NHẬN BIẾT BỆNH LOÉT GHẺ TRÊN CÂY CÓ MÚI VÀ CÁCH ...

Cây có múi là một nhóm cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, tuy nhiên khi bị sâu bệnh đặc biệt là bệnh ghẻ sẹo (ghẻ nhám, ghẻ lồi) và bệnh loét gây thiệt hại kinh tế làm mẫu mã quả xấu, giảm giá trị kinh tế. Bài viết sau đây sẽ giúp bà con nhận biết triệu chứng bệnh và phân biệt 2 loại bệnh này từ đó có biện pháp phòng và trị bệnh chủ động trên cây có múi.  
I - Bệnh sẹo (ghẻ) trên cây có múi 1.1 Triệu chứng bệnh Bệnh ghẻ sẹo gây hại trên tất cả các bộ phận của cây, bệnh thường phát sinh sớm ở các bộ phận còn non: lộc non, lá non, quả non… Biểu hiện bệnh trên lá: Trên lá non khi bệnh mới phát sinh vết bệnh có dạng chấm nhỏ(mụn nhỏ li ti) màu vàng trong hơi nổi gờ, hầu hết rất ít thấy xuất hiện quầng vàng xung quanh vết bệnh(lúc đầu bệnh chỉ xuất hiện ở một mặt lá thường là ở mặt dưới lá). Khi bệnh phát triển mạnh vết bệnh thường có dạng những khối u(mụn to) nổi lên trên mặt lá, mặt dưới lõm vào. Vết bệnh có thể nằm riêng rẽ hoặc liên kết với nhau thành những khối vết bệnh liên tiếp có diện tích lớn hơn làm cho phiến lá bị biến dạng, co dúm hoặc nhăn nheo, lá nhỏ hẹp, kém phát triển, làm giảm hiệu suất quang hợp của cây. Các vết bệnh sẹo thường ít khi thấy quầng vàng xung quanh vết bệnh. Biểu hiện bệnh trên cành: vết bệnh thường to hơn trên lá, các vết bệnh cũng có biểu hiện lồi lên nằm rời rạc hoặc liên kết với nhau làm cành khô chết, nhiều trường hợp bệnh còn thúc đẩy quá trình hình thành chồi nách. Biểu hiện bệnh trên hoa: Bệnh xuất hiện trên bầu hoa, vết bệnh lồi lên có màu xanh nhạt hoặc xanh xám, dạng bất định và làm cho hoa rụng hàng loạt. Biểu hiện bệnh trên quả: Thường phát sinh mạnh trên quả non, vết bệnh nổi gờ sần sùi hình chop nhọn, màu vàng nâu, sau vết bệnh hóa bần, vết bệnh nằm rải rác hoặc liên kết với nhau thành từng đám. Quả bị bệnh thường phát triển chậm, vỏ dày, méo mó, dị dạng. 1.2 Nguyên nhân gây bệnh Bệnh sẹo còn gọi là bệnh ghẻ (ghẻ nhám, ghẻ lồi) do nấm Elsinoe fawcetti gây nên. Nấm gây bệnh sẹo thuộc lớp nấm túi Ascomycetes. 1.3 Đặc điểm phát sinh phát triển Nấm có thể phát triển ở điều kiện nhiệt độ từ 15-28oC. Tuy nhiên nhiệt độ tối thích để nấm phát triển là 20-24oC, tối cao là 28oC(nấm bị kìm hãm phát triển khi nhiệt độ trên 28oC). Nấm tồn tại trong mô ký chủ, gặp điều kiện thích hợp hình thành bào tử phân sinh, lan truyền nhờ gió và nước. Bào tử phân sinh chỉ nảy mầm trong điều kiện có giọt nước hoặc có độ ẩm cao. Vì vậy thường sau các trận mưa bào tử mới lan truyền xâm nhập vào các mô còn non, quả non, lá non khi dài trên 1cm rất dễ nhiễm bệnh. Nấm gây bệnh bằng cách xâm nhập trực tiếp hoặc qua vết thương hở. Sau khi tràng hoa rụng nấm xâm nhập vào quả non và lộc hạ, lộc thu là thời kỳ bệnh phát triển mạnh nhất trong năm. Đến mùa đông khô lạnh bệnh ít hoặc ngừng hẳn. Bệnh ghẻ sẹo phát sinh, phát triển mạnh trong điều kiện: có ký chủ mẫn cảm bệnh, các bộ phận trên mặt đất như lá non, quả non chưa đến giai đoạn thuần thục, có đủ độ ẩm và nhiệt độ thích hợp. Mức độ nhiễm bệnh của cây có liên quan đến tỷ lệ nước trong mô và tuổi của cây(lá non chứa 75% nước rất dễ nhiễm bệnh). Bệnh hại nặng ở chanh, quýt và nhẹ hơn ở cam, bưởi. Ngoài ra khả năng nhiễm bệnh của cây còn phụ thuộc vào điều kiện chăm sóc, điều kiện đất đai, tưới tiêu…cây được chăm sóc tốt, dinh dưỡng cân đối sẽ nâng cao sức đề kháng, cây ít nhiễm bệnh. 1.4 Biện pháp phòng trừ + Cắt tỉa vườn thông thoáng, loại bỏ cánh tăm, cành vượt, cành sâu bệnh. + Chủ động quản lý sâu hại đặc biệt là sâu vẽ bùa, sâu đục thân, ruồi đục quả… + Tăng cường sức đề kháng cho cây thông qua các kỹ thuật bón phân. Khi bón phân cho cây cần đảm bảo yếu tố cân đối và đẩy đủ đặc biệt là các yếu tố dinh dưỡng vi lượng, ưu tiên bón phân hữu cơ vi sinh, cung cấp dinh dưỡng qua lá theo thời kỳ sinh trưởng phát triển của cây, không để cây thiếu hụt dinh dưỡng đặc biệt là giai đoạn nuôi quả non. Có thể sử dụng chế phẩm sinh học Vườn Sinh Thái phun qua lá theo các thời kỳ: phát triển lộc, trước khi ra hoa, đậu quả và nuôi quả. + Chủ động phòng bệnh trên vườn ươm cây con trước khi trồng đại trà. + Quản lý bệnh chủ động bằng cách phun chế phẩm nano bạc đồng và nano đồng oxyclorua (tác dụng phòng bệnh và trị bệnh an toàn mà không gây độc hại đến môi trường, không tiêu diệt thiên địch, không tồn dư các chất độc hại. + Nếu bắt buộc phải sử dụng biện pháp hóa học, bà con có thể lựa chọn một trong các loại thuốc trừ nấm sau: Boocdeaux 1%, Zineb 80WP, Bavistin 50FL, Carbenda 50 SC, Topsin M 70WP, Benomyl 50WP, Plant 50WP,… phun 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 10 ngày.  

II. BỆNH LOÉT Bệnh loét phá hại cây ăn quả thường làm rụng quả và lá, cây cằn cỗi chóng tàn. Ở vườn ươm, khi bị bệnh nặng cây con dễ chết, quả bị bệnh phẩm chất kém không thể xuất khẩu và cất trữ được. Ở nước ta, bệnh phá hại phổ biến tại tất cả các vùng trồng cây ăn quả có múi gây thiệt hại đáng kể cho người trồng, làm ảnh hưởng lớn tới nguồn hàng xuất khẩu.

1. Triệu chứng gây bệnh

Thời điểm mà loét dễ xuất hiện nhất là giai đoạn lộc cành vừa bước vào ổn định nhưng chưa kịp già. Bệnh xuất phát từ lá non sau đó gây hại cả trái non và trái già làm giảm năng suất đáng kể.  Vết bệnh khi mới phát sinh là những chấm nhỏ sũng nước màu trắng vàng xuất hiện mặt dưới lá(kích thước 1mm). Bệnh loét thường biểu hiện cả mặt trên và mặt dưới lá nhưng không phá vỡ biểu bì của lá. Khi phát triển mạnh vết bệnh lõm xuống và phần mép xung quanh vết bệnh hơi nổi gờ, phía ngoài cùng của vết bệnh có quầng tròn dạng giọt dầu màu vàng hoặc xanh tối. Các vết bệnh thường nối liền nhau, lá mang bệnh không bị biến dạng nhưng dễ rụng (phân biệt với bệnh ghẻ sẹo do nấm: vết bệnh nổi gờ và nhô cao dạng hình chóp ở mặt trên của lá, mặt dưới lõm vào, lá bị biến dạng và xung quanh vết bệnh thường không có quầng vàng dạng giọt dầu).

Vết bệnh ở quả cũng tương tự như ở lá: Vết bệnh xù xì màu nâu hơn, mép ngoài có gờ nổi lên, ở giữa vết bệnh mô chết rạn nứt. Toàn bộ chiều dày của vỏ quả có thể bị loét, nhưng vết loét không ăn sâu vào ruột quả. Bệnh nặng có thể làm cho quả biến dạng, ít nước, khô sớm, dễ rụng.

Bệnh làm cho quả xấu mã, không đạt tiêu chuẩn chất lượng để xuất khẩu. Vết bệnh trên cành và thân cây con cũng giống như ở trên lá nhưng sùi lên tương đối rõ ràng. Đặc biệt có trường hợp vết loét ở thân kéo dài tới 15 cm và ở cành tới 5 - 7 cm.

2. Nguyên nhân

Do vi khuẩn Xanthomomas campestris pv. citri (Hasse) Dye. Vi khuẩn hình gậy, một đầu có một lông mao, gram âm, háo khí. Khuẩn lạc trên môi trường nuôi cấy màu vàng bóng, hơi hồng, rìa hơi lượn sóng.

3. Phương thức lan truyền

Vi khuẩn gây bệnh tồn tại trên tàn dư lá, quả, thân, cành cây đã bị bệnh. Vi khuẩn lan truyên nhờ tác nhân cơ giới, gió, nước mưa. Do đó, bệnh thường gây hại nặng trong điều kiện thời tiết ẩm, mùa mưa.

4. Đặc điểm phát sinh

Bệnh loét phát sinh gây hại quanh năm, nhưng bệnh trong mùa mưa nặng hơn trong mùa khô. Bệnh phát sinh và phát triển mạnh ở điều kiện ẩm độ cao và nhiệt độ 26 - 35 độ C. Bệnh loét lây lan rất nhanh. Bệnh hại trên tất cả các giống cây có múi. Chanh, bưởi chùm bị nặng nhất. Các giống cam Xã Đoài, cam Vân Du, cam Sông Con bị bệnh nặng hơn các giống cam chanh, cam sành.

Bệnh phát sinh từ lộc xuân (tháng 3), tăng mạnh đến lộc hạ (tháng 7 và 8) rồi đến lộc đông (tháng 10 và 11) thì bệnh giảm dần và ngừng phát triển. Tuổi cây càng non càng dễ bị nhiễm bệnh nặng, nhất là ở vườn ươm ghép cây giống thường bị bệnh nặng trong 1 - 2 năm đầu, cam từ 5 - 6 tuổi tỉ lệ bị bệnh thấp hơn. Cành vượt phát triển nhiều lộc thường bị bệnh nặng hơn, sau khi nảy lộc 30 - 45 ngày ở giống cam rất dễ bị bệnh.

Khi lộc cành bước vào ổn định nhưng chưa hóa già tính nhiễm bệnh cao nhất. Sau khi hoa rụng, quả non hình thành bắt đầu bị nhiễm bệnh. Khi quả ngừng lớn và bắt đầu vàng thì hầu như không nhiễm bệnh nữa. Ngoài ra, sâu bùa vẽ cũng là môi giới truyền bệnh tạo nên vết thương để bệnh xâm nhiễm dễ dàng, nhất là trong vườn ươm cây giống.

5. Biện pháp phòng trừ

- Vườn trồng cây ăn quả cần có hệ thống thoát nước tốt, không trồng cây giống bị nhiễm bệnh và không trồng quá dày để tạo thông thoáng cho vườn. - Cắt và thu gom cành, lá, quả bị bệnh đem tiêu hủy nguồn bệnh.  - Những vườn bị bệnh không tưới nước lên tán cây vào buổi chiều mát, không tưới thừa nước. Đốn tỉa tạo tán định kỳ để vườn không bị rậm rạp. Tránh tạo vết thương cơ giới cho vi khuẩn xâm nhập.

- Bón phân cân đối NPK. Tăng cường bón thêm phân kali cho vườn cây đang bị bệnh, không bón đạm và phân bón lá khi bệnh đang phát triển gây hại.

- Phòng chống sâu vẽ bùa (vectơ truyền bệnh loét vi khuẩn) bằng cách phun chế phẩm BIO Plus HLC vào các đợt cây ra lộc (phun 1 lần khi lộc mới nhú và 1 lần sau đó 1 tuần) Phòng và trị bệnh chủ động bằng sản phẩm có tác dụng trị nấm và vi khuẩn nhưng không gây độc hại đến môi trường và thiên địch có lợi:

+ Phun phòng loét vào lúc mới ra lộc hoặc khi bệnh bắt đầu xuất hiện bằng chế phẩm nano bạc đồng & nano đồng oxyclorua   + Khi bệnh nặng có thể phun 2 - 4 lần, mỗi lần cách nhau 10 - 15 ngày. Sử dụng các loại thuốc gốc đồng như Boocđô 1%, Kasuran 0,15%, champion 37,5FL, Boocđô + zineb, Copper oxychloride… phun khi cây mới ra lộc, lượng nước phun là 600 - 800 lít/ha.

Nguồn: tham khảo: nongnghiep.vn  

Từ khóa » Ghẻ Cam Quýt