Những Khía Cạnh Triết Học Trong Tín Ngưỡng Phồn Thực Của Người ...

logo xemtailieu Xemtailieu Tải về Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng phồn thực của người chăm
  • doc
  • 67 trang
A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc sống, dân tộc nào cũng va chạm với những cặp đối lập "đực cái", "nóng - lạnh", "cao - thấp"...Nếu người du mục, với cuộc sống di chuyển, họ cần người nhanh khỏe thì người nông nghiệp với cuộc sống định canh định cư luôn quan tâm đến sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người vì nghề nông nghiệp mang tính thời vụ rất cao do đó cần rất nhiều sức người với quan niệm đông tay hơn hay làm. Xa xưa, khi sự hiểu biết về thế giới xung quanh còn hạn chế thì con người đặt niềm tin và ước vọng thờ phụng vào bất cứ người, vật hay sự việc, hiện tượng nào mà họ coi là có linh thiêng trong đó. Vì vậy, hệ thống tín ngưỡng của con người thuở sơ khai thật đa dạng, hỗn tạp. Một trong số những tín ngưỡng quan trọng và có ý nghĩa nhất, tồn tại lâu dài và bền vững trong tiềm thức cũng như đời sống con người trong quá khứ và hiện tại là tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng cầu mong sự sinh sôi phát triển đối với mùa màng, con người và vạn vật xung quanh. Tín ngưỡng này bắt nguồn từ trong lòng một nền văn hóa nông nghiệp lâu đời. Nền văn hóa ấy sùng bái sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người bởi việc duy trì và phát triển là một nhu cầu thiết yếu. Người ta cần mùa màng tươi tốt để duy trì cuộc sống và con người phải sinh sôi nẩy nở để tồn tại phát triển, từ đó phát sinh cái gọi là tín ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở hai dạng: Dạng thứ nhất là thờ "sinh thực khí" (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) =>"công cụ sinh sản nảy nở" hay chính là thờ các cơ quan sinh dục nam (linga) và cơ quan sinh dục nữ (yoni); dạng thứ hai là thờ hành vi giao phối... Qua các nghi lễ, các hình thức thờ cúng, người xưa thể hiện lòng tin rằng năng lượng thiêng ở thiên nhiên hay ở con người qua đó có khả năng truyền sang vật nuôi và cây trồng. Do vậy tín ngưỡng phồn thực với vô số các nghi thức thờ cúng đã phát triển hết sức phong phú, đa dạng. 1 Người Chăm cũng là cư dân nông nghiệp lúa nước nên rất coi trọng tín ngưỡng phồn thực. Hình thức tín ngưỡng phồn thực của người Chăm cũng như người Việt đều dựa trên quan niệm âm dương lưỡng hợp rất rõ nét. Đối với cư dân Chăm ước vọng về sự sinh sôi nảy nở được phát triển thành một tinh thần phồn thực thể hiện khắp các mặt trong đời sống như phong tục tập quán, lễ hội…Đằng sau những hình thức lễ hội hết sức phong phú và đa dạng của tín ngưỡng phồn thực của người Chăm là một hệ thống quan niệm về vũ trụ, về thế giới thần linh và con người, một triết lý sống của cư dân nông nghiệp. Mặc dù, việc bóc tách để nhìn thấy được những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng phồn thực của người Chăm là một việc làm khó khăn đối với bản thân một sinh viên. Tuy nhiên, việc làm này cũng mang lại rất nhiều điều thú vị và bổ ích giúp bản thân có thêm tri thức phục vụ cho công việc giảng dạy về sau. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng phồn thực của người Chăm" làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tín ngưỡng phồn thực là một đề tài được rất nhiều tác giả nghiên cứu như: - GS.VS.TSKH Trần Ngọc Thêm với công trình: “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”, Nxb Tổng hợp Tp.Hồ Chí Minh (1996/2004) và “Cơ sở văn hoá Việt Nam”, Nxb Giáo dục (1999). Đây là hai công trình chứa đựng đầy tâm huyết của tác giả về văn hoá của Việt Nam trong đó có tín ngưỡng và tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam nói chung. - GS.TS.Ngô Đức Thịnh với công trình: “Tín ngưỡng, văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội (2001). Đây là công trình nghiên cứu sâu về các hình thức tín ngưỡng dân gian trong đó có viết về tín ngưỡng phồn thực - Tác giả Phan Quốc Anh với công trình “ Những nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahêir ở Ninh Thuân” do Nxb Văn hóa dân tộc,(2006). Công 2 trình này chỉ nhắc đến biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực trong nghi lễ tang ma, hôn nhân, sinh để chứ không nghiên cứu sâu. - Tập thể tác giả gồm PGS.TS.Phan An, Phan Xuân Biên, Phan Văn Dốp trong công trình “Người Chăm ở Thuận Hải” và công trình “Văn hóa Chăm” do Nxb Văn hoá dân tộc và Sở Văn hoá-Thông tin Thuận Hải xuất bản cũng có nhắc đến tín nguỡng dân gian của người Chăm trong đó có tín ngưỡng phồn thực nhưng chỉ nêu lên một số biểu hiện mà thôi. - Nhà nghiên cứu Văn Món-Sakaya Bài viết “Tín ngưỡng phồn thực” được trích trong “Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội Chăm” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5 năm 2007. Trong bài viết này tác giả đã cho thấy những biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực Chăm trong các lễ hội truyền thống, trang phục, đền tháp. Mỗi lĩnh vực có mỗi biểu hiện riêng nhưng tác giả tập trung đi sâu vào lễ hội Rija Nưgar. Qua đó cho thấy được tác giả đã phần nào nhắc đến biểu hiện của tín ngưỡng này trong đời sống vật chất và tinh thần nhưng còn hạn chế. - Nguyễn Văn Hậu trong bài viết “Biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội nông nghiệp cổ truyền ở Việt Nam và Đông Nam Á” đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 9, 1999 đã nêu lên một số biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực nhưng chỉ trong lễ hội và mang tính khái quát ở Việt Nam và Đông Nam Á chứ chưa đi sâu về hình thức tín ngưỡng này. - Tác giả Vũ Anh Tú có bài viết “Tín ngưỡng phồn thực Việt Nam trong dòng chảy văn hóa Đông Nam Á qua các lễ hội nông nghiệp” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 9 năm 2008. Trong bài viết này tác giả đã cho thấy được nguồn gốc ra đời của tín ngưỡng phồn thực gắn liền với nông nghiệp đồng thời nhấn mạnh vị trí, vai trò của hình thức tín ngưỡng này trong văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa Đông Nam Á nói chung. - Nguyễn Thị Nhung với bài viết “Tín ngưỡng phồn thực của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận” đăng trên Diễn đàn văn hoá học vào 3 ngày 31 tháng 3 năm 2008. Tác giả đã lập đề cương sơ bộ nghiên cứu về tín ngưỡng phồn thực của người Chăm dưới góc độ văn hoá học, nghiên cứu những biểu hiện của nó trong đời sống gia đình, nông nghiệp, lễ hội. Đề cương đã phần nào khái quát những biểu hiện chung của hình thức tín ngưỡng này trong đời sống của người Chăm. Tác giả đánh giá cao những đóng góp và thành quả đạt được trong các công trình khoa học đã được công bố trên. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy những vấn đề được đề cập trong các công trình trên cần được tiếp tục nghiên cứu, đặt biệt ở phương diện tư tưởng triết học. Để hoàn thành được khóa luận này, tác giả có kế thừa, tiếp thu một số nội dung trong các công trình trên. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng phồn thực của người Chăm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích khái niệm tín ngưỡng, nguồn gốc, bản chất và đặc điểm của tín ngưỡng phồn thực của người Chăm. - Phân tích những quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của người Chăm qua tín ngưỡng phồn thực. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tín ngưỡng và tôn giáo. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài là quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với sử dụng các phương pháp như: phân tích, so 4 sánh, đối chiếu, tổng hợp, phỏng vấn và một số phương pháp khác. 5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tín ngưỡng phồn thực của người Chăm. 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài gồm có hai chương Chương 1: Tín ngưỡng và tín ngưỡng phồn thực của người Chăm. Chương 2: Tín ngưỡng phồn thực của người Chăm từ góc nhìn của triết học. 5 B. NỘI DUNG Chương 1 TÍN NGƯỠNG VÀ TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN 1.1. Khái niệm tín ngưỡng 1.1.1. Một số quan điểm ngoài mác xít về tín ngưỡng Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Trên thế giới có tới hàng ngàn các loại hình tín ngưỡng khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Do đó cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu khác nhau, nên các cách hiểu tín ngưỡng cũng khác nhau và để đưa ra một cách hiểu khoa học có thể khái quát được những nét đặc trưng nhất của tín ngưỡng, cần điểm qua một số quan điểm khác nhau trong giới nghiên cứu trên thế giới. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về tín ngưỡng Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu như Pla tôn, Hêghen...đều xuất phát từ thực thể tinh thần như "ý niệm", "ý niệm tuyệt đối" để lý giải các hiện tượng lịch sử trong đó có tín ngưỡng. Nhìn chung, họ đều cho rằng, lịch sử xã hội là lịch sử biến đổi của tinh thần, ý thức. Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh kỳ bí thuộc "tinh thần" tồn tại vĩnh hằng là cái chủ yếu đem lại sinh khí cho con người. Như vậy, lấy "tinh thần" hoặc "ý thức" để thay thế con người hiện thực, con người xã hội, chủ nghĩa duy tâm tư biện đã thần bí hóa hiện tượng tín ngưỡng, không thấy được mối quan hệ giữa con người với thế giới hiện thực, không thấy được mặt xã hội của tín ngưỡng. Ôttô và một số nhà triết học duy tâm chủ quan cho tín ngưỡng là thuộc tính vốn có trong ý thức của con người, là sản phẩm mang tính nội sinh của ý thức, tồn tại không lệ thuộc vào hiện thực khách quan. Quan điểm thần học về tín ngưỡng 6 Các nhà thần học như Tô mát Đa canh, Phôntilích, Klêmachơ, J.Oát, Etôrôtcho,vv...xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí ở đó chứa ẩn sức mạnh siêu nhiên có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc. Niềm tin vào cái thiêng, cái siêu nhiên ở đây chính là niềm tin vào thượng đế. Như vậy, niềm tin vào cái "tối thượng" là tiêu chí quyết định của tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng được xem như niềm tin tôn giáo. Một số nhà tôn giáo đương đại cho rằng: "tín ngưỡng không phải là một thứ thế giới quan tư biện, cũng không chỉ là tin và niềm tin, nó là một thứ thái độ sinh tồn, một thứ tự lý giải" (1) Quan điểm thuần túy xã hội học về tín ngưỡng Các nhà xã hội học tư sản như Spenser, Durkheim, M.Weber từ giác độ xã hội học đã có những cái nhìn mới về tín ngưỡng, tôn giáo. Spenser,Durkheim coi xã hội như là một hiện thực siêu hình được nuôi dưỡng bằng một ý thức tập thể. Mà ý thức tập thể được tạo bởi những niềm tin, những tình cảm của mỗi thành viên. Niềm tin và ý thức tôn giáo chính là xạ ảnh của đời sống xã hội. Trong xã hội, các thành viên của một tập thể có một tín ngưỡng chung. Tín ngưỡng là một yếu tố tạo nên sự cố kết và thống nhất của tập thể, của nhóm xã hội. Đó là niềm tin vào cái thế tục và cái thiêng liêng. Cái thế tục và cái thiêng liêng là tính chất chung của mọi tín ngưỡng, tôn giáo. Durkheim cho rằng, tín ngưỡng là những trạng thái tư tưởng, nằm ở các biểu tượng và được thể hiện thông qua các nghi lễ thờ cúng. Theo ông, tín ngưỡng "tô tem" của người nguyên thủy vừa là biểu tượng của thần linh (cái thiêng) vừa là biểu tượng của cộng đồng xã hội (cái thế lực) là tín ngưỡng phổ biến trong xã hội nguyên thủy. M.Weber xem tín ngưỡng, tôn giáo như là cách nhìn của con người về thế giới, là thái độ ứng xử của các cá nhân và các nhóm xã hội, đặc biệt là thái độ đối với kinh tế. Tín ngưỡng, tôn giáo trong một kiểu, dạng cụ thể như "một dạng đặc biệt của hoạt động trong cộng đồng" gắn với "các thế (1) Thông tin khoa học xã hội chuyên đề: Tôn giáo và đời sống hiện đại, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1977, t.2, tr.12-13. 7 lực siêu nhiên". Thông qua các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo cụ thể ông đã thấy sự tác động đáng kể của tín ngưỡng, tôn giáo đối với đời sống tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm phiến diện khác về tín ngưỡng Freud tiếp cận tín ngưỡng bằng phương pháp phân tâm học. Ông cho rằng, tín ngưỡng là sản phẩm của vô thức, là "sự thăng hoa", "niềm hân hoan" của người nguyên thủy trong tục "ăn thịt vật tổ", "bữa tiệc vật tổ", một lễ hội mà có lẽ trước đó nhân loại chưa hề được biết đến, chính là sự lặp lại, sự tưởng nhớ tới hành động tập thể lớn lao ấy mà vào thời điểm ban đầu chứa đựng biết bao ý nghĩa: đó là tổ chức xã hội, những hạn chế về đạo đức, là tôn giáo. hình thức tôn giáo đầu tiên, theo ông là tín ngưỡng tô tem. Tylor, từ góc độ nhân loại học, xem tín ngưỡng, tôn giáo là "lòng tin vào những vật linh", các vật ấy là mama hay wakan mang tính siêu nhiên và đều có linh hồn. Ông cho rằng mặt trời và các vì tinh tú, cây cối và sông ngòi, gió và mây trở nên những tạo vật sống động và cũng có cuộc sống như người và sinh vật. Max Muller, từ góc độ ngôn ngữ học, xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào các vị thần. Thần có nguồn gốc trong các hiện tượng trong tự nhiên. Sự xuất hiện của các vị thần là do "căn bệnh của ngôn ngữ", do sự hỗn độn trong hệ thống danh từ, là sự nhân cách hóa về thần linh. Là hiện tượng biến đổi của ngôn ngữ: nomina - numina, lúc đầu một hiện tượng nào đó chỉ là một cái tên gọi sau trở thành một thần linh. W.Schmidt đi từ góc độ dân tộc học để xem xét tín ngưỡng. Theo ông, tín ngưỡng chẳng qua là hình thức tôn giáo nguyên sơ - tiền tôn giáo, là niềm tin vào một vị chúa vĩ đại và vĩnh hằng, nhân từ và sáng tạo đang ngự trị ở trên trời. Tín ngưỡng là hiện tượng phổ biến có ở giai đoạn đầu của mọi dân tộc. Jablokov, Troibi, Đaosơn, Malinốpxki, trên bình diện văn hóa học, xem tín ngưỡng, tôn giáo là một yếu tố của văn hóa, là một hiện tượng văn 8 hóa. Trong văn hóa nói chung có văn hóa tôn giáo và nó được cấu thành từ hai yếu tố chính là ý thức tôn giáo và nghi lễ thờ cúng. Tín ngưỡng, tôn giáo là hiện thực hóa sự tồn tại của con người qua những hoạt động mang ý nghĩa và nội dung tôn giáo được truyền lại cho các thế hệ sau, được họ gìn giữ, tiếp thu. Tóm lại, các cách tiếp cận trên về tín ngưỡng do hạn chế lịch sử và lợi ích giai cấp đã đi đến những kết luận chưa có cơ sở khoa học. Theo quan điểm duy tâm, tín ngưỡng là hiện tượng thần bí, siêu thực, chỉ có thể cảm nhận, tin chứ không lý giải được, hoặc cũng chỉ là hiện tượng tự nhiên mang tính bẩm sinh. Ở đây các nhà duy tâm, thần học đã sai lầm, vì họ xuất phát từ một thực thể tinh thần, ý thức để lý giải một hiện tượng khác cũng thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần là tín ngưỡng, tôn giáo. Quan điểm xã hội học chủ yếu đi sâu phân tích chức năng xã hội học, vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo, song lại phân tích tín ngưỡng, tôn giáo tách rời đời sống tinh thần phong phú của con người, không thấy được ranh giới các hiện tượng tôn giáo và các hiện tượng phi tôn giáo. Quan điểm nhân loại học, ngôn ngữ học lại chỉ đi sâu vào việc nghiên cứu đối tượng sùng bái của tín ngưỡng, tôn giáo như thần linh, đấng tối cao...do vậy, chỉ có giá trị và thích hợp với các loại hình tôn giáo nguyên thủy, không thấy được tính phổ biến, tính thích hợp đối với các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác. Quan niệm sinh học, tâm lý học đi sâu nghiên cứu sự thể hiện nội tâm, đó là niềm tin, tâm lý tôn giáo, song lại chưa thấy được mặt xã hội của tín ngưỡng, tôn giáo. Quan niệm văn hóa về tín ngưỡng có ưu điểm là làm nổi bậc tính đa dạng, phong phú và phức tạp của tín ngưỡng, song lại có hạn chế là hòa đồng tín ngưỡng vào văn hóa nói chung, không thấy được cái đặc thù của tín ngưỡng là cái thiêng rất được đề cao, do đó không xác định được đối 9 tượng của ngành khoa học mới là tôn giáo học Như vậy để có cách nhìn khách quan, tổng thể và khoa học đối với hiện tượng tín ngưỡng cần phải có phương pháp tiếp cận khoa học, đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử với hệ thống các quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể, hệ thống cấu trúc. 1.1.2. Quan điểm triết học Mac-Lênin về tín ngưỡng. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về tín ngưỡng. C.Mác cho rằng: "Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy"(1). Như vậy, tín ngưỡng về bản chất không phải là sản phẩm của thần thánh, là cái siêu nhiên, thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Là một hiện tượng xã hội, không tách rời xã hội, mang bản chất xã hội, tín ngưỡng cũng là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, chịu sự quy định của đời sống vật chất. C.Mác cho rằng, cần phải "xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của đời sống ấy" (2). Ở đây không phải tinh thần, ý thức quyết định đời sống hiện thực mà là ngược lại. Ý thức, trong đó có ý thức tôn giáo, chỉ là ý thức của những cá nhân, cộng đồng người trong xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Tín ngưỡng, tôn giáo có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn, có đặc điểm riêng và ngày càng phân hóa từ thực tiễn vật chất trong quá trình phát triển của lịch sử. Theo tiến trình phát triển của lịch sử, của tiến bộ và văn minh nhân loại, của hoạt động thực tiễn, tính thần bí của tín ngưỡng dần dần được làm rõ. Đó là mối quan hệ giữa tín ngưỡng và hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ các phạm trù mang tính tư biện như (1) (2) C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.3, tr.12 C.Mác và Ph.Ăngghen: sđd, t.3, tr.37 - 38 10 "tự ý thức", "tinh thần tuyệt đối", "ý chí thánh linh" để giải thích lịch sử, coi đó là tiền đề để hư cấu lịch sử. Ngược lại, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, hoạt động sản xuất vật chất là điểm xuất phát của lịch sử nhân loại. Lịch sử, xét cho cùng là lịch sử của hoạt động sản xuất vật chất. Lịch sử nhân loại bắt đầu từ đâu thì tư duy lôgic bắt đầu từ đấy, lịch sử nhân loại phát triển như thế nào thì tư duy lôgic cũng diễn biến như thế ấy. Trong tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen, các ông đã xem sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành và phát triển của các hiện tượng mang tính lịch sử xã hội trong đó có tín ngưỡng, tôn giáo. Các ông xem tín ngưỡng, tôn giáo không tách rời lịch sử. Tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, một sản phẩm của thời đại lịch sử nhất định. Thời đại C.Mác, Ph.Ăngghen sống trong xã hội phương Tây, tín ngưỡng thường được hiểu là tín ngưỡng tôn giáo và cụ thể là tín ngưỡng Cơ đốc giáo. Giai cấp tư sản trước đó, trong cuộc đấu tranh chống phong kiến, đã giương cao lá cờ tự do tín ngưỡng, bởi vì theo C.Mác "để có thể đả kích vào những quan hệ hiện tồn thì cần phải xóa bỏ cái vòng hào quang thiêng liêng của chúng". "Vòng hào quang" của chế độ phong kiến phương Tây là tín ngưỡng cơ đốc giáo. Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản phương Tây chống lại quyền lực thế tục phong kiến, lúc đầu núp dưới lá cờ chống tín ngưỡng Cơ đốc giáo. Sự phê phán tôn giáo của giai cấp tư sản, về cơ bản được kết thúc bởi quan điểm duy vật của Phoiơbắc. C.Mác và Ph.Ăngghen trong quá trình phát triển của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đề cập tới vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ở nhiều khía cạnh khác nhau, và trong các hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau với các khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng Cơ đốc giáo. Hai ông cho rằng, về cơ bản tín ngưỡng không khác gì thần linh, hai cái đều là tôn giáo đang ngự trị con người. Ở đây, tín ngưỡng với hàm nghĩa tín ngưỡng tôn giáo. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác cho rằng, tự do tín 11 ngưỡng của giai cấp tư sản chẳng qua chỉ là các loại tự do tín ngưỡng tôn giáo. Giai cấp vô sản không chỉ dừng lại ở tự do tín ngưỡng tôn giáo, nghĩa là tự do tín ngưỡng vô thần. Rằng "quyền tự do tín ngưỡng" tư sản chẳng phải cái gì khác là sự dung thứ đủ các loại tự do tín ngưỡng tôn giáo, còn Đảng thì ngược lại, ra sức giải thoát lương tri của con người ra khỏi bóng ma tôn giáo. Quyền tự do của con người, trong đó có quyền tín ngưỡng là quyền phổ biến, quyền "được" mộ đạo theo bất luận kiểu nào, được hành đạo theo tôn giáo riêng của mình. Đặc quyền tín ngưỡng là một quyền phổ biến của con người. Có người, căn cứ vào ý tưởng trên của C.Mác, Ph.Ăngghen lại cho rằng lý luận của chủ nghĩa cộng sản là "tín ngưỡng" của giai cấp vô sản, là "tín ngưỡng khoa học", là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân bị áp bức. Trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: "Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay"(1). Theo C.Mác, tổ chức Quốc tế Cộng sản I, mặc dù là "tiếng nói đầu tiên của một xã hội mới" song nó cũng không cần có một "tượng trưng của tín ngưỡng" nào. Vấn đề là phải tổ chức, giáo dục giai cấp vô sản, làm cho họ có niềm tin vững chắc vào tương lai của xã hội mới do chính họ tạo nên. Bên cạnh đó, các học giả Việt Nam trước kia và hiện nay cũng nêu quan niệm của mình về tín ngưỡng. Các học giả như Phan Kế Bính, Nhất Thanh, Toan Ánh, Tân Việt...tiếp cận tín ngưỡng từ giác độ văn hóa dân gian, xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, phong tục, tập quán, truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đặng Nghiêm Vạn xem tín ngưỡng là một yếu tố chính của tôn giáo, quy định sức mạnh của tôn giáo đó với cộng đồng. Nguyễn Chính cho tín (1) C.Mác và Ph.Ăngghen: sđd, t.3, tr.51 12 ngưỡng là tín ngưỡng tâm linh, là hạt nhân của tín ngưỡng tôn giáo. Đó là niềm tin, sự trông cậy và yêu mến một thế giới siêu nghiệm mà con người với kinh nghiệm và tri thức đã có chưa lý giải được. Tô Ngọc Thanh cho tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những điều, những sự vật, những nhân vật nào đó. Niềm tin này không thể lý giải bằng lôgic thông thường vì nó đối lập với tư duy khoa học. Nguyễn Văn kiệm lại cho rằng "tín ngưỡng, nếu hiểu theo nghĩa của từ croyance (tiếng pháp) không phải là một từ để chỉ một tôn giáo". Tín ngưỡng trong trường hợp này chỉ nên hiểu là một niềm tin tôn giáo, và mỗi tín đồ của một tôn giáo nào đó đều có tín ngưỡng của mình, khác với tín ngưỡng của tín đồ tôn giáo khác. Nói cách khác, "tín ngưỡng là thuộc tính đương nhiên của mỗi tín đồ của một tôn giáo nào đó"(1). Nguyễn Quốc Phẩm xem tín ngưỡng, theo nghĩa hẹp là niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người và thường gắn với niềm tin tôn giáo. Theo nghĩa rộng, tín ngưỡng là khái niệm có nội hàm hẹp hơn tôn giáo, thuộc ý thức xã hội, phản ánh niềm tin, sự ngưỡng mộ của quần chúng nhân dân vào các lực lượng siêu nhiên ít nhiều mang màu sắc tôn giáo. Nguyễn Chí Bền từ góc độ văn hóa, xem tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành của văn hóa được thể hiện thông qua nghi lễ thờ cúng, là lòng ngưỡng mộ, thành kính với những thế lực có ảnh hưởng đến quan hệ với con người. Như vậy, khác hẳn các nhà triết học duy tâm lấy ý thức, tín ngưỡng, tôn giáo để giải thích lịch sử, coi tín ngưỡng tôn giáo là phạm trù vượt qua lịch sử, là cái thần bí, vĩnh hằng. Họ lấy sự biến thiêng của tín ngưỡng, tôn giáo để phân định lịch sử. Các nhà triết học macxit lấy lịch sử để giải thích tín ngưỡng và đi đến nhận định chung mang tính khách quan, khoa học là: tín ngưỡng cũng là một hiện tượng lịch sử, là sự phản ánh điều kiện kinh tế - xã hội của các thời đại, có quá trình hình thành, biến đổi và có ảnh hưởng nhất định đối với tiến trình lịch sử. (1) Thông tin khoa học xã hội chuyên đề: Sdd, tr.5-6. 13 Xuất phát từ quan điểm hệ thống - cấu trúc, triết học macxit xem tín ngưỡng như là một hiện tượng lịch sử và đồng thời cũng là một bộ phận của ý thức xã hội có quy luật hình thành và tồn tại riêng. Tín ngưỡng vừa là một "chỉnh thể" hoàn chỉnh, song lại là một "yếu tố" trong chỉnh thể lớn, đó là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Khi nghiên cứu tín ngưỡng không thể tách tín ngưỡng khỏi các lĩnh vực của đời sống tinh thần, trong các mối quan hệ qua lại với các loại hình ý thức xã hội khác như tôn giáo, đạo đức, chính trị, pháp quyền... Là một hiện tượng lịch sử, tín ngưỡng có quá trình hình thành rất sớm, hình thức biểu hiện lại rất phong phú, đa dạng. Do đó, nghiên cứu tín ngưỡng không nên chỉ dừng lại ở những yếu tố đặc trưng nhất như niềm tin vào thực thể thiêng liêng và nghi lễ thờ cúng mà còn cần phải nghiên cứu tính đa dạng qua các loại hình tín ngưỡng. Mỗi loại hình tín ngưỡng là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có của một kiểu xã hội, điều kiện tồn tại các tộc người, các đẳng cấp, giai cấp, các nền văn hóa khác nhau. Một loại hình tín ngưỡng, do đó mang tính địa phương, cục bộ. Yếu tố bên trong của tín ngưỡng thường quy định nội dung của tín ngưỡng. Đó là ý thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của chủ thể. Yếu tố bên ngoài của tín ngưỡng thường được quy định bởi hình thức biểu hiện. Đó là hệ thống lễ nghi được biểu hiện thông qua tập tục, thói quen, truyền thống...Tín ngưỡng nói chung là một bộ phận của ý thức xã hội phản ánh những quan hệ xã hội hiện tồn. Tín ngưỡng, theo cách hiểu thông thường là tín ngưỡng tôn giáo. Thực ra về mặt nội dung và hình thức phản ánh thì tín ngưỡng và tôn giáo tuy có sự tương đồng song cũng có sự khác biệt. Sự tương đồng biểu hiện ở chỗ: Một là, tín ngưỡng và tôn giáo đều là sự phản ánh hư ảo của ý thức xã hội về tồn tại xã hội và chịu sự quy định của chính tồn tại xã hội đã sinh ra chúng. Đó còn là sự phản ánh của nhận thức, là một cách lý giải của con người về các hiện tượng xung quanh cuộc sống của chính con người. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức và 14 nguồn gốc tâm lý trong quá trình hình thành và tồn tại, đều có chức năng đền bù xoa dịu nỗi đau hiện thực và hướng tới sự giải thoát về tinh thần. Ph.Ăngghen cho rằng: "tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế" (1) và bên cạnh những lực lượng thiên nhiên, lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy" (2). Như vậy, tín ngưỡng và tôn giáo đều là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng đã sinh ra chúng, thể hiện sự bất lực của con người trước những lực lượng tự nhiên và xã hội. Nhìn tổng quát, bên cạnh một số yếu tố mang tính tích cực thì mặt tiêu cực của tín ngưỡng tôn giáo là chủ yếu. Hai là, tín ngưỡng và tôn giáo đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người vào một thực thể siêu việt nào đó như Thượng đế, Thần, Phật, Tổ tiên...Niềm tin trong tín ngưỡng tôn giáo là trạng thái tâm lý đặc biệt của chủ thể nhận thức. Chủ thể của niềm tin là các cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp trong xã hội. Niềm tin được hình thành trên cơ sở những thông tin nhất định về khách thể để bù đắp sự thiếu hụt thông tin của chủ thể, được thể hiện thông qua các ý niệm, biểu tượng tôn giáo. Nội dung của nó là trạng thái tâm lý của chủ thể với những định hướng giá trị nhất định. Trạng thái tâm lý này là cơ sở cho sự tri giác về sự chuyển dịch tính khả năng thành sự tin tưởng trong nhận thức của chủ thể. Sự xuất hiện và tồn tại của niềm tin được quy định bởi trình độ, khả năng nhận thức của chủ thể. Niềm tin tôn giáo được hình thành trong sự tù túng, bất lực của con người trước hiện thực của cuộc sống. Họ không làm chủ được mình hoặc "đánh mất mình" và có nhu cầu được đền bù, xoa dịu bằng niềm tin vào lực (1), (2) C.Mác và Ph.Ăngghen: sđd, t.20, tr.437 ( 15 lượng siêu nhiên. Nó được hình thành và tồn tại trên cơ sở tình cảm, tâm lý tôn giáo. Bản chất của niềm tin tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và khả năng cứu giúp con người của thần thánh. Như vậy, niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng là hạt nhân của tín ngưỡng và tôn giáo. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có chức năng đền bù hư ảo nỗi đau khổ hiện thực của con người. Ba là, tín ngưỡng và tôn giáo đều có hệ thống nghi lễ, bao gồm những biểu tượng mang tính thần thánh, những điều răng dạy, kiêng kỵ. Hệ thống các nghi lễ là hình thức, phương tiện để chuyển tải ý thức, niềm tin tôn giáo. Nó giữ vai trò quan trọng cho sự hòa nhập cộng đồng, nâng sức mạnh của con người lên trên bản thân mình và giúp họ cảm nhận về thế giới của thần linh. Trong các hình thức tín ngưỡng và tôn giáo, nghi lễ thường là cái ràng buộc khắt khe tín đồ vào các lực lượng siêu nhiên, làm họ mất tự do trong mối quan hệ với hiện thực. Bên cạnh những điểm giống nhau, giữa tín ngưỡng và tôn giáo cũng có những điểm khác nhau, biểu hiện ở chỗ: Thứ nhất, tín ngưỡng xét về mặt lôgic hình thức, là khái niệm có nội hàm hẹp hơn tôn giáo. Bởi tôn giáo nào cũng đều là tín ngưỡng, song không phải mọi hình thức tín ngưỡng đều là tôn giáo. Thí dụ, các tôn giáo lớn như Phật giáo có tín ngưỡng về Phật, Kitô giáo có tín ngưỡng về chúa Kitô, Hồi giáo có tín ngưỡng về Thánh Ala thông qua các nghi lễ tôn giáo. Còn các tín ngưỡng thờ tô tem (vật tổ), thờ mẫu, thờ tổ tiên, thờ thần mặt trời, thần nước...đều không phải là tôn giáo. Bởi vì, chúng thiếu hoặc chỉ là sự thể hiện mờ nhạt những đặc trưng cơ bản của tôn giáo như: đấng sáng tạo, giáo chủ, hệ thống tổ chức , hệ thống giáo lý, kinh sách và hệ thống các điện thờ... Thứ hai, tín ngưỡng được hình thành trực tiếp từ cuộc sống phong phú, đa dạng, chủ yếu do xúc cảm, kinh nghiệm mang lại. Nó là sự phản ánh thiếu sự tinh chắt, sàng lọc, khái quát, hệ thống và thiếu cơ sở lý luận 16 chặt chẽ, có cơ sở thế giới quan là chủ nghĩa duy tâm. Khi nghiên cứu nguồn gốc ra đời của đạo Cơ đốc, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, đạo Cơ đốc "đã lặng lẽ ra đời từ sự hỗn hợp của thần học Đông phương đã được khái quát, nhất là thần học Do thái, với triết học Hy Lạp đã được thông tục hóa, nhất là triết học khắc kỷ" (1) các tôn giáo thường giải thích thế giới xuất phát từ một thực thể tinh thần khách quan có trước sáng tạo ra và chi phối thế giới, như Thượng đế, Thánh, Thần...Hệ thống kinh sách của các tôn giáo rất đồ sộ với những quan niệm về bản thể, nhân sinh, những luận giải, chứng minh cho sự đúng đắn của đức tin tôn giáo. Những quan niệm ấy được diễn đạt qua các hệ thống khái niệm cơ bản như: linh hồn, thượng đế, thiên đường, địa ngục... Thứ ba, tín ngưỡng có kết cấu đơn giản, nó hình thành và tồn tại dựa trên cơ sở niềm tin vào các phép lạ, đấng siêu nhiên, vào thế giới vô hình như thần linh, tổ tiên, âm ty, địa ngục, ma, quỷ...Niềm tin ấy mang tính huyễn hoặc, mờ ảo, không rõ ràng, chưa đạt đến trình độ khát quát cao, mang tính đơn giản, dựa vào sự cảm nhận của chủ thế. Nó thường không cần nhiều đến sự lý giải một cách lôgic và gắn liền với các tập tục, thói quen, truyền thống của cộng đồng người. Còn tôn giáo thì có kết cấu phức tạp với các yếu tố thế giới quan, nhân sinh quan, ý thức, tâm lý, tình cảm, niềm tin, đức tin... Ở tôn giáo, niềm tin đặc biệt được đề cao, song cũng đòi hỏi sự lý giải mang tính hệ thống, lôgic, được xây dựng và củng cố trên cơ sở thế giới quan tôn giáo. Các chức sắc trong tổ chức tôn giáo thường tuyên truyền, củng cố và khẳng định niềm tin tôn giáo thông qua các hoạt động tôn giáo được tiến hành định kỳ. Trong các yếu tố của tín ngưỡng và tôn giáo, cùng với niềm tin thì nghi lễ hết sức quan trọng. Song, nghi lễ được thực hiện trong tín ngưỡng mang tính đơn giản. Còn với tôn giáo, nghi lễ là yếu tố đặc biệt được coi (1) C.Mác và Ph.Ăngghen: sđd, t.21, tr.446 17 trọng. Nó mang tính hệ thống, được quy định chặt chẽ bởi giáo lý, giáo luật, được duy trì thường xuyên, có tổ chức và mang tính bắt buộc với tín đồ. Các yếu tố khác trong tôn giáo như đấng sáng tạo, giáo chủ, kinh sách, giáo lý và tổ chức giáo hội rất điển hình, có quy mô lớn và theo hệ thống chặt chẽ. Đó chính là các yếu tố tạo nên thế giới tôn giáo. Nhờ đó, các tôn giáo bao giờ cũng là thực thể xã hội to lớn, có tác động không nhỏ đến đời sống xã hội. Còn với tín ngưỡng, các yếu tố này tỏ ra mờ nhạt, mang tính sơ khai, tự phát. Khi đề cập đến sự tương đồng và khác nhau giữa tín ngưỡng với tôn giáo cũng cần làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín, mê tín với dị đoan. Bản thân tín ngưỡng và tôn giáo thường chứa đựng những yếu tố mê tín, là mảnh đất để mê tín phát triển. Nếu như tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng mộ của chủ thể vào lực lượng siêu nhiên, niềm tin ấy ít nhiều cũng là niềm tin dựa trên cơ sở thế giới quan và nhân sinh quan nhất định, nếu không thì cũng là sự tin theo phương pháp tu hành, tin theo một tôn giáo nào đó; thì mê tín chỉ là niềm tin mù quáng, mê muội vào những cái thần bí như thần, thánh, ma, quỷ, số mệnh, bùa phép...không dựa trên cơ sở thế giới quan hay phương pháp tu hành của tổ chức tôn giáo nào. Mê tín thường đối lập với lẽ phải, thường gây ra hậu quả xấu đối với con người và xã hội. Mê tín đến mức độ cuồng tín, mê muội, mất lý trí, suy đoán tùy tiện, tin vào những điều quái dị, không có trong thực tế thì trở thành mê tín dị đoan. Trong xã hội, những người do trình độ nhận thức hạn chế, suy đoán tùy tiện, hay tin vào các phép lạ như lên đồng, bói toán, yểm tà, trừ ma... thường dễ mắc phải mê tín dị đoan, bị những người xấu lợi dụng, làm tổn hại tiền bạc, sức khỏe thậm chí nguy hại đến tính mạng. Mê tín và mê tín dị đoan là những hiện tượng phản khoa học, phản văn hóa. Trong lịch sử, các giai cấp, dân tộc thường vì lợi ích của giai cấp, dân tộc mình mà gán cho tín ngưỡng của dân tộc khác cái mù "dị giáo" và lấy cớ đó để thôn tính, đàn 18 áp. Những người theo chủ nghĩa tín ngưỡng thường phủ nhận chân lý khách quan, khẳng định niềm tin tôn giáo. Trong xã hội hiện đại, chủ nghĩa tín ngưỡng có những biểu hiện rất tinh vi, nó không hoàn toàn phủ nhận khoa học, nó chỉ phủ nhận sự "kỳ vọng quá đáng" của khoa học, chính xác là "sự kỳ vọng chân lý khách quan" Trong thực tế, các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín và mê tín dị đoan thường tồn tại đan xen lẫn nhau, chúng đều có bản chất chung là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, là sự phản ánh hư ảo hiện thực; sự khác nhau giữa chúng rất khó phân biệt. Căn cứ vào những đặc trưng cơ bản của tín ngưỡng trên cơ sở phân biệt sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo thì khái niệm tín ngưỡng trên cơ sở 5 đặc trưng sau: 1. Xem tín ngưỡng gắn với đời sống tinh thần nói chung. 2. Xem tín ngưỡng như là kết quả của sự hình thành và phát triển các quan hệ xã hội, có tác động trở lại các quan hệ đó. 3. Xem tín ngưỡng như là phương thức biểu hiện niềm tin của con người vào cái thiêng liêng, biểu hiện sự bất lực của họ trước sức mạnh thống trị của lực lượng tự nhiên và xã hội. 4. Xem tín ngưỡng như là một hiện tượng lịch sử - văn hóa có quy luật hình thành và vận động, biến đổi riêng. 5. Xem tín ngưỡng như là một bộ phận của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, triết học, lịch sử, nghệ thuật, khoa học, chính trị,vv... Sự tổng hợp, đan xen của 5 đặc trưng trên tạo thành lát cắt bởi các quan điểm giao nhau nói lên đặc trưng chung của tín ngưỡng. Từ những đặc trưng ấy, có thể quan niệm: Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình lịch sử - văn hóa, là sự biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lý xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng trong xã hội. 19 1.2. Tín ngưỡng phồn thực của người Chăm 1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng phồn thực Theo “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh: “Phồn: cỏ tốt, nhiều Thực: đầy đủ - phồn thực: nẩy nở ra nhiều”, “Sinh thực khí: Sinh: đẻ ra Sinh thực khí: cơ quan của động, thực vật dùng để sinh thực”. Tác giả Hồ Thị Hồng Lĩnh đưa ra khái niệm như sau: Người ta cầu mùa màng tươi tốt để duy trì cuộc sống và con người phải sinh sôi nảy nở để tồn tại và phát triển, từ đó phát sinh cái gọi là tín ngưỡng phồn thực: Tín ngưỡng=niềm tin; phồn=nhiều, thực=nảy nở. Có nghĩa là niềm tin vào sự nảy nở ra nhiều vật. Một khái niệm nữa cũng cho biết: tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng cầu mong sự sinh sôi nảy nở về con người, cầu phồn thịnh trong sản xuất, thịnh vượng của mùa màng và các cơ quan sinh sản được đặc tả để nói về ước vọng phồn sinh. GS.VS.TSKH Trần Ngọc Thêm trong công trình “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” cho rằng: Tín ngưỡng phồn thựctín ngưỡng cầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người . T.S Lê Văn Chưởng trong “Cơ sở văn hóa Việt Nam” cũng đưa ra khái niệm: Tín ngưỡng phồn thực là sự tôn sùng và tin tưởng về sự sinh sôi nảy nở nhiều. Tín ngưỡng phồn thực là một biểu hiện của triết lý truyền sinh, nó ở trong quĩ đạo tư duy lưỡng hợp. Tác giả Nguyễn Thị Nhung trong bài viết “Tín ngưỡng phồn thực của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận” cũng đưa ra định nghĩa mang tính tổng quát: Tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng dân gian thể hiện ước vọng về sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người. Tất cả các khái niệm trên tuy mỗi khái niệm có mỗi cách diễn đạt khác nhau nhưng đều có một điểm chung đều nói về sự sinh sôi nảy nở. Dựa trên cơ sở, nền tảng kế thừa và tiếp thu khái niệm của các tác giả trên có thể đưa ra khái niệm: “Tín ngưỡng phồn thực là một hình thức tín ngưỡng dân gian thể hiện sự cầu mong, ước vọng về sự sinh sôi nảy nở, no đủ, sinh tồn của tự nhiên và con người và được thể hiện dưới các hình thức biểu hiện mang tính phô diễn dưới dạng âm dương, đực 20 Tải về bản full

Từ khóa » Tiêu Luận Tín Ngưỡng Phồn Thực Của Người Chăm