không thường xuyên, tiếng Ả Rập gọi là wadi, chảy vào sông Jordan hoặc biển Chết qua Bờ Tây, một số wadi chảy qua Israel vào Địa Trung Hải.

Khí hậu tại Bờ Tây chủ yếu là khí hậu Địa Trung Hải, mát hơn một chút tại các khu vực cao phía tây so với bờ biển. Tại phía đông, Bờ Tây bao gồm phần lớn sa mạc Judea trong đó có bờ biển phía tây của biến Chết, có đặc trưng là khô nóng. Gaza có khí hậu bán khô hạn nóng với mùa đông ôn hoà và mùa hè khô nóng.[35] Mùa xuân đến vào khoảng tháng 3-4, và tháng nóng nhất là tháng 6-7, với nhiệt độ trung bình là 33 °C. Tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ thường là 7 °C. Mưa hiếm và thường xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 3, với lượng mưa hàng năm là 116 mm.[36]

Tài nguyên tự nhiên của Palestine gồm có bùn lấy từ biển Chết,[37] có chứa magie, cali cacbonat hay brom. Tuy nhiên, tài nguyên này là độc quyền của các khu định cư Israel; một báo cáo vào năm 2015 cho rằng giá trị gia tăng của việc tiếp cận các nguồn tài nguyên tự nhiên này có thể mang lại cho nền kinh tế 918 triệu USD mỗi năm.[38] Palestine cũng có nhiều mỏ khí đốt với trữ lượng cao trong khu vực lãnh hải của Dải Gaza; tuy nhiên chúng chưa được khai thác do Israel hạn chế khu vực lãnh hải của Gaza từ 3 đến 6 hải lý trong hành động phong toả Gaza.[39]

Dải Gaza phải đối diện với hoang mạc hoá, mặn hoá nước ngọt, xử lý nước thải, dịch bệnh truyền qua nước, suy thoái đất, và cạn kiệt cùng ô nhiễm tài nguyên nước ngầm. Bờ Tây cũng có nhiều vấn đề tương tự, dù nước sạch sung túc hơn nhiều song việc tiếp cận bị hạn chế do Israel tiếp tục chiếm đóng.[33]

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính phủ

[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm: Chính quyền Dân tộc Palestine

Nhà nước Palestine gồm các thể chế sau có liên hệ với Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO):

  • Tổng thống Nhà nước Palestine – nguyên thủ quốc gia, do Hội đồng Trung ương Palestine bổ nhiệm.[40]
  • Thủ tướng Nhà nước Palestine - đứng đầu chính phủ, do tổng thống bổ nhiệm.
  • Hội đồng Dân tộc Palestine – cơ quan lập pháp thành lập Nhà nước Palestine.[1]
  • Hội đồng Hành pháp Tổ chức Giải phóng Palestine – có chức năng của một chính phủ lưu vong,[27][41] duy trì một mạng lưới quan hệ đối ngoại rộng lớn.

Các thể chế này khác biệt với Chủ tịch Chính quyền Dân tộc Palestine, Hội đồng Lập pháp Palestine (PLC) và nội các, là những thể chế liên kết với Chính quyền Dân tộc Palestine.

Văn kiện thành lập Nhà nước Palestine là Tuyên ngôn Độc lập Palestine,[1] và nó cần được phân biệt với Hiến chương Dân tộc Palestine của PlO và Luật Cơ bản Palestine của PNA.

Bản đồ thể hiện các khu vực đang nằm dưới quyền cai quản của chính quyền Palestine với màu đỏ (khu vực A và B).

Hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nước Palestine được chia thành 16 đơn vị hành chính.

Tên Diện tích(km²)[42] Dân số Mật độ (trên km²) muhfaza hoặc thủ phủ
Jenin 583 311.231 533,84 Jenin
Tubas 402 64.719 160,99 Tubas
Tulkarm 246 182.053 740,05 Tulkarm
Nablus 605 380.961 629,68 Nablus
Qalqiliya 166 110.800 667,46 Qalqilya
Salfit 204 70.727 346,7 Salfit
Ramallah & Al-Bireh 855 348.110 407,14 Ramallah
Jericho & Al Aghwar 593 52.154 87,94 Jericho
Jerusalem 345 419.108a 1214,8a Jerusalem (trên pháp lý và tranh chấp)
Bethlehem 659 216.114 927,94 Bethlehem
Hebron 997 706.508 708,63 Hebron
North Gaza 61 362.772 5947,08 JabalyaBản mẫu:Cit
Gaza 74 625.824 8457,08 Thành phố Gaza
Deir Al-Balah 58 264.455 4559,56 Deir al-Balah
Khan Yunis 108 341.393 3161,04 Khan Yunis
Rafah 64 225.538 3524,03 Rafah

a. Dữ liệu từ Jerusalem bao gồm Đông Jerusalem dưới kiểm soát của Israel cùng cư dân Israel tại đó

Các tỉnh tại Bờ Tây được gộp thành ba khu vực theo Hiệp định Oslo. Khu vực A chiếm 18% diện tích Bờ Tây và do chính phủ Palestine quản lý.[43][44] Khu vực B chiếm 22% diện tích Bờ Tây và nằm dưới quyền kiểm soát dân sự của Palestine và Israel-Palestine cùng kiểm soát an ninh.[43][44] Khu vực C, ngoại trừ Đông Jerusalem, chiếm 60% diện tích Bờ Tây và do Chính quyền Dân sự Israel cai quản, song chính phủ Palestine được cung cấp dịch vụ giáo dục và y tế cho 150.000 người Palestine trong khu vực.[43]

Đông Jerusalem được tuyên bố là thủ đô của Palestine, song được quản lý như một phần của quận Jerusalem thuộc Israel, song Palestine yêu sách là bộ phận của tỉnh Jerusalem. Khu vực này bị Israel sáp nhập vào năm 1980,[43] song hành động này không được quốc gia nào công nhận.[45] Trong số 456.000 cư dân tại Đông Jerusalem, khoảng 60% là người Palestine và 40% là người Israel.[43][46]

Quan hệ đối ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]
Công nhận quốc tế của Nhà nước Palestine

Tổ chức Giải phóng Palestine đại diện cho Nhà nước Palestine trong đối ngoại, họ duy trì đại sứ quán tại các quốc gia công nhận Nhà nước Palestine. Tổ chức Giải phóng Palestine được quyền đại diện trong nhiều tổ chức quốc tế với vị thế là thành viên, liên kết hoặc quan sát viên. Do tính không xác định của nguồn, trong một số trường hợp không thể phân biệt đâu là đại biểu PLO nhân danh Nhà nước Palestine, và đâu là nhân danh thực thể phi quốc gia hoặc chính quyền.

Ngày 15 tháng 12 năm 1988, tuyên ngôn độc lập của Nhà nước Palestine từ tháng 11 năm 1988 được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận.[47] Tính đến tháng 9 năm 2015, 136 trong số 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đã công nhận Nhà nước Palestine. Nhiều quốc gia không công nhận Nhà nước Palestine song công nhận Tổ chức Giải phóng Palestine là "đại biểu của nhân dân Palestine". Ủy ban hành pháp của PLO được trao quyền thi hành các chức năng chính phủ của Nhà nước Palestine.[41]

Ngày 29 tháng 11 năm 2012,[25] Nghị quyết số 67/19 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc được thông qua, nâng cấp Palestine lên vị thế "nhà nước quan sát viên phi thành viên" tại Liên Hợp Quốc.[27][28] Việc thay đổi vị thế này được mô tả là công nhận thực tế chủ quyền quốc gia của Palestine".[6]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo cục Thống kê Trung ương Palestine, Palestine có khoảng 4.420.549 người vào năm 2013. Với diện tích 6.220 km² (2.400 sq mi), có một mật độ dân số 731 người/km². Với mật độ dân số trung bình của thế giới là 53 người/km² dựa trên dữ liệu từ ngày 05 tháng 7 năm 2014 thì đây là khu vực có mật độ dân số cao.

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tôn giáo ở Palestine (2014)

  Hồi giáo (93%)  Kitô giáo (6%)  Druze/Samari (1%)

93% người Palestine theo đạo Hồi, đại đa số là những người tín đồ Hồi giáo Sunni, với một thiểu số là Ahmadiyya, và 15% là người Hồi giáo không giáo phái. Người Palestine theo Kitô giáo chiếm 6%, theo sau là nhỏ hơn nhiều tôn giáo cộng đồng, bao gồm Druze và Samaritan. Người Do Thái Palestine, người được quy định bởi Hiến chương Quốc gia Palestine và PLO như những "người Do Thái đã thường trú ở Palestine cho đến trước khi Do Thái xâm lược", hầu như quên nguồn gốc đó và đưa mình trở thành người Do Thái của Israel.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c “Declaration of Independence (1988) (UN Doc)”. State of Palestine Permanent Observer Mission to the United Nations. United Nations. ngày 18 tháng 11 năm 1988. Bản gốc lưu trữ 8 Tháng 6 2014. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  2. ^ “The World Factbook: Middle East: West Bank”. cia.gov. Central Intelligence Agency. ngày 7 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng 5 2014. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  3. ^ According to Article 4 of the 1994 Paris Protocol. The Protocol allows the Palestinian Authority to adopt multiple currencies. In the West Bank, the Israeli new sheqel and Jordanian dinar are widely accepted; while in the Gaza Strip, the Israeli new sheqel and Egyptian pound are widely accepted.
  4. ^ Al Zoughbi, Basheer (tháng 11 năm 2011). “The de jure State of Palestine under Belligerent Occupation: Application for Admission to the United Nations” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2016.
  5. ^ Falk, Palma (ngày 30 tháng 11 năm 2012). “Is Palestine now a state?”. CBS News. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2016.
  6. ^ a b “Israel defies UN after vote on Palestine with plans for 3,000 new homes in the West Bank”. The Independent. ngày 1 tháng 12 năm 2012.
  7. ^ Charbonneau, Louis (ngày 29 tháng 11 năm 2012). “Palestinians win implicit U.N. recognition of sovereign state”. Reuters. Thomson Reuters. Bản gốc lưu trữ 5 Tháng 6 2014. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  8. ^ a b “Ban sends Palestinian application for UN membership to Security Council”. United Nations News Centre. ngày 23 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 10 Tháng 10 2015. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  9. ^ Bissio, Robert Remo biên tập (1995). The World: A Third World Guide 1995–96. Montevideo: Instituto del Tercer Mundo. tr. 443. ISBN 978-0-85598-291-1.
  10. ^ Lapidoth, Ruth (2011). “Jerusalem: Some Legal Issues” (PDF). The Jerusalem Institute for Israel Studies. tr. 26. Bản gốc (PDF) lưu trữ 5 Tháng 6 2014. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp) Reprinted from: Wolfrum, Rüdiger (ed.) (online 2008, print 2011). The Max Planck Encyclopedia of Public International Law. Oxford University Press.
  11. ^ “State of Palestine name change shows limitations”. AP. ngày 17 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2013. Israel remains in charge of territories the world says should one day make up that state.
  12. ^ Rubin, 1999, The World Encyclopedia of Contemporary Theatre: The Arab world, tr. 186, tại Google Books
  13. ^ Herodotus, Volume 4. P.21. 1806. Rev. William Beloe translation.
  14. ^ al Madfai; Madiha Rashid (1993). Jordan, the United States and the Middle East Peace Process, 1974–1991. Cambridge Middle East Library. 28. Cambridge University Press. tr. 21. ISBN 978-0-521-41523-1.
  15. ^ Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Phiên họp 29 Nghị quyết 3237 (XXIX). cuộc họp 2296th plenary meeting. Observer status for the Palestine Liberation Organization A/RES/3237(XXIX) Ngày ngày 22 tháng 11 năm 1974.
  16. ^ Geldenhuys, Deon (1990). Isolated States: A Comparative Analysis. Cambridge Studies in International Relations. 15. Cambridge University Press. tr. 155. ISBN 978-0-521-40268-2.
  17. ^ Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Phiên họp 43 Nghị quyết 43/117. cuộc họp 75th plenary meeting. Office of the United Nations High Commissioner for Refugees A/RES/43/117 Ngày ngày 8 tháng 12 năm 1988.
  18. ^ Hillier, Tim (1998). Sourcebook on Public International Law . Cavendish Publishing. tr. 205. ISBN 978-1-84314-380-2. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014.
  19. ^ Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Phiên họp 55 Nhật ký mục 36. cuộc họp 54th plenary meeting. Bethlehem 2000 Draft resolution (A/55/L.3) A/55/PV.54 trang 10. Al-Kidwa, Nasser Palestine (bằng ar). Ngày ngày 7 tháng 11 năm 2000 lúc 3 p.m. "Moreover, we are confident that in the near future we will truly be able to join the international community, represented in the Organization as Palestine, the State that encompasses Bethlehem."
  20. ^ “40 Years Of Israeli Occupation”. arij.org. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
  21. ^ Murphy, Kim (ngày 10 tháng 9 năm 1993). “Israel and PLO, in Historic Bid for Peace, Agree to Mutual Recognition: Mideast: After decades of conflict, accord underscores both sides' readiness to coexist. Arafat reaffirms the renunciation of violence in strong terms”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ 23 Tháng 4 2010. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  22. ^ Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Phiên họp 52 Nghị quyết 52/250. Participation of Palestine in the work of the United Nations A/RES/52/250 Ngày ngày 13 tháng 7 năm 1998.
  23. ^ “Written Statement Submitted by Palestine” (PDF). International Court of Justice (ICJ). ngày 30 tháng 1 năm 2004. tr. 44–49. Bản gốc (PDF) lưu trữ 5 Tháng 2 2009. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014 Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp), in “Legal Consequences of the Construction of a Wall in the Occupied Palestinian Territory (Index)”. International Court of Justice. ngày 10 tháng 12 năm 2003. Bản gốc (PDF) lưu trữ 7 Tháng 10 2012. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014 Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp), referred to the ICJ by Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Nghị quyết ES-10/14. Agenda item 5. cuộc họp Tenth emergency special session; 23rd plenary meeting. Illegal Israeli actions in Occupied East Jerusalem and the rest of the Occupied Palestinian Territory A/RES/ES/10/14 Ngày ngày 12 tháng 12 năm 2003.
  24. ^ a b “Hamas leader's Tunisia visit angers Palestinian officials”. Al Arabiya News. Agence France-Presse (AFP). ngày 7 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 8 Tháng 1 2012. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  25. ^ a b “United Nations Sixty-seventh General Assembly: General Assembly Plenary, 44th & 45th Meetings (PM & Night). GA/11317: General Assembly Votes Overwhelmingly to Accord Palestine 'Non-Member Observer State' Status in United Nations”. un.org. United Nations. ngày 29 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 30 Tháng 11 2012. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  26. ^ “General Assembly grants Palestine non-member observer State status at UN”. United Nations News Centre. ngày 29 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ 2 Tháng 1 2013. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  27. ^ a b c Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Phiên họp 67 Nhật ký mục 37. Question of Palestine A/67/L.28 Ngày ngày 26 tháng 11 năm 2012. and Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc Phiên họp 67 Nghị quyết 67/19. Status of Palestine in the United Nations A/RES/67/19 Ngày ngày 29 tháng 11 năm 2012.
  28. ^ a b “Palestine: What is in a name (change)?”. Aljazeera Inside Story. Aljazeera. ngày 8 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ 9 Tháng 1 2013. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  29. ^ Griffiths, Sarah (ngày 5 tháng 1 năm 2015). “Slow death of the Dead Sea: Levels of salt water are dropping by one metre every year”. Daily Mail. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2015.
  30. ^ A house demolished, three others threatened in the town of Halhul - 24,March,2007 Lưu trữ 2007-05-27 tại Wayback Machine, POICA. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2012.
  31. ^ Palestine & Palestinians. Beit Sahour, Palestine: Alternative Tourism Group. 2008. tr. 18. ISBN 9950-319-01-3.
  32. ^ Ferry M.; Meghraoui M.; Karaki A.A.; Al-Taj M.; Amoush H.; Al-Dhaisat S.; Barjous M. (2008). “A 48-kyr-long slip rate history for the Jordan Valley segment of the Dead Sea Fault”. Earth and Planetary Science Letters. 260 (3–4): 394–406. Bibcode:2007E&PSL.260..394F. doi:10.1016/j.epsl.2007.05.049.
  33. ^ a b http://www.alhaq.org/publications/Water-For-One-People-Only.pdf
  34. ^ Zertal, Adam (2004). The Manasseh Hill Country Survey: The Shechem Syncline. BRILL. tr. 36.
  35. ^ “Gaza”. Global Security. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2009.
  36. ^ “Monthly Averages for Gaza, Gaza Strip”. MSN Weather. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2009.
  37. ^ “Israel's Unlawful Exploitation of Natural Resources in the Occupied Palestinian Territory”. Al Haq. ngày 3 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016. By granting substantial financial benefits to the settlers, as well as by licensing Ahava Dead Sea Laboratories Ltd., 44.5 per cent of whose shares are owned by the settlements of 'Mitzpe Shalem' and 'Kalia,' to mine and manufacture products that utilise the mud extracted from the occupied Dead Sea area, Israel is openly in violation of its obligations as an Occupying Power in the OPT. It is encouraging and facilitating the exploitation of Palestinian natural resources and actively assisting their pillaging by private actors.
  38. ^ “Area C and the Future of the Palestinian Economy” (PDF). World Bank. 3 ngày 3 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016. The Dead Sea abounds in valuable minerals, principally large deposits of potash and bromine. Israel and Jordan together derive some USD 4.2 billion in annual sales of these products, and account for 6 percent of the world's supply of potash and fully 73 percent of global bromine output. Demand for both these products is projected to remain strong, with the Dead Sea a cheap and easily exploited source. There is no reason to suppose that Palestinian investors along with prospective international partners would not be able to reap the benefits of this market, provided they were able to access the resource. Taking as a benchmark the average value added by these industries to the Jordanian and the Israeli economies, the Palestinian economy could derive up to USD 918 million per annum –equal to 9 percent of 2011 GDP, almost equivalent to the size of the entire Palestinian manufacturing sector Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày= (trợ giúp)
  39. ^ Charlotte Silver (ngày 22 tháng 12 năm 2015). “Israel's sea blockade of Gaza motivated by gas finds”. Electronic Intifada. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016. In 2000, around the same time that the Gaza gas fields were found, Israel discovered Mari-B, a gas field located at the maritime border with Gaza. Since then, Israel has accelerated the militarization of Gaza's waters, ostensibly to protect its own valuable resources – while sabotaging any possibility that Palestinians can access theirs. Israel's violent restriction of Gaza's maritime zone to 3 to 6 nautical miles beyond the coast began in 2000, the report states, though it was not officially established until January 2009..
  40. ^ "PLO Body Elects Abbas 'President of Palestine'" Lưu trữ 2011-06-08 tại Wayback Machine ngày 24 tháng 11 năm 2008. Agence France-Presse (via Khaleej Times). Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2011. "'I announce that the PLO Central Council has elected Mahmud Abbas president of the State of Palestine. He takes on this role from this day, ngày 23 tháng 11 năm 2008,' the body's chairman Salem al-Zaanun told reporters."
  41. ^ a b Sayigh, Yezid (1999). Armed Struggle and the Search for State: The Palestinian National Movement, 1949–1993 . Oxford University Press. tr. 624. ISBN 9780198296430.Quản lý CS1: postscript (liên kết) "The Palestinian National Council also empowered the central council to form a government-in-exile when appropriate, and the executive committee to perform the functions of government until such time as a government-in-exile was established."
  42. ^ “Palestine”. GeoHive. Johan van der Heyden. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2015.
  43. ^ a b c d e Zahriyeh, Ehab (ngày 4 tháng 7 năm 2014). “Maps: The occupation of the West Bank”. Al Jazeera America. Al Jazeera Media Network. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2014.
  44. ^ a b Gvirtzman, Haim. “Maps of Israeli Interests in Judea and Samaria”. Bar-Ilan University. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2014.
  45. ^ Kelly, Tobias (tháng 5 năm 2009). Von Benda-Beckmann, Franz; Von Benda-Beckmann, Keebet; Eckert, Julia M. (biên tập). Laws of Suspicion:Legal Status, Space and the Impossibility of Separation in the Israeli-occupied West Bank. Rules of Law and Laws of Ruling: On the Governance of Law. Ashgate Publishing. tr. 91. ISBN 9780754672395.
  46. ^ Jerusalem, Facts and Trends 2009/2010 (PDF) (Bản báo cáo). Jerusalem Institute for Israel Studies. 2010. tr. 11. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2014.
  47. ^ UNGA, ngày 15 tháng 12 năm 1988; Resolution 43/177. Question of Palestine Lưu trữ 2015-07-17 tại Wayback Machine (doc.nr. A/RES/43/177)

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bercovitch, Jacob; Zartman, I. William (2008). Bercovitch, Jacob; Kremenyuk, Victor; Zartman, I. William (biên tập). The SAGE Handbook of Conflict Resolution . SAGE Publications. ISBN 978-1-4129-2192-3.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Brownlie, Ian; Goodwin-Gill, Guy S.; Talmon, Stefan; Jennings, Robert (1999). The Reality of International Law: Essays in Honour of Ian Brownlie . Oxford University Press. ISBN 978-0-19-826837-6.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Gerson, Allan (1978). Israel, the West Bank and International Law. London: Frank Cass. ISBN 978-0-7146-3091-5.
  • Grant, Thomas D. (1999). The Recognition of States: Law and Practice in Debate and Evolution. Greenwood Publishing Group (via Google Books). ISBN 978-0-275-96350-7.
  • Hillier, Tim (1998). Sourcebook on Public International Law . Routledge. ISBN 978-1-85941-050-9.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Kassim, Anis F. (1997). The Palestine Yearbook of International Law 1989 . Martinus Nijhoff Publishers. ISBN 978-90-411-0342-0.Quản lý CS1: postscript (liên kết) p. 49 p. 279 p. 291 p. 294
  • Kellerman, Aharo n (1993). “Society and Settlement: Jewish Land of Israel in the Twentieth Century”. Albany, New York: State University of New York Press (via Google Books): 352. ISBN 978-0-7914-1295-4. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Kogan Page (2004). Middle East Review . Kogan Page. ISBN 978-0-7494-4066-4.
  • Le More, Anne (2008). International Assistance to the Palestinians After Oslo: Political Guilt, Wasted Money . Routledge (via Google Books). ISBN 978-0-415-45385-1.
  • Osmańczyk, Edmund Jan; Mango, Anthony (2003). Encyclopedia of the United Nations and International Agreements (ấn bản thứ 3). Taylor & Francis. ISBN 978-0-415-93921-8.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Quigley, John B. (2005). The Case for Palestine: An International Law Perspective . Duke University Press. ISBN 978-0-8223-3539-9.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Rubin, Don (1999). The World Encyclopedia of Contemporary Theatre: The Arab World . Taylor & Francis. ISBN 978-0-415-05932-9.
  • Sayigh, Yezid (1999). Armed Struggle and the Search for State: The Palestinian National Movement, 1949–1993 . Oxford University Press. ISBN 978-0-19-829643-0.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Segal, Jerome M. (1997). Tomis Kapitan (biên tập). Philosophical Perspectives on the Israeli–Palestinian Conflict . M.E. Sharpe. ISBN 978-1-56324-878-8.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Silverburg, Sanford R. (2002). Palestine and International Law: Essays on Politics and Economics. Jefferson, North Carolina: McFarland & Company. ISBN 978-0-7864-1191-7.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Takkenberg, Alex (1998). The Status of Palestinian Refugees in International Law . Oxford University Press. ISBN 978-0-19-826590-0.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Talmon, Stefan (1998). Recognition of Governments in International Law: With Particular Reference to Governments in Exile . Oxford University Press (via Google Books). ISBN 978-0-19-826573-3.
  • Europa World Year Book 2. Taylor & Francis (via Google Books). 2004. ISBN 978-1-85743-255-8.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • The Middle East and North Africa 2004 . Routledge. 2004. ISBN 978-1-85743-184-1.Quản lý CS1: postscript (liên kết)

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Arzt, Donna E. (1997). Refugees into Citizens: Palestinians and the End of the Arab-Israeli Conflict . Council on Foreign Relations. ISBN 978-0-87609-194-4.
  • Fowler, Michael; Bunck, Julie Marie (1995). Law, Power, and the Sovereign State: The Evolution and Application of the Concept of Sovereignty. Penn State University Press (via Google Books). ISBN 978-0-271-01471-5.
  • Peters, Joel (1992). Israel and Africa: The Problematic Friendship . I.B.Tauris. ISBN 978-1-870915-10-6.
  • Taylor & Francis Group; Dean, Lucy (2003). The Middle East and North Africa 2004: 2004 . Routledge. ISBN 978-1-85743-184-1.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
  • Tessler, Mark A. (1994). A History of the Israeli–Palestinian Conflict . Bloomington, Indiana: Indiana University Press. ISBN 978-0-253-35848-6.
  • Watson, Geoffrey R. (2000). The Oslo Accords: International Law and the Israeli–Palestinian Peace Agreements . Oxford University Press. ISBN 978-0-19-829891-5.Quản lý CS1: postscript (liên kết)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Status of Palestine in the United Nations (A/RES/67/19) Full Text
  • Cross, Tony (ngày 24 tháng 9 năm 2011). "After Abbas's UN Bid Are Palestinians Closer To Having a State?". Radio France Internationale. Truy cập 2011-9-28.
  • Recognition of a Palestinian state Premature Legally Invalid and Undermining any Bona Fide Negotiation Process Lưu trữ 2012-03-11 tại Wayback Machine
  • Political Statement accompanying Palestinian Declaration of Independence Lưu trữ 2001-04-20 tại Wayback Machine
  • Permanent Observer Mission of Palestine to the United Nations Lưu trữ 2013-01-31 tại Wayback Machine
  • The Historic Compromise: The Palestinian Declaration of Independence and the Twenty-Year Struggle for a Two-State Solution Lưu trữ 2012-04-26 tại Wayback Machine
  • International Recognition of a Unilaterally Declared Palestinian State: Legal and Policy Dilemmas Lưu trữ 2022-01-15 tại Wayback Machine, by Tal Becker
  • x
  • t
  • s
Thành viên và Quan sát viên Phong trào không liên kết
Thành viên

Afghanistan · Algérie · Angola · Bahamas · Bahrain · Bangladesh · Barbados · Belarus · Belize · Bénin · Bhutan · Bolivia · Botswana · Brunei · Burkina Faso · Burundi · Campuchia · Cameroon · Cabo Verde · Cộng hòa Trung Phi · Tchad · Chile · Colombia · Comoros · Cộng hòa Congo · Bờ Biển Ngà · Cuba · Cộng hòa Dân chủ Congo · Djibouti · Cộng hòa Dominica · Ecuador · Ai Cập · Eritrea · Eswatini · Ethiopia · Gabon · Gambia · Ghana · Grenada · Guatemala · Guinea Xích Đạo · Guinée · Guiné-Bissau · Guyana · Honduras · Ấn Độ · Indonesia · Iran · Jamaica · Jordan · Kenya · Kuwait · Lào · Liban · Lesotho · Liberia · Libya · Madagascar · Malawi · Malaysia · Maldives · Mali · Maroc · Mauritanie · Mauritius · Mông Cổ · Mozambique · Myanmar · Namibia · Nepal · Nicaragua · Niger · Nigeria · Bắc Triều Tiên · Oman · Pakistan · Palestine · Panama · Papua New Guinea · Perú · Philippines · Qatar · Rwanda · St. Lucia · St. Vincent và Grenadines · São Tomé và Príncipe · Ả Rập Xê Út · Sénégal · Seychelles · Sierra Leone · Singapore · Somalia · Nam Phi · Sri Lanka · Sudan · Suriname · Syria · Tanzania · Thái Lan · Đông Timor · Togo · Trinidad và Tobago · Tunisia · Turkmenistan · Uganda · Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất · Uzbekistan · Vanuatu · Venezuela  · Yemen · Zambia · Zimbabwe

Quan sát viên

Quốc gia

Antigua và Barbuda · Armenia · Azerbaijan · Bosna và Hercegovina · Brasil · Việt Nam · Costa Rica · Croatia · Síp · Dominica · El Salvador · Kazakhstan · Kyrgyzstan · Mexico · Montenegro · Serbia · Ukraina · Uruguay

Tổ chức

châu Phi · Liên đoàn Ả Rập · Liên Hợp Quốc

  • x
  • t
  • s
Quốc gia và vùng lãnh thổ giáp Địa Trung Hải
Quốc gia
  • Albania
  • Algérie
  • Bosna và Hercegovina
  • Croatia
  • Cộng hòa Síp
  • Ai Cập
  • Pháp
  • Hy Lạp
  • Israel
  • Ý
  • Liban
  • Libya
  • Malta
  • Monaco
  • Montenegro
  • Maroc
  • Slovenia
  • Tây Ban Nha
  • Syria
  • Tunisia
  • Thổ Nhĩ Kỳ
Quốc gia công nhận hạn chế
  • Bắc Síp
  • Palestine
Lãnh thổ phụ thuộc
  • Akrotiri và Dhekelia (Anh)
  • Gibraltar (Anh)
  • x
  • t
  • s
Các nước và lãnh thổ ở Trung Đông
  • Ai Cập
  • Ả Rập Xê Út
  • Bahrain
  • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
  • Síp
  • Iran
  • Iraq
  • Israel
  • Jordan
  • Kuwait
  • Liban
  • Oman
  • Palestine
  • Qatar
  • Bắc Síp
  • Syria
  • Thổ Nhĩ Kỳ
  • Yemen
  • x
  • t
  • s
Quốc gia và lãnh thổ tại Châu Á
Quốc gia có chủ quyền
  • Afghanistan
  • Ai Cập
  • Ả Rập Xê Út
  • Armenia
  • Azerbaijan
  • Ấn Độ
  • Bahrain
  • Bangladesh
  • Bhutan
  • Brunei
  • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
  • Campuchia
  • Đông Timor
  • Gruzia
  • Hàn Quốc
  • Indonesia
  • Iran
  • Iraq
  • Israel
  • Jordan
  • Kazakhstan
  • Kuwait
  • Kyrgyzstan
  • Lào
  • Liban
  • Malaysia
  • Maldives
  • Mông Cổ
  • Myanmar
  • Nepal
  • Nga
  • Nhật Bản
  • Oman
  • Pakistan
  • Philippines
  • Qatar
  • Singapore
  • Síp
  • Sri Lanka
  • Syria
  • Tajikistan
  • Thái Lan
  • Thổ Nhĩ Kỳ
  • Turkmenistan
  • Bắc Triều Tiên
  • Trung Quốc
  • Uzbekistan
  • Việt Nam
  • Yemen
Quốc gia được công nhận hạn chế
  • Abkhazia
  • Bắc Síp
  • Nam Ossetia
  • Palestine
  • Đài Loan
Lãnh thổ phụ thuộc và Đặc khu hành chính
Anh
  • Akrotiri và Dhekelia
  • Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh
Trung Quốc
  • Hồng Kông
  • Ma Cao
Úc
  • Đảo Giáng Sinh
  • Quần đảo Cocos (Keeling)
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BNE: XX6538697
  • BNF: cb13507488g (data)
  • KulturNav: 37077328-3983-4146-91fc-7637206dfa17
  • MBAREA: 7d24dd34-a00f-37a1-8307-f2ef1dd3dbcd
  • NSK: 000291673
  • SUDOC: 050239473
  • UKPARL: faQQ3aJw
  • VcBA: 494/26392
  • VIAF: 1145244256574480134
  • WorldCat Identities (via VIAF): 1145244256574480134

Từ khóa » đất Nước Palestine ở đâu