Nhân Sinh Thất Thập Cổ Lai Hy

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

Đỗ Phủ (712 – 770), tự Tử Mỹ, tự lấy hiệu là “ông già Thiếu Lăng”, người đời sau thường gọi là Đỗ Thiếu Lăng, người ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Là nhà thơ hiện thực vĩ đại thời thịnh Đường, ông đã để lại cho hậu thế hơn 1.400 bài thơ, trong đó khoảng 1.000 bài viết theo thể Đường luật. Ông cùng với Lý Bạch đã góp phần làm nên một giai đoạn phát triển thơ ca rực rỡ thời Đường của Trung Quốc. Người đời tôn Lý Bạch là “Thi Tiên”, Đỗ Phủ là “Thi Thánh”. Cuộc đời nhà thơ nghèo khổ, gặp cảnh loạn lạc, trường trải nhiều, gần gũi với nhân dân cho nên tính nhân dân, tính hiện thực trong thơ ông rất cao. Phải chăng, vì cuộc sống bần hàn như vậy càng khiến cho thơ của Đỗ Phủ thêm thâm thúy và kiệt xuất chăng?

Về nội dung tư tưởng, thơ ca Đỗ Phủ thể hiện lòng thương vô hạn, lòng yêu mến nồng nàn đối với nhân dân. Nhà thơ không những chứng kiến mà còn cùng sống cảnh loạn lạc, cơ hàn với nhân dân. Thơ ca của ông về mặt này hơn hẳn người trước về chiều sâu cũng như bề rộng. Trong thơ ca của ông đã thể hiện một lòng yêu nước nồng nàn. Ông luôn quan tâm đến vận mệnh của đất nước, mọi nỗi vui buồn lo lắng của ông đều gắn với vận mệnh của đất nước. Trong thơ ca của ông còn thể hiện lòng căm ghét của ông đối với bọn thống trị phong kiến hại dân, hại nước.

Cuộc đời đói rét, bệnh tật, cuộc sống phiêu bạt dày vò mãi nhà thơ. Cuối cùng, mùa đông năm 770, nằm trên một chiếc thuyền con trên bến sông Tương ở Lỗi Dương, nhà thơ lìa bỏ cuộc đời ở tuổi 59 và không bao giờ ca hát nữa, nhưng đã để lại cho đời sau những áng thơ bất hủ. Bởi ông đã “Đọc sách vở muôn quyển” nên mới “Hạ bút như có thần”! Nguyên Chấn, một thi sĩ lừng danh lúc bấy giờ, đã viết một bài minh đề trên mộ Đỗ Phủ nói rằng: “Từ khi có thi nhân đến giờ, không có ai vĩ đại bằng Tử Mỹ”.Câu thơ “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” của ông trong bài thơ “Khúc giang nhị thủ – Kỳ nhị” làm vào mùa xuân năm Càn Nguyên nguyên niên (758), lúc Đỗ Phủ ở tuổi 46, đang đương nhiệm chức Tả thập di (Một chức quan biên chép thêm những chỗ còn thiếu trong sách vở). Bài thơ nguyên tác như sau:

Ảnh cùng dòng

Phiên âm: Khúc giang nhị thủ – Kỳ nhị

Đỗ Phủ

Triều hồi nhật nhật điển xuân y,

Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy.

Tửu trai tầm thường hành xứ hữu,

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,

Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi.

Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,

Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.

Dịch nghĩa: Sông khúc (Bài 2)

Đỗ Phủ

Ngày ngày bãi triều về đem cầm áo xuân,

Mỗi ngày trên sông lại uống rượu say đến hết ngày.

Nợ rượu bình thường nơi nào cũng có,

Người đời thọ bảy mươi tuổi xưa nay hiếm.

Bươm bướm luồn hoa thấp thoáng hiện,

Chuồn chuồn chấm nước dập dờn bay.

Nhắn với mọi người thời gian cảnh vật đều thay đổi,

Hãy tạm vui đi chớ có trái với đời.

Bản dịch của Tản Đà:

Bến sông II

Tản Đà (Dịch)

Khởi bệ vua ra, cố áo hoài

Bến sông say khướt tối lần mai

Nợ tiền mua rượu đâu không thế?

Sống bảy mươi năm đã mấy người?

Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn

Chuồn chuồn giỡn nước lững lờ chơi

Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi

Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.

Bùi Chí Thành

(Võ Văn Viện st)

Chia sẻ:

  • Twitter
  • Facebook
Thích Đang tải...

Có liên quan

Từ khóa » đỗ Phủ Nhân Sinh Thất Thập Cổ Lai Hy