Những điều Cần Biết Về Nhện Gié Hại Lúa 1

Tên khoa học: Steneotarsonemus spinki

Tên gọi tiếng anh: Rice Panicle Mite (RPM).

Lớp Nhện (Arachnida), Bộ ve bét (Acarina)

Họ Tarsonemidae Canestrini và Fanzango, 1877

Loài Steneotarsonemus spinki Smiley, 1967

1/ Đặc tính hình thức biểu hiện ra bên ngoài

Nhện gié hại lúa 1

Nhện gié hại lúa có kích cỡ cực kỳ nhỏ. Để ý kỹ sẽ thấy nhện tạo một lớp mạng bằng tơ cực kỳ mỏng.

Nhện gié có 3 pha phát dục: Trứng – Nhện non (di động, không di động) – Trưởng thành.

Nhện gié hại lúa 1

+ Trứng có màu trắng trong, hình trái xoan, đẻ không tập trung từng quả hoặc thường dính lại cùng nhau thành từng đám 5 – 10 quả.

+ Nhện non di động và nhện non không di động có màu trắng đục với 3 đôi chân.

+ Trưởng thành có màu trắng đục hơi vàng, có 4 đôi chân, cực khó để ý bằng mắt thường. Con cái trưởng thành có chiều dài 274 milimét, bề rộng cơ thể là 108 milimét. Con đực có kích cỡ chiều dài và bề rộng cơ thể tương ứng là 217 mm và 121 milimét. Những đặc tính kết cấu hình thức biểu hiện ra bên ngoài đặc thù cho họ Tarsonemidae. Điểm dễ phân biệt giữa con đực và con cái là ở đôi chân thứ 4: Đôi chân thứ 4 con đực phồng to phía trong hình thành đôi kìm hỗ trợ cho việc vận chuyển con cái và giao phối, còn đôi chân thứ 4 của con cái tiêu hạ nhỏ nhỏ, có dạng vuốt dài.

Nhện gié sinh sản đơn tính không cần thụ tinh (không có con đực), trứng nở ra con đực. Sinh sản hữu tính, có thụ tinh (có con đực), trứng nở ra con cái. Nhện cái có khả năng đẻ 55 trứng trong suốt đời sống của chính nó. Trong một quần thể nhện gié thưởng thấy tỷ lệ 3 con cái: 1con đực, khi điều kiện sống thuận lợi tỷ lệ này là 8 cái: 1 đực.

2/ Sự phân bổ của nhện gié trên cây lúa

+ Nhện sống tụ tập ở phía trong bẹ lá lúa phần phía trên mặt nước, khi mật độ cao chúng bò lên bông lúa. Nhện có thể cư trú phía bên trong vỏ trấu của hạt lúa. Nhện ở hạt giống có khả năng bị chết bởi nhiệt độ nóng, lạnh trong kho trùng hoặc chết bởi thuốc tiệt trùng. Lúa để khô thông thường có thể diệt trừ chết nhện trong hạt giống.

+ Khi không có thức ăn, toàn bộ những pha nhện gié đều có thể tồn tại tốt trong nước. Trưởng thành nhện gié có thể tồn tại trong nước lâu nhất là 23 ngày (trưởng thành cái sống dài hơn trưởng thành đực), nhện non 25 ngày, trứng và nhện non không di động đều có thể nở (tỷ lệ nở bình quân 94,33%) và lột xác trong môi trường nước

+ Nhện gié phát triển mạnh khi nhiệt độ 28oC – 30oC, độ ẩm cao 96%. Nhiệt độ thấp hơn, chúng phát triển chậm hơn. Nhện gié có thể lây lan nhờ hạt giống, gió, nước, côn trùng, chuột, công cụ sản xuất nông nghiệp, tàn dư các loại thực vật từ vụ trước đó qua vụ sau…

3/ Dấu hiệu gây bệnh

Thời kỳ mạ: Ở thời kỳ mạ nhện thường không hại ở gân lá mà đa phần hại ở bẹ lá, chích hút nhựa cây ngay ở ngoài bẹ lá, phần tiếp xúc giữa những bẹ lá cùng nhau. Vết hại lúc đầu là những chấm nhỏ màu trắng vàng về sau thành đám màu vàng nâu đến nâu đen. Nổi bật là, các dảnh mạ bị nhện gié hại nặng có tình trạng lùn thấp hơn, có tình trạng đẻ nhánh sớm hơn so sánh với các dảnh mạ khác.

Nhện gié hại lúa 1

Trên thân: Thân cây lúa bị nhện gié chính hút lúc đầu là các đốm nhỏ màu vàng nhạt, về sau vết chích nối dài thành hình chữ nhật và từ từ biến sang nâu đen.

Nhện gié hại lúa 1

Trên bẹ lá: Nhện gié gây bệnh ở các bẹ lá sát gốc, vết hại lúc đầu là những chấm nhỏ màu trắng vàng về sau tỏa ra nối dài thành những vệt sọc hình chữ nhật, chuyển dần sang màu vàng nhạt rồi vàng nâu, nâu đen. Những vệt sọc hình chữ nhật dài từ 0.2 – 15 centimét. Đối với các bẹ ở trên (bẹ lá đòng, bẹ sát dưới bẹ lá đòng), nhện thường hay chích hút ngay ở phía bên ngoài bẹ, phần tiếp giáp giữa bẹ và thân cây lúa, thỉnh thoảng nhện cũng đục và chui vào khoang mô gây bệnh. Vết hại lúc đầu là những chấm nhỏ có thể hình chữ nhật, màu trắng vàng đến vàng nhạt về sau thành nâu đậm hoặc thâm đen. Những vết hại tập kết thành từng đám màu nâu nhạt, nâu đậm đến thâm đen trông giống như vết “cạo gió”.

Trên gân lá: Vết hại trên gân lá lúc đầu là những chấm nhỏ màu trắng vàng về sau vết hại tỏa ra thành những vệt sọc chạy dọc gân lá, màu sắc vết bệnh thay đổi từ nâu vàng sang nâu đậm rồi nâu đen.

Nhện gié hại lúa 1

Trên bông lúa thời kỳ trổ: Bông lúa bị nhện gié hại trước trổ thường hay gặp hiện tượng bông lúa không trổ thoát, hạt lép, bông lúa hoặc thân đòng bị cong queo. Nếu bông lúa trổ thoát thì nhện vẫn tấn công hạt lúa ngay trong khi trổ và sau khi trổ. Tất cả cuống bông lúa và hạt lúa bị biến màu từ trắng vàng sang màu nâu, hạt lúa xuất hiện các lốm đốm màu nâu đen ở vỏ trấu, nếu bị nặng tất cả hạt trên bông lúa biến màu nâu đen và thỉnh thoảng hạt trên bông bị biến đổi về hình dạng méo mó. Bông lúa không cong bình thường mà có chiều đứng thẳng.

Trên gié lúa: Gié lúa bị nhện hại thường cong queo, phía duới cuống gié cong, cuống gié, cuống hạt, hạt trên gié cũng bị biến màu từ vàng nhạt sang vàng nâu rồi nâu đen.

Trên hạt lúa: Hạt lúa bị nhện gié gây bệnh thường bị biến đổi về hình dạng cong queo, lép hoàn toàn, lửng hoặc bình thường. Vỏ trấu bị biến màu hoàn toàn hoặc lốm đốm nâu đến nâu đen. Hạt lép hoàn toàn có đài hoa, nhị, nhuỵ bị biến màu, khô teo và nâu đen.

+ Đối với chân ruộng liên tục bị nhện gié gây bệnh nặng, sau khi tiến hành thu hoạch lúa, rải rơm đốt đồng kỹ trước khi tiến hành làm ruộng + Cày lật gốc rạ (vùi hết tàn tích cây lúa và tránh lúa chét mọc/đốt hết tàn tích đối với các ruộng vụ trước đó bị hại nặng) ngay sau khi thu hoạch lúa, diệt trừ sạch cỏ bờ để nhện không có nơi trú ngụ. + Cho đất nghỉ từ 10 – 15 ngày. Đất ruộng phải được làm kỹ, nhuyễn, san phẳng mặt ruộng trước khi tiến hành gieo cấy. + Đối với vùng liên tục có nhện gié gây bệnh nặng nên luân canh với cây họ đậu, cắt đứt nguồn ký chủ, đồng thời nâng cao độ phì của đất. + Dùng giống lúa xác nhận (có bao gói và địa chỉ rõ rệt ), có thể kháng với những đối tượng sâu hại chính trong vùng như rầy. Không dùng những giống thường bị nhện gié hại nặng. + Không sạ dày. + Bón phân hài hòa, hợp lý, không bón thừa đạm. (Phân bón: 80 – 90 N; 40 – 60 P2O5; 30 – 50 K2O ( kilogam nguyên chất/ ha)) + Giữ mức nước phù hợp cho từng thời kỳ sinh trưởng của lúa, không để khô. + Thăm đồng liên tục, theo dõi sự xuất hiện gây bệnh của nhện gié, đặc biệt từ khi lúa làm đòng đến trỗ (35 – 60 ngày sau gieo, cấy) + Ứng dụng giải pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), ứng dụng ba hạ ba tăng. + Bảo vệ thiên địch trong ruộng lúa, một vài loài nhện (như nhện bắt mồi lasioseus sp.) và ong nội ký sinh có thể kiềm chế một vài nhện gié. + Những chế phẩm sinh học như Hirsutela nodulosa, Bacillus thuringiensis, Beauveria bassiana, Verticilin lecanii và Metazhizium anissopliae có thể khống chế nhện hại hiệu quả. + Những loài nhện trong họ Phytoseiidae, bộ ve bét Acarina có thể khống chế được nhện gié S. Spinki. Ở châu Á có hai loài thiên địch quan trọng là Amblyseius taiwanicus và Lasioseus parberiesei. Nhện bắt mồi có thể tấn công và khống chế nhện hại hiệu quả. + Không xịt thuốc sớm quá và không xịt ngừa để tạo cơ hội cho thiên địch như Bọ trĩ (Bù lạch) đen và Nhện nhỏ bắt mồi phát triển. Đặc biệt lưu ý phát hiện nhện gié hại ở 2 giai đoạn là cuối thời kỳ lúa đẻ nhánh (40 – 50 ngày sau sạ) và trước trổ 5 – 7 ngày. + Có thể dùng một số loại thuốc hóa học chuyên trị nhện như: Nissorun, Kinalux, Kumulus, Comite,…cần phun đủ lượng nước từ 400 – 600l/ hecta để nước thuốc thấm vào bẹ lá mới diệt trừ được nhện.

4/ Giải pháp ngăn ngừa, diệt trừ:

+ Đối với chân ruộng liên tục bị nhện gié gây bệnh nặng, sau khi tiến hành thu hoạch lúa, rải rơm đốt đồng kỹ trước khi tiến hành làm ruộng + Cày lật gốc rạ (vùi hết tàn tích cây lúa và tránh lúa chét mọc/đốt hết tàn tích đối với các ruộng vụ trước đó bị hại nặng) ngay sau khi thu hoạch lúa, diệt trừ sạch cỏ bờ để nhện không có nơi trú ngụ. + Cho đất nghỉ từ 10 – 15 ngày. Đất ruộng phải được làm kỹ, nhuyễn, san phẳng mặt ruộng trước khi tiến hành gieo cấy. + Đối với vùng liên tục có nhện gié gây bệnh nặng nên luân canh với cây họ đậu, cắt đứt nguồn ký chủ, đồng thời nâng cao độ phì của đất. + Dùng giống lúa xác nhận (có bao gói và địa chỉ rõ rệt ), có thể kháng với những đối tượng sâu hại chính trong vùng như rầy. Không dùng những giống thường bị nhện gié hại nặng. + Không sạ dày. + Bón phân hài hòa, hợp lý, không bón thừa đạm. (Phân bón: 80 – 90 N; 40 – 60 P2O5; 30 – 50 K2O ( kilogam nguyên chất/ ha)) + Giữ mức nước phù hợp cho từng thời kỳ sinh trưởng của lúa, không để khô. + Thăm đồng liên tục, theo dõi sự xuất hiện gây bệnh của nhện gié, đặc biệt từ khi lúa làm đòng đến trỗ (35 – 60 ngày sau gieo, cấy) + Ứng dụng giải pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), ứng dụng ba hạ ba tăng. + Bảo vệ thiên địch trong ruộng lúa, một vài loài nhện (như nhện bắt mồi lasioseus sp.) và ong nội ký sinh có thể kiềm chế một vài nhện gié. + Những chế phẩm sinh học như Hirsutela nodulosa, Bacillus thuringiensis, Beauveria bassiana, Verticilin lecanii và Metazhizium anissopliae có thể khống chế nhện hại hiệu quả. + Những loài nhện trong họ Phytoseiidae, bộ ve bét Acarina có thể khống chế được nhện gié S. Spinki. Ở châu Á có hai loài thiên địch quan trọng là Amblyseius taiwanicus và Lasioseus parberiesei. Nhện bắt mồi có thể tấn công và khống chế nhện hại hiệu quả. + Không xịt thuốc sớm quá và không xịt ngừa để tạo cơ hội cho thiên địch như Bọ trĩ (Bù lạch) đen và Nhện nhỏ bắt mồi phát triển. Đặc biệt lưu ý phát hiện nhện gié hại ở 2 giai đoạn là cuối thời kỳ lúa đẻ nhánh (40 – 50 ngày sau sạ) và trước trổ 5 – 7 ngày. + Có thể dùng một số loại thuốc hóa học chuyên trị nhện như: Nissorun, Kinalux, Kumulus, Comite,…cần phun đủ lượng nước từ 400 – 600l/ hecta để nước thuốc thấm vào bẹ lá mới diệt trừ được nhện.

Nguồn: tổng hợp

Từ khóa » Cấu Tạo Của Nhện Gié