Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh

Important AnnouncementPubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am. PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

PUB HTML5 Logo
  • EN English Deutsch Français Español Português العربية ไทย Bahasa Melayu Türkçe 繁體中文
  • EN
    • Browse Browse Hot Browse Latest Online Magazines
    • Features
    • Support
    • Sign in
    • Quick Upload
    • Quick Upload
    • Browse
      • Browse Hot
      • Browse Latest
      • Online Magazines
    • Features
    • Support
    • Go Premium
    • Sign in
    • English
    • Deutsch
    • Français
    • Español
    • Português
    • العربية
    • ไทย
    • Bahasa Melayu
    • Türkçe
    • 繁體中文
    Home Explore Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Published by TỦ SÁCH ONLINE, 2022-01-08 01:11:26

    Description: Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh

    Search

    Read the Text Version

    • 1
    • 2
    • 3
    • 4
    • 5
    • 6
    • 7
    • 8
    • 9
    • 10
    • 11
    • 12
    • 13
    • 14
    • 15
    • 16
    • 17
    • 18
    • 19
    • 20
    • 21
    • 22
    • 23
    • 24
    • 25
    • 26
    • 27
    • 28
    • 29
    • 30
    • 31
    • 32
    • 33
    • 34
    • 35
    • 36
    • 37
    • 38
    • 39
    • 40
    • 41
    • 42
    • 43
    • 44
    • 45
    • 46
    • 47
    • 48
    • 49
    • 50
    • 51
    • 52
    • 53
    • 54
    • 55
    • 56
    • 57
    • 58
    • 59
    • 60
    • 61
    • 62
    • 63
    • 64
    • 65
    • 66
    • 67
    • 68
    • 69
    • 70
    • 71
    • 72
    • 73
    • 74
    • 75
    • 76
    • 77
    • 78
    • 79
    • 80
    • 81
    • 82
    • 83
    • 84
    • 85
    • 86
    • 87
    • 88
    • 89
    • 90
    • 91
    • 92
    • 93
    • 94
    • 95
    • 96
    • 97
    • 98
    • 99
    • 100
      Pages:
    • 1 - 50
    • 51 - 100

    óng mượt và thoang thoảng mùi hương đưa cho vua xem. Nhà vua đón lấy ba mớ tóc tiên ngắm nghía rồi hết lời khen ngợi, vua nói: - Còn vàng cốm và râu rồng, ngươi biết ở đâu có thì cứ đi mà lấy! Ai chối từ không cho ta sẽ hạ chiếu chỉ. Mồ Côi tâu vua: - Vậy thì xin bệ hạ hãy ra chiếu chỉ ngay cho, hai món vật quý ấy chỉ có quan tể tướng của triều đình mới có. Tể tướng tái mặt, căm tức nhìn Mồ Côi. Lão nghĩ bụng: \"Chết thật! Cái thằng này làm sao mà nó biết rõ mồn một!\". Quả là trong mấy chục năm trời làm tể tướng, nhờ tài vơ vét, lão mới gom góp được ba chum vàng cốm và ba yến râu rồng mà cất đặt vào nơi rất kín để làm của dưỡng lão sau này. Tuy vậy lão vẫn tin rằng Mồ Côi không thể nào tìm kiếm được nơi cất giấu của quý nên lão nói: - Được! Bỏ của quý ra để cưới vợ cho nhà vua ta không tiếc, nhà ngươi chỉ không đúng sẽ phải tội chém đầu. Mồ Côi mỉm cười, chàng mời vua cùng bách quan văn võ đi theo chứng kiến. Vừa bước chân vào vườn quả của nhà tể tướng, Mồ Côi nhìn khắp một lượt. Ở đây có tất cả ba trăm cây mận, ba trăm cây đào và ba trăm cây mơ. Trong bụng tể tướng nghĩ: \"Tìm cho ra được mấy chum vàng cũng còn mệt\", nhưng hắn đã xỉu đi khi thấy Mồ Côi chỉ cho quân lính đào rất đúng chỗ chôn ba chum vàng cốm, mặt mày hắn tím bầm lại như gà bị toi, răng nghiến ken két. Chỉ một lúc quân lính khiêng lên ở mỗi gốc cây một chum vàng đầy ắp. Tất cả các quan, các tướng và nhà vua hết sức kinh ngạc, không ngờ Mồ Côi lại thông tỏ đến nhường ấy.Đoàn quan quân lại theo Mồ Côi đến ao sau dinh tể tướng. Ở đây chàng tự lặn xuống ao lấy râu rồng, chàng nhằm đúng góc có râu rồng mà lặn thẳng xuống. Mỗi lần lặn xuống ngoi lên, chàng lại ôm lên một yến râu rồng. Chàng lặn ba lần lấy lên đủ ba yến. Vua và các quan ai nấy đều cảm phục. Duy chỉ có lão tể tướng là căm gan tím ruột. Nhà vua tiến lại vỗ vai chàng, hết sức khen ngợi và hứa sẽ thưởng công xứng đáng khi chàng làm xong việc. Sáng hôm sau, Mồ Côi đem theo lễ vật ra đi, chiếc lá vừa thả xuống biển, thuyền rồng đã hiện ra đưa chàng thẳng đến Thủy cung. Vua Thủy tề chỉ có một nàng công chúa nên yêu quý vô cùng. Bao nhiêu vị vua các nước láng giềng đã từng sai sứ đến cầu hôn, nhưng đều không thành chỉ vì không đủ ba thứ lễ vật vua thách. Lần này Mồ Côi đem theo đủ sính lễ, vua Thủy tề không thể từ chối được đành phải cho công chúa theo Mồ Côi lên trần. Lấy được công chúa Thủy cung làm vợ, nhà vua hết sức sung sướng. Trong buổi lễ, nhà vua ra chiếu chỉ phong chàng chức Thái bảo. Thấy vậy lão tể tướng tức tối đến nổ mật nổ gan lăn đùng ra chết. Theo lời kể của cụ Hoàng Đức Bảng, xã Hồng Việt, Hòa An, Cao Bằng Nguồn: Truyện cổ Tày Nùng, Hoàng Quyết sưu tầm và biên soạn, Nxb. Văn hóa, H., 1986.TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Chàng Mồ Côi Mất Tai, Mất Tóc Ngày xưa, có một chàng thanh niên mồ côi cha mẹ từ tấm bé, được người làng nuôi cho lớn khôn. Người ta quen gọi chàng là Mồ Côi. Mồ Côi càng lớn càng làm khỏe. Không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai bữa ăn. Thấy chàng cần cù, và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và các em bé đều quý mến. Những ngày mưa to gió lớn, chàng không đi làm được thì các cô gái rủ nhau đem gạo sang nhà giúp. Thấy vậy một vài chàng trai trẻ trong làng đem lòng ghen ghét. Họ tìm cách hãm hại Mồ Côi. Một hôm, Mồ Côi bị ốm. Trai làng xúm lại đánh đến sứt mặt, mẻ trán giữa lúc chàng đang cùng một cô gái làng đi làm đồng về. Chàng bị đau nhừ cả người, nằm mấy ngày chưa lại sức. Thấy bọn con trai ghét mình, chàng bèn chạy sang làng bên làm thuê, gánh mướn nuôi thân. Nhưng đến ở làng này chưa lâu, chàng lại bị bọn trai làng rủ nhau sang gây chuyện và đánh đập. Mồ Côi lại phải bỏ làng này ra đi một lần nữa. Lần này chàng định đi kiếm ăn ở một nơi rất xa. Chàng đi ba ngày liền, đến một làng nhỏ ven rừng hẻo lánh. Chàng vào một nhà phú ông xin ở thuê. Phú ông thấy Mồ Côi khỏe mạnh, nhanh nhẹn, liền nhận lời giao cho chàng công việc hái trám. Nhưng khi nhìn rừng trám rộng mênh mông, cây nào cũng to bằng hai bangười ôm và cao thẳng vút lên trời, Mồ Côi lắc đầu, lè lưỡi. Phú ông ngon ngọt dỗ dành và hứa sẽ trả công cao. Trèo xong rừng trám, lão sẽ trả cho năm trăm lạng bạc. Lão còn bày cách bắc thang tre để trèo. Công việc leo trèo thật vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng vì thấy phú ông đối đãi có vẻ tốt, nên Mồ Côi không tiếc sức. Từ đó, ngày nào chàng cũng trèo thang lên ngọn cây trám, cầm sào vụt rụng từng chùm quả trám chín xuống đất. Phú ông cùng vợ và con cái thả sức thu lượm đưa ra chợ bán. Một tháng rưỡi trôi qua, với cây sào và cái thang, Mồ Côi leo hết cây trám này đến cây trám khác. Phú ông cũng thu về hết món bạc này đến món bạc kia. Hôm ấy, Mồ Côi trèo đến cây trám thứ hai trăm cũng là cây trám cuối cùng. Thấy sắp phải tính công trả cho Mồ Côi số bạc hơn năm trăm lạng, phú ông gọi vợ đến bàn mưu tính kế. Sáng hôm ấy, vợ chồng phú ông dậy từ lúc gà gáy, sai con nấu cơm làm bữa mời Mồ Côi. Cơm nước xong, Mồ Côi lại theo gia đình phú ông vác sào ra rừng trám. Sau khi Mồ Côi đã trèo đến ngọn cây, thì ở dưới gốc, phú ông sai con rút lấy thang tre về nhà, mặc cho Mồ Côi ở trên cao kêu la ầm ĩ. Chàng cố tìm cách tụt xuống, nhưng loay hoay nửa buổi cũng không tìm ra cách gì cả. Thân trám thẳng tắp, to bằng hai người ôm, không thể bấu víu vào đâu để tụt xuống được. Thế là từ đấy, chàng phải sống trên ngọn cây trám như loài khỉ vượn. Đói bụng, chàng phải hái quả trám ăn sống. Khát nước, chàng liếm từng giọt sương đêm đọng trên từng chiếc lá. Đêm cũng như ngày chàng không dám ngủ say, ăn hết quả trám, chàng phải ăn đến lá. Ăn hết lá, chàng phải ăn đến vỏ. Một buổi sáng, trời hửng nắng, Mồ Côi cởi chiếc áo cánh phơi lên mộtcành cây trước mặt. Giữa lúc ấy có một con gấu ngựa đi qua dưới gốc cây. Trông thấy cái áo của Mồ Côi, nó tưởng là một tổ ong, liền trèo lên định ăn mật. Gấu đến bên cái áo, mắt nó lim dim để tránh ong đốt vào mắt như thói quen của nó, rồi nhoài người ra ngoạm lấy cái áo cánh nhai ngấu nhai nghiến. Thấy thế, một ý nghĩ táo bạo mới nảy ra trong óc Mồ Côi. Nhằm lúc con gấu nhắm tịt cả hai mắt và mải nhai cái áo, Mồ Côi liền nhè nhẹ tụt xuống, cưỡi ngay lên lưng con gấu, hai tay ghì chặt lấy cổ. Gấu bị ôm bất thình lình, hốt hoảng nhưng không dám buông tay, đành phải cõng cả Mồ Côi tụt xuống gốc. Khi gấu còn cách mặt đất hai, ba sải, Mồ Côi vội nhảy xuống đất bỏ chạy. Gấu cũng chạy đuổi theo Mồ Côi. Mồ Côi cố sức chạy mãi vào rừng. Bỗng có một cái hang sâu chắn ngang trước mặt, chàng đành phải nhảy liều xuống hang, gấu không dám nhảy theo. Mồ Côi nhờ vậy thoát được. Nhưng từ đây, chàng lại lâm vào một cảnh khổ cực nguy hiểm mới. Hang tối om om. Chàng phải lần mò từng bước chân để tìm một lối đi ra ngoài. Chàng đi mãi trong hang nhưng đi tới đâu cũng chỉ thấy tối như bưng. Xung quanh chàng chỉ có những con dơi bay đi bay lại. Chúng bay qua đầu chàng dứt từng sợi tóc, từng mảnh da. Bao nhiêu ngày ở trong hang phải chịu cực hình như thế. Mặc dầu vậy chàng cố len lỏi đi hết góc hang này, lại dò đi sang góc hang kia mong tìm một lối thoát. Chợt một hôm chàng lần tới một chỗ nọ có một tia ánh sáng lọt vào. Chàng vui mừng khấp khởi. Nhưng về sau mới biết đó chỉ là một lỗ thông thiên chứ không phải là cửa hang. Tuy vậy chàng cũng cố vịn vào vách đá trèo lên để vượt ra ngoài. Nhưng sức chàng đã yếu lắm, đã năm bảy lần leo lên được vài ba sải tay, rồi lại ngã xuống chỗ cũ. Một hôm, trong khi nằm ngất trong hang, chàng thấy một ông cụ đầu tóc bạc phơ, tay cầm một cái rìu và một hòn đá thần đến gần. Ông cụ bảo:- Ta là thần núi; thấy con khổ cực quá nên đến cứu con đây! Ta cho con một cái rìu. Nó sẽ cho con cơm ăn, áo mặc. Ta cho con hòn đá thần này. Con đem rìu mài vào hòn đá này thì lưỡi rìu sẽ sắc. Con kỳ hòn đá này vào da, da sẽ trở nên trắng trẻo và đẹp đẽ. Cuối cùng ta cho con viên thuốc này, nó sẽ cho con sức khỏe vượt hang. Nói xong, thần núi chống gậy đi mất. Mồ Côi tỉnh dậy, nhặt viên thuốc bỏ vào mồm. Tự nhiên thấy người nhẹ nhõm lạ thường. Chàng giắt cái rìu và hòn đá vào thắt lưng, rồi leo theo vách thẳng lên lỗ thông. Khác với những lần trước, lần này chàng trèo nhanh thoăn thoắt, chỉ một lát đã tới lỗ thông hơi và nhìn thấy ánh sáng bên ngoài. Chàng nhắm mắt lại một lúc rồi đu người ra khỏi hang. Chàng lần xuyên qua rừng. Đến quá trưa, tới bờ một con sông cái. Chàng men theo bờ, xuôi theo dòng. Đi được một quãng chàng gặp một ông cụ tiều phu. Nhìn thấy Mồ Côi mặt mũi gớm ghiếc, đầu không còn sợi tóc, da dẻ sần sùi, hai vành tai sứt lở, áo quần rách nát, ông cụ bỏ chạy. Mồ Côi đuổi theo kể mọi nỗi gian lao của mình cho ông nghe. Ông cụ bảo chàng giúp mình đốn củi và phát nương rồi sẽ đưa về nhà. Mồ Côi liền lấy cái rìu mài vào hòn đá thần. Cái rìu trở nên rất sắc. Chàng chỉ chặt một lúc đã được một đống củi chất đầy cả một gian nhà. Tối hôm ấy, chàng được ăn nghỉ ở nhà ông cụ. Ông cụ có sáu cô con gái. Các cô đều đã đến tuổi lấy chồng. Thấy bố dắt về một chàng trai gớm ghiếc, các cô con gái, trừ cô út, đều tránh xa. Họ nói với bố đuổi ngay ra khỏi nhà. Ông cụ phải mắng mãi các cô mới chịu im. Cuối cùng các cô bảo bố cho Mồ Côi ra ở lều ngoài nương để chàng vừa phát thêm rẫy vừa coi lúa. Hàng ngày các cô sẽ luân phiên nhau đưa cơm, bắt đầu từ cô cả. Để khỏi giáp mặt với Mồ Côi, cô cả đem một cái mõ treo lên một gốc câyở đầu nương cách lều khoảng một trăm bước. Cô gõ mõ một hồi ba tiếng rồi đặt nắm cơm ở gốc cây, gọi Mồ Côi đến lấy cơm ăn. Đoạn, ba chân bốn cẳng quay trở về nhà, không cần biết Mồ Côi có nghe hay không. Lần lượt bốn cô em tiếp sau cũng bắt chước làm như cô chị. Duy chỉ có cô út đến lượt mình đưa cơm, cô không bỏ nắm cơm ở dưới gốc cây, cũng không gõ mõ như các chị, mà đi vào tận lều, trao tận tay Mồ Côi. Trong khi Mồ Côi ăn cơm, cô ngồi lại. Cô hỏi thăm sức khỏe, quê quán, gia đình của chàng. Cô cố ý ngồi chờ cho Mồ Côi ăn xong rồi mới về nhà. Từ ngày ra ở lều, Mồ Côi vẫn làm việc như ông cụ dặn. Sáng nào chàng cũng mài rìu vào hòn đá thần cho rìu thêm sắc để chặt được nhiều cây. Chiều nào chàng cũng ra suối tắm, lấy hòn đá thần kỳ vào người, quả nhiên da dẻ chàng dần dần trở lại hồng hào, tuấn tú hơn trước. Bẵng đi một thời gian, chàng không thấy cô út đến đưa cơm. Tự nhiên thấy buồn buồn nhớ nhớ, chàng cho là cô út cũng bắt chước các chị đặt cơm nắm ở gốc cây, rồi vội vã trở về nhà ngay, không biết rằng cô út bận sang giúp việc nhà bà cô ở làng bên. Sau đó ba tháng, cô út lại về nhà bố. Cô lại đem cơm vào lều cho Mồ Côi. Nhưng cô không thấy chàng Mồ Côi xấu xí mọi ngày mà chỉ thấy một chàng trai mặt mày sáng sủa, da dẻ hồng hào, đầu tóc gọn ghẽ thì lấy làm ngạc nhiên, vội hỏi: - Chàng là ai? Chàng ở đâu đến? Chàng có biết anh Mồ Côi bị dơi ăn mất vành tai, rứt hết mái tóc trước đây coi nương ở lều này không? Biết là cô út không nhận ra mình nữa vì là mình đã nhờ đá thần thay đổi nhiều lắm. Nhưng Mồ Côi chỉ gật đầu chào cô út, không thưa, không rằng. Cô út hỏi tới hai, ba lần mà chàng chỉ cười chứ không nói một lời. Thấy vậy, cô út đặt nắm cơm xuống sàn, quay ra cửa nhìn về phía rừng gọi Mồ Côi. Cô gọi tới hai ba tiếng, vẫn không có tiếng trả lời.Gọi xong cô út xuống thang đi vào rừng tìm. Cô tìm khắp bốn góc nương lại hú gọi luôn mồm nhưng vẫn không thấy. Cô đành chạy một mạch về nhà. Ngày hôm sau, đến lượt cô cả đi đưa cơm. Cô út xin đi thay. Cô định hôm nay phải tìm cho bằng được Mồ Côi mới thôi. Nhưng cô lại chỉ thấy anh chàng trắng trẻo hôm qua. Cô hỏi nhưng chàng trai cũng chỉ cười đáp lại chứ không nói. Cô đặt nắm cơm xuống sàn rồi quay ra cửa định vào rừng tìm. Lần này Mồ Côi không thể làm thinh được nữa, chàng nói: - Cô út ơi! Cô không phải đi tìm nữa. Xin cô thứ lỗi vì tôi đã làm cô phải mất công tìm kiếm. Bây giờ tôi đã rõ hết lòng dạ của cô đối với tôi rồi. Tôi chính là cái anh Mồ Côi mất tai mất tóc ngày nọ đây. Cô út quay lại, hết sức ngạc nhiên, cô nói: - Chàng đấy à? Sao chàng thay đổi thế này? Mồ Côi sung sướng trả lời: - Cô út ạ! Nhờ có hòn đá thần này mà tôi đã dần dần trở lại lành lặn như thế này đây. Rồi chàng kể lại cho cô út nghe những việc làm trong thời gian qua. Từ hôm ấy, ngày nào cô út cũng thay các chị vào nương đưa cơm. Thấy em út chịu khó đưa cơm thay, các cô chị rất thích, không cần hỏi duyên cớ vì sao. Duy chỉ có ông cụ thì hơi lấy làm lạ. Một hôm ông lẻn đi theo rình xem cho rõ sự tình. Nấp ở trong bụi, ông cụ không thấy anh chàng Mồ Côi xấu xí hồi nọ, mà chỉ thấy một chàng trai trẻ đẹp, nói nói cười cười với con gái út của mình. Chờ cho con về, ông cụ vào lều hỏi xem chàng trai nọ là ai. Sau khi nghe kể, ông cụ mới rõ chàng trai chính là anh chàng Mồ Côi mất tai, mất tóc.Tối hôm ấy, ông cụ gọi cả sáu con gái lại hỏi: - Anh chàng Mồ Côi ở với ta đã lâu ngày. Chàng rất chăm làm và làm rất khỏe. Bố vừa lên nương xem thì thấy một mình chàng không những đã trông nom rất chu đáo nương lúa, nương ngô, mà còn phát gốc, chặt cây, được rất nhiều nương rẫy. Vì vậy, bố rất mến, bố muốn kén chàng vào làm rể nhà ta. Có đứa nào bằng lòng lấy chàng không? Nghe bố nói, năm cô chị nhìn nhau nhổ nước bọt phì phì và đều trả lời: - Chúng con không bao giờ bỏ phí cái tuổi thanh xuân, dấn thân làm vợ một chàng \"người không ra người, quỷ không ra quỷ\" ấy. Ông cụ hỏi cô út. Cô đỏ mặt đáp: - Cha mẹ muốn gả cho chàng, thì con cũng xin vâng. Ông cụ nhìn vợ, rồi nhìn cô út ân cần nói: - Vậy ngày mai, chúng ta sẽ sửa soạn làm lễ cưới đón rể cho con gái út của chúng ta. Sáng hôm sau, cả nhà ông cụ sửa soạn lễ cưới cho con út, tất cả họ hàng và xóm làng đều rất ngạc nhiên. Họ xì xào bảo nhau: \"Ông cụ khéo lẩn thẩn, sao lại gả cô út trẻ đẹp, hiền lành, cho cái anh chàng xấu xí ấy\". Nhưng buổi đón rể đã làm cho tất cả người họ, người làng, cũng như năm cô chị đều hết sức ngạc nhiên và ghen tị. Đi bên cạnh cô út không phải là chàng Mồ Côi xấu xí, mà là một chàng trai trẻ đẹp, vóc người vạm vỡ, da dẻ hồng hào,mặt mày sáng sủa, đầu tóc gọn gàng và nổi tiếng đốn cây, làm rẫy rất khỏe. Hoàng Quyết sưu tầm, biên soạn. Nguồn: Truyện cổ tích Việt Nam hay nhất, tập 2,Nguyễn Cừ tuyển chọn, Nxb. Văn học, H., 2002.TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Chàng Rể Cóc Vợ chồng Ca Đeng (1) lấy nhau đã lâu mà không có con. Họ đã cúng Giàng mất nhiều trâu mà vẫn chẳng ăn thua gì. Một hôm, hai vợ chồng đi rẫy về thấy một bàn chân nhỏ in trước ngõ. Người vợ liền ướm thử bàn chân mình vào đó. Ít lâu sau, bà có thai và sinh ra một con cóc. Quý giọt máu mình sinh ra, bà Ca Đeng nuôi con cóc ngày một lớn lên. Hết năm lần đổi rẫy (2) con cóc đã lớn bằng bắp chân và đã nói được tiếng người. --------- (1) Tên riêng, còn có nghĩa là người không có con. (2) Cứ một lần đổi rẫy là ba năm. Cóc bảo mẹ: - Mẹ ơi! Con muốn cây chuối nhà A Nha quá! Bà Ca Đeng thương con, liền đến nhà A Nha xin về một cây chuối. Cóc khoát tay, nhăn nhó nói với mẹ: - Không, không! Con muốn chuối mía khác cơ!Biết con mình đã lớn, mà nhà A Nha có hai cô con gái đẹp, giống nhau như đúc. Chắc nó muốn lấy một cô làm vợ. Nghĩ thế, bà Ca Đeng than vãn: - Con ơi! Nhà mình không có tiền thì làm sao. Cóc liền vào góc nhà tha ra một giỏ đầy bạc nén giấu trong trấu, bảo: - Mẹ mang cái này đi, sẽ có cả. Bà Ca Đeng nghi ngại, nhưng vì thương con, nên buồn rầu mang giỏ trấu đến nhà A Nha thưa: - A Nha ơi! Nhà anh có cây chuối tốt, có cây mía cao. Con tôi muốn xin một trong hai cây đó. A Nha tưởng là Ca Đeng lần nữa đến xin chuối, xin mía nên sai người đi chặt cho bà cây chuối tốt, một cây mía cao nhất trong vườn. Bà Ca Đeng thấy vậy liền nói thật: - Không phải đâu! Con cóc là con trai tôi muốn xin A Nha một cô gái về làm vợ. Nghe vậy, A Nha tức lắm, liền quát: - Bà này láo thật! Bà dám xin con gái tôi về làm vợ Cóc à? Nói rồi A Nha vớ lấy cây rìu phang một nhát thật mạnh vào người bà Ca Đeng. Lưỡi rìu A Nha chặt đứt dây đeo giỏ làm vung vãi những nén bạc ra trắng đất. A Nha lóa mắt, đổi giọng thành mừng, gọi hai con gái: - Hai con ơi! Ra đây. Đứa nào nhặt hết số bạc của bà Ca Đeng thì về làmdâu bà ấy. Ở đấy lắm tiền nhiều bạc. Người con gái lớn nhặt mãi, nhặt mãi bỏ đầy một giỏ bên hông, đầy giỏ sau lưng, mà bạc dưới đất vẫn còn nguyên. Người con gái mang số bạc quá nặng đến nỗi không sao nhúc nhích được một bước, liền kêu lên: - Cha ơi, làm sao con nhặt hết số bạc đó? A Nha bảo người con gái út ra nhặt tiếp. Số bạc đang nằm la liệt trên mặt đất bỗng xao động, xoay tròn và hút cả vào giỏ của cô gái út. Thấy thế, A Nha phiền muộn nói: - Ôi! Giàng muốn con út làm vợ Cóc rồi. Bà Ca Đeng ơi! Tuần trăng sau cho bà lo làm lễ Ta beng (3). ----------- (3) Người Vân Kiều lo làm lễ cưới hai lần, lễ đầu gọi là Ta beng, lễ thứ hai gọi là lễ Khơi. Bà Ca Đeng vừa mừng vừa lo, về bảo Cóc: - Con ơi! A Nha thuận gả con út cho con. Nhưng tiền đâu lo lễ cưới? Cóc hoan hỉ nói với mẹ: - Mẹ đừng lo! Bà Ca Đeng vẫn băn khoăn bảo con: - Sao không lo? Nhà mình nghèo xác thế này, A Nha hẹn cho tuần trăng sau phải cưới, A Nha không cho quá hẹn đâu.Cóc vẫn chớp mắt trả lời: - Mẹ đừng lo. Bà chỉ còn biết thở dài lo lắng. Đêm đó đợi cho cha mẹ ngủ hết, Cóc liền hóa phép mang về rất nhiều vàng, bạc, nồi đồng, ché rượu, áo, vòng cườm để lo lễ cưới. Đúng hẹn, Cóc cưới cô gái út A Nha về làm vợ. *** Cô út về làm dâu bà Ca Đeng được một năm. Cô rất thương con Cóc chồng mình, vui vẻ cùng cha mẹ chồng lo việc nương rẫy, kiếm cá, hái rau nuôi gia đình. Một đêm trăng sáng, có một người con trai đẹp hiện ra bên cạnh cô nói: - Cô gái ơi! Tôi muốn lấy cô làm vợ! Cô gái vùng ngồi dậy bảo: - Không! Tôi là bạc nén nhà người ta rồi. Chồng tôi là con Cóc. Anh có đẹp nhưng không làm chồng tôi được nữa. Người con trai cười, giễu cợt: - Cô đẹp thế sao lại lấy con cóc xấu xí! Cô gái trả lời thẳng thắn: - Giàng trời muốn thế. Cha mẹ tôi đã bảo thế! Người con trai xích lại gần bảo:- Em ơi! Em xinh như hoa pang (4), lòng trong như nước suối, lời chung thủy chắc như rìu chặt vào cây. Chính anh là con Cóc đây. ----------- (4) Hoa vông đỏ, thứ hoa mà người Vân Kiều thường ví với người con gái đẹp và những điều tốt lành. Cô gái một mực không tin, vặc lại: - Cóc thật thì anh hóa thành Cóc đi! Người con trai vụt biến đi và Cóc từ đâu lại hiện ra bên cạnh cô gái nói: - Người con trai là tôi đây. Nói rồi Cóc lại biến thành anh con trai đẹp ngồi cạnh vợ mình. Cô gái liếc thấy lốt da cóc còn bên cạnh, liền nhanh tay vớ lấy ném luôn vào bếp lửa đang cháy rực. Hai vợ chồng ở với nhau hòa thuận và sinh được một đứa con trai. Sau lễ Khơi (5), vợ chồng đem nhau về thăm cha mẹ vợ. Buổi đầu gặp mặt, cha mẹ rất nghi ngờ người rể đẹp. Nhưng khi cô gái kể lại ngọn nguồn thì cha mẹ rất mừng. Còn người chị đâm ra ganh tị với hạnh phúc của em, muốn cướp chồng em. ---------- (5) Lễ cưới lần thứ hai tổ chức ở nhà gái, sau đó cô gái mới về nhà cha mẹ đẻ được (tục cũ của người dân tộc Vân Kiều). Lừa lúc người em rể đang nói chuyện với cha, người chị bảo em: - Em ơi! Lâu ngày, nay chị em mới gặp nhau. Chị thèm đọt poòng lếnh (6)quá. Em đi kiếm cho chị một ít. ------------- (6) Rau rừng, cây như lá dong, ăn chát, có thể ăn với mắm. Cô em thật thà mang giỏ vào rừng. Thấy em đi khuất, người chị bèn gọi người em rể: - Anh ơi! Ta về nhà đi, kẻo cha mẹ trông, kẻo con khóc. Vì hai chị em giống hệt nhau, nên chàng rể Cóc tưởng vợ mình nên vội xin phép cha mẹ cùng vợ ra về. Hai người gặp một ngày hội mừng lúa mới ở một bản dọc đường. Dân bản khắp vùng đổ về dự hội. Hai người sà vào đó chung vui, cùng múa puôn a dưn (7). ------------ (7) Điệu múa phổ biến của người Vân Kiều. Cô em đi lùng đọt poòng lếnh về, thấy vắng chồng, vắng chị, vội vã băng rừng chạy đi tìm, và cũng cố đến kịp nơi có hội vui. Sau điệu múa puôn a dưn nhịp nhàng, đến lượt trai gái hát lễ theo tiếng kèn. Cô em bỗng thấy chồng rẽ đám đông ra đứng hát trước bếp lửa, đầu lắc lư hát một bài ca rất hay. Giọng anh trầm và kéo dài như gió đại ngàn vuốt bãi lau dọc đôi bờ thung rộng. Người nghe cứ lịm đi, lăn ra đất ngủ hết, người chị cũng ngủ. Riêng chỉ mình cô em mở to đôi mắt chim phượng hoàng nhìn chồng. Cô sẽ sàng đến bên chồng kéo anh băng rừng về nhà. Khi đã đi xa bản nọ, cô mới ngỏ lời trách anh:- Sao anh lại bỏ em? Ôi! Con chim xa tổ đâu dễ xa đôi? Người chồng ngạc nhiên bảo: - Có đâu thế? Anh với em vẫn đi bên nhau như đôi chim tơring toàng, như cái bóng cây pà xâu (8) đấy chứ. ------------ (8) Ý nói gắn bó quyến luyến nhau như hình với bóng. Cô em nhớ lại. Chính khi chồng mình đang hát có chị mình đứng bên. Chắc chị đã lừa em để giành lấy chồng. Người chồng cũng chợt nhớ: Khi anh cất tiếng hát, thì người vợ đi với mình đã ngủ say bên vệ cỏ. - Ôi! Sao lại thế? Từ đó hai vợ chồng từ biệt cha mẹ đi đến một nơi xa làm lụng nuôi con nhỏ. Chú bé mập mạp và lớn nhanh như thổi. Mới qua hai lần đổi rẫy, chú đã vót mũi tên, kéo dây ná. Bốn lần đổi rẫy chú đã biết vào rừng một mình săn bắn, đem về nhà những con khỉ, những con duộc to bằng người chú. Chú siêng năng đến lạ. Chẳng bao giờ thấy chú rỗi tay. Khi thì chú vào rừng săn bắn, khi thì xuống khe ném đá, mò ốc. Về nhà, chú giúp cha mẹ thổi cơm, vác nước. Những ống tre a ho (9) đựng nước để cạnh cửa bao giờ cũng đầy ăm ắp. ----------- (9) Tre a ho: Loại tre to, có đốt dài thường dùng để đựng nước. Một hôm, chú từ rừng hớt hải chạy về bảo với cha mẹ:- Cha ơi! Mẹ ơi! Con gặp một người lạ, bảo là đi tìm chàng rể Cóc. - Chú chớp mắt, hỏi thêm: - Thế chàng rể Cóc là ai? Người cha nhìn xa xăm bảo: - Chẳng còn chàng rể Cóc nữa đâu. Cha đấy! Chú bé trố mắt hỏi vặn: - Vậy cha là chàng rể Cóc à? Người cha cười, vừa lúc đó có một người lạ mặt leo lên sàn nhà. Người cha đon đả đón khách: - Ôi! Con chim nào vạch hướng cho anh đến đây? Người khách quen là người của A Nha, hấp tấp nói: - Ôi! Con chim khôn đậu cành cao, con người khôn không ở nơi xa vắng. Anh phải về gấp. Có nhắc (10) đến phá bản A Nha. Lũ nhắc đang chiếm rừng, cướp của dân bản ta đấy. ----------- (10) Nhắc: Loài quỷ ác, bọn giặc cướp. Người cha còn lưỡng lự thì chú bé đã nói: - Cha ơi! Lũ nhắc có phải như hổ đói trong rừng, như thuồng luồng dưới nước không? Người cha gật đầu, liếc nhìn cây ná nhẵn bóng mắc ở góc sàn, chú bé thì nhìn ống tên đã vơi của mình. Chú thưa với cha:- Con đi vót thêm đầy hai ống tên, cha nhé! Người khách can: - Cháu à! Đây là việc của người lớn. Con chim non chỉ nên lượn bắt sâu quanh tổ. Nghe khách nói, mặt chú bé đỏ lên, môi mím chặt. Người cha biết ý, vỗ về chú: - Con à! Con chim nhỏ biết theo đàn vẫn có thể bay xa. Người khách mỉm cười với chú. Sáng hôm sau, chú cùng cha xách ná, mang ống tên từ biệt mẹ, lên đường đi đánh nhắc. Chú bé biết mình đang đi làm việc lớn, nên cũng gắng công luyện tập. Sáng sáng, khi mặt trời mới lấp ló đầu núi, chú đã ra đứng nhìn về hướng về phía đó luyện cho mắt mình nhìn ánh sáng chói chang của mặt trời. Chú giương ná nhiều lần cho tay thêm chắc. Có khi chú vác cả những tảng đá to gần bằng người chú để tập chạy leo dốc, xuống đồi. Chú lại tập nhảy qua những khe nhỏ, sau phóng vượt được cả những khe lớn. Cha chú lại dạy chú phóng lao. Đường lao của chú xé không khí, nổ như một tiếng sét, đâm xuyên cả những cây to ba người ôm không xuể! Lúc đầu chú mới phóng xa được mười sải tay. Nhưng rồi, vừa đi, vừa tập, chẳng bao lâu mũi lao sáng loáng của chú cũng được phóng vút đi trong không khí lóa ra như một tia chớp. Ngày vừa đi vừa luyện tập, đêm leo lên cành cao ngủ, chẳng mấy chốc hai cha con đã đến đầu bản của A Nha. Lòng thương bản xác xơ, các túp nhà sàn xiêu vẹo, người cha rất đỗi đau lòng, nói với con:- Con à! Cái nhà cuối bản kia là nơi mẹ con đã sống, là nơi cha đến cưới mẹ con về làm vợ. Nhà sàn xiêu vẹo giữa bản kia là nơi ông ngoại đã sống từ nhỏ đến nay, râu tóc đã bạc trắng như sương mù. Bọn nhắc đến phá hủy tất cả rồi đấy. Chú bé mải ngơ ngác nhìn, nay nghe rõ lời cha thì nghiến răng, hai tay nắm chặt, chú nói: - Thế bọn nhắc ở đâu? Người cha thì thầm: - Ta chờ xem! Bỗng đâu, nghe đá núi rừng phía trước đổ ào ào, xen lẫn có cả tiếng rít như tiếng tru của một đàn chó sói đang vây mồi. Người cha nắm chặt tay chú bé, bảo: - Nó đây! Chú bé giằng khỏi tay cha, giọng cả quyết: - Để con đi giết chúng. Người cha buông tay con căn dặn: - Con ơi! Lưỡi rìu sắc thử chặt gỗ ca cha (11), mũi lao nhọn thử lao vào bụng hổ. Con đi đi! ----------- (11) Gỗ cứng, gỗ tán.Chú bé cầm ngang cây lao, nhảy đại ba bước đã đứng giữa bản trống người. Mắt chú ngầu đỏ như có lửa cháy. Tiếng chú vang to như sấm động: - Ơ lũ nhắc tàn ác! Đứa nào dám phá bản làng ông bà ta? Đứa nào to gan, ra đây ta xem mặt. Những tiếng rít như tiếng chó sói tru từ phía rừng lại nổi lên. Liền đó một lũ nhắc khoang vằn vện, mặt khỉ, tay vượn, cầm đá, cầm gộc lao về phía chú. Chú đứng dang chân trên đất bản, giương ná bắn liền mười mũi tên xuyên ngang giết đến bốn, năm tên nhắc. Bọn nhắc còn sống sót hoảng loạn, chùn cả lại thành một đống. Lại thêm mười mũi tên nữa từ ná chú bay ra. Thêm vài chục nhắc nữa ngã gục. Bọn nhắc quay đầu tháo chạy. Chú bé thấy thế cầm lao nhọn rượt đuổi theo. Bỗng từ phía sau có tiếng gọi giật giọng: - Dừng lại, con ơi! Chú bé chỉ kịp đứng lại, đã thấy ngay trước mặt mình một con nhắc phụt (12) to đến nỗi chú phải nhảy lùi ra một quãng xa mới nhìn được bộ mặt đầy lông lá xám mốc của nó. -------- (12) Quỷ đầu đàn, tướng giặc cướp. Con nhắc phụt nhe răng cười, nghe như tiếng thác đổ trong lòng núi. Mỗi chiếc răng của nó to như một cái vỏ dao, hai tay lông lá của nó sần sùi như hai khúc gỗ chò. Khi nó khoát tay thì cây rừng đều dạt hẳn về một phía. Nhắc phụt hỏi chế giễu:- Ơ con kiến nhỏ! Mày có phải con chàng rể Cóc không? Kêu cha mày đến đây ta hỏi. Chú bé mím môi, dốc toàn lực phóng mũi lao về phía nó. Nó vẫn đứng nguyên, đưa tay đón mũi lao như vớ một chiếc đũa rơi. Giữa lúc chú bé đang lúng túng, vì trong tay đã hết vũ khí, thì nghe một tiếng nổ như sét và một tiếng rú to làm dậy đất, bật tung chú lên ngang tầm đỉnh núi cao giữa vùng. Khi rơi trở lại mặt đất, chú cảm thấy dưới chân mình đất mềm dập dềnh. Thì ra chú đang đứng giữa bụng con nhắc phụt đã chết. Vì tiếng sét chính là tiếng mũi lao của chàng rể Cóc, cha chú, từ phía rừng phóng ra, cắm đúng vào giữa tim con nhắc phụt. Giết hết lũ nhắc, hai cha con vội vàng vào rừng tìm gia đình ông ngoại và dân bản. Suốt một tuần trăng, hai cha con mới tìm ra họ đang bị lũ nhắc nhốt ở một cái hang trong núi sâu. Quanh đó có nhiều của cải quý giá do bọn nhắc đi ăn cướp về tích trữ lại. Cha con, ông cháu, bà con dân bản gặp nhau, mừng mừng, tủi tủi, nước mắt, tiếng cười cùng đổ ra một lúc lâu. A Nha sung sướng cho người đi đón con gái út về cùng hưởng ngày vui thắng trận. Hội vui kéo dài đến ba ngày ba đêm. Trong ngày hội đó, chàng rể Cóc và con trai đem chia hết của cải vừa thu được của lũ nhắc cho dân bản. Bản xa, bản gần đều hân hoan phấn khởi. A Nha cho chàng rể Cóc và cháu ngoại làm chủ cả vùng.Dân bản nổi trống, chiêng mừng người chủ mới tài giỏi của mình. (Truyện cổ dân tộc Vân Kiều) Mai Văn Tấn sưu tầm, biên soạnTRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Chàng Trai Thật Thà Vợ chồng nhà kia, sau trận ốm nặng, lần lượt qua đời, để lại hai người con trai đã lớn. Anh cả lấy vợ; tìm cách chiếm hết của cải của bố mẹ, rồi mắng mỏ em, tìm mọi cớ đuổi em ra khỏi nhà. Em chỉ có hai bàn tay cùng túp lều xiêu vẹo dựa vào chân núi. Đói, em thường phải vào làng ăn xin. Ba mùa đông rét lạnh, đói khổ đã trôi qua như vậy. Người em chỉ còn da bọc xương. Ngày ngày khẳng khiu như thân cây cháy. Cực quá, nghĩ đi nghĩ lại, em tìm tới nhà người anh xin cứu giúp. Vợ chồng anh không cho, bảo: - Mày vay chúng tao rồi mày lấy gì trả được. Còn mày xin chúng tao nhiều quá rồi. Bây giờ có coi nương lúa cho tao thì tính công mà ăn. Người em vui lòng, lên rừng chặt vầu vác lá ra nương làm lều ở luôn đó canh mùa màng cho anh chị không dám rời chân, lơi mắt. Lúa đã tụ sữa, hương bay thơm phức một vùng. Có con chim rừng tìm đến kiếm ăn. Xua một lần nó đến hai lần. Xua hai lần nó đến ba lần. Chắc chim đói. Người em thương chim nhưng lo cho thân mình và rất sợ cơn giận dữ của anh chị, liền cầm gậy đuổi chim và định bụng tìm tới tổ chim. Chim vỗ cánh bay về phía núi cao. Người em cứ mải miết lúc chạy, lúc đi, bám đá leo lên, lên mãi. Vừa lúc chân tay rã rời thì mắt chàng nhìn thấy một ngôi nhà xinh xắn nằm gọn trên đỉnh núi. Chàng chớp mắt mấy lần nhìn lại, ngôi nhà vẫn đứng đó. Đúng là một ngôi nhà thật. Quên cả mệt mỏi, chàng bám đá cố lần tới. Càng đếngần, ngôi nhà càng sừng sững đẹp như trong mơ. Chưa bao giờ chàng mơ thấy ngôi nhà đẹp như thế. Thận trọng, sợ sệt, chàng đi sang bên phải nhà, ra sau nhà, tới bên trái nhà; một vòng rồi hai vòng, chàng tìm kẽ hở ghé mắt nhìn vào. Không có ai ở trong. Ngôi nhà hoàn toàn im lặng. Chàng trở lại phía trước khẽ đẩy cửa bước vào, cố tránh tiếng động. Đồ đạc trong nhà xếp gọn ghẽ, chắc nhà có chủ, nhưng chủ đi đâu? Mặt trời đã lấp lửng dưới chân núi, chàng trai tò mò, lặng lẽ leo lên gác sát mái nằm rình. Trời vừa tối hẳn thì chợt có tiếng động phía cửa, cửa mở, một người rồi hai người, tới bảy người bước vào nhà. Toàn là đàn bà. Họ trò chuyện vui vẻ, tới bếp lửa thổi cho sáng rồi quây quần sưởi ấm. Đó là bảy cô gái xinh đẹp. Một cô đứng dậy tới chạn lấy một quả gì dài dài như cánh tay, đi ra bếp, đứng thẳng người, hai tay ôm dọc quả trước ngực. Đó là một quả khô. Cô gái lắc đi lắc lại mấy cái, có tiếng hạt lạo xạo bên trong, mồm lầm rầm ước: \"Một mâm cơm ngon\", ba lần như vậy. Chưa đầy chớp mắt, chàng trai đã thấy mâm cơm thịt giữa nhà. Khói canh bay thoang thoảng thơm ngon. Khi các cô gái ăn uống xong, lại bếp lửa thì mâm bát tự nhiên biến mất. Các cô lấy chỉ màu ra thêu áo, thêu khăn. Chàng nghèo nằm không dám cựa mình rồi mệt quá, chàng thiếp đi lúc nào không biết. Chàng trai sực tỉnh. Trời đã sáng. Chim núi đang hót đầu nhà. Các cô gái đã dậy từ bao giờ. Cô bé xinh đẹp nhất ra chạn bát lấy quả khô lắc như đêm trước. Nhưng khi ăn xong, bảy chủ nhân xinh tươi vội vã đi làm ngay. Ngôi nhà lại im như người câm. Chàng nghèo vội vã lần xuống đất, ra chạn bát đem quả khô lên nương. Đã hai ngày qua, không hạt bắp, hạt gạo vào bụng, chàng đói meo, mắt hoa, chân bước không thẳng đường. Chàng vội nhóm lửa sưởi rồi hai tay ôm quả khô trước mặt đứng trước bếp lắc mấy cái, hạt khô trong quả reo lạo xạo và chàng lầm rầm ước câu: \"Một mâm cơm ngon\" balần, chỉ trong chốc lát mâm cơm thịt ngon lành như chàng mong đợi đã ở trước mặt. Chàng nghèo ăn thỏa thuê rồi ngả lưng ngủ một giấc say quên trời, quên đất, tới chiều tối hôm sau mới tỉnh. Quả thần nằm lăn lóc gần đó. Chàng bồi hồi ngắm vật quý và nghĩ tới bà con trong bản mấy năm qua đã giúp đỡ, thương xót trong lúc mình nghèo đói. Anh muốn đền ơn mọi người. Anh giắt quả lên mái lều rồi tới từng nhà trong xóm mời người già, người trẻ tới lều mình ăn bữa cơm mà chàng gọi là bữa cơm trả nghĩa. Bà con thương cảnh nghèo nhưng quý đức tính hiền lành của chàng trai nên đều tò mò kéo đến túp lều xiêu vẹo trên nương núi, họ rất ngạc nhiên trước những mâm cơm cỗ đầy đặn như lòng chủ nhân. Ai cũng mừng cho chàng đỡ khổ và khen chàng còn ít tuổi mà đã biết sống có trước có sau. Người anh cả và chị dâu cũng được mời, nhưng không thèm tới. Anh nghĩ thằng em nghèo rớt mà mời ăn là chỉ cốt vòi tiền. Chị dâu nghĩ: Bàn chân mình không phải để bước tới nơi bẩn thỉu đó. Chuyện về bữa rượu thịt sang trọng, hiếm có từ túp lều xiêu vẹo của chàng trai khốn khổ đã lan xa. Người anh không kìm nổi tính tò mò, gọi em tới tra hỏi. Hắn một mực đổ cho em đã ăn cắp lúa nương của hắn bán đi để mua rượu thịt mời cả bản ăn uống, và dọa đuổi em đi. Người em kể lại đầu đuôi việc bắt được quả thần. Hắn bắt người em phải nộp quả thần. Nhưng người em lại nghĩ tới bảy cô gái xinh đẹp bị đói vì mất vật ước. Chàng không đành lòng liền ước một bữa ăn cuối cùng để lấy sức leo lên núi, đem quả thần trả lại cho chủ nhân. Người anh liền bảo em đổi quần áo rách cho hắn rồi ở nhà, để hắn một mình một gậy lên núi theo hướng tay của em. Ù tai, sụm gối, mồ hôi ra ướt đầm mấy lần áo, nhưng người anh vẫn gượng gắng, bám đá leo mãi lên cao. Hình ảnh quả thần luôn luôn trong đầu hắn và tiếp sức cho hắn, hắn bò dần tới đỉnh núi và thấy ngôi nhà xinh xắn. Hắn vội lánh vào nhà, leo lên gác bếp nằm rình. Chập tối bảy cô gái đi làm về. Các cô đoán có sự lạ vì cửa không khép chặt như lúc họ đi làm. Họ khêu lửa cho sáng nhà, mỗi cô tìm một chỗ. Mộtlúc sau họ lôi được anh chàng tham lam từ trên gác bếp xuống. Hắn run lẩy bẩy đứng không vững. Cô thứ nhất kết tội: \"Đúng hôm trước mi lấy quả quý của chúng ta\". Cô thứ hai nói: \"Mi làm chúng ta vất vả mấy ngày vì đi làm mệt quá lại lo nấu ăn\". Cô thứ ba nói: \"Chúng ta phải lo giã gạo vì thiếu vật ước\". Cô thứ năm nói: \"Chúng ta phải lo lấy nước vì thiếu vật ước\". Cô thứ sáu, cô thứ bảy nói: \"Chúng ta không thêu khăn, thêu áo được vì mất nhiều công rửa bát\". Chỉ riêng cô thứ tư là không nói gì. Mọi người đồng thanh kết tội tên lạ mặt vào nhà lúc vắng người chỉ có ăn cắp. Mỗi cô nói xong câu của mình lại véo mũi anh chàng một cái, mỗi lần bị véo xoắn, mũi anh chàng lại sưng vù to dần ra. Tới cái véo thứ bảy thì mũi của tên tham lam đã lòng thòng tới rốn. Ngay trong đêm tối, anh chàng bị đuổi khỏi nhà, lần từng bước xuống núi. Cứ mỗi lần chân vấp đá thì mũi hắn cũng nhói đau vì đầu mũi đập vào bụng. Suốt đêm, hắn vừa đi hai chân, vừa đi \"bốn chân\" mò mẫm tới gần sáng mới khập khiễng về đến nhà, không kịp nói, hắn nằm vật ra đất thiếp đi, chiều mới trở mình thức giấc. Mũi sưng vù, dài thõng, đau nhức và rất vướng. Hai con mắt hắn bị mũi nặng kéo xuống dài ra, trông bộ mặt thấy kỳ dị. Hắn không ăn được, uống rất khó vì không há được rộng mồm. Người hắn gầy rộc đi, mắt lờ đờ, chân tay như dính vào giường. Vợ chồng hắn bây giờ mới nghĩ tới em trai, may ra đứa em khốn khổ có cách nào cứu anh chăng? Chị dâu đành phải bước chân tới lều nương khẩn khoản cầu cứu em chồng. Chàng bảo chị dâu cứ về, chàng sẽ đến thăm. Chàng nghĩ tới chuyện cũ, chưa muốn đi ngay, vả lại, đau cái mũi chết sao được. Hôm sau người đàn bà lại đến, chị ta không cầm được nước mắt cầu khẩn. Chàng trai đáp: \"Em biết gì mà cầu cứu chữa. Em có phải là thầy thuốc đâu?\". Mãi tới chiều ngày thứ ba, để cho vợ chồng người anh mỏi mắt chờ trông và gần như tuyệt vọng, người em mới lững thững tới. Chàng bảo anh nhắc lại lời hứa. Người anh không ngồi dậy được, khẽ thều thào, hứa khi khỏi bệnh sẽ chia nửa gia tài cho em. Chàng nghèo khuyên anh yên tâm ăn cháo,đừng nghĩ ngợi, mai chàng sẽ trở lại. Chàng dặn lại: \"Nếu anh thật thà thì thế nào cũng khỏi bệnh\". Người em tìm đến ngôi nhà trên đỉnh núi, khéo léo lách vào, đóng cửa cẩn thận và nằm tít trên cao ở gác mái. Chọn được chỗ náu mình kín đáo thì cũng vừa tối. Lát sau bảy cô chủ nhà son trẻ cười cười nói nói, ríu rít đẩy cửa vào. Ăn uống xong, họ chợt nhớ tới tên trộm hôm nào. Một cô nói: \"Thật buồn cười cho tên tham lam\". Cô khác tiếp: \"Hắn không biết phép chữa mũi thì mũi còn đau\". Cô thứ ba: \"Không há miệng ăn cơm được, ốm yếu mãi cũng chết\". Cô thứ tư nói: \"Có khó gì, chỉ lấy quả khô lắc lắc rồi gõ nhẹ vào chỗ đau và nói \"sống thật thà\" ba lần là mũi khắc co lại thôi mà!\". Chàng nghèo vui quá. Biết chắc môn thuốc thần tiên. Chàng thầm cảm ơn các cô gái. Đêm khuya dần. Các cô gái vẫn khơi lửa nói chuyện, thêu thùa. Mệt quá, chàng trai ngủ một giấc say. Lúc chàng sực tỉnh, ngôi nhà đã như không chủ. Nắng xuyên thẳng màn sương dày đặc. Hẳn là các cô gái đã đi làm từ lâu. Chàng vội giấu quả thần vào người, xuống núi, đi về phía nhà anh. Chàng giấu vật báu một nơi rồi mới vào gặp anh chị. Mặt người anh sưng đỏ mọng, mắt híp chặt, mũi như to hơn. Da trắng bợt và chân tay đã tóp lại. Chàng báo cho anh chị biết thế nào chàng cũng cứu được. Anh chị hết lời van nài, hứa hẹn. Chàng nghèo ra sau nhà lấy vật ước và làm y như lời các cô gái bàn nhau. Quả nhiên, mỗi khi người em gõ nhẹ vào quả và nói \"sống thật thà\" ba lần thì mũi người anh cứ co dần. Chẳng mấy chốc cái mũi lại xinh xẻo như xưa. Vợ chồng anh mừng quýnh, ôm em khóc nức nở và chia của cải cho em như đúng lời đã hứa. Người em xin phép anh đi trả lại của quý cho các chủ nhân trên đỉnh núi. Đen đủi cho chàng, hôm ấy các cô gái nghỉ ở nhà. Chàng vừa khẽ đẩy cửa lách vào thì các chủ nhân sững sờ lo ngại. Nhưng vẻ mặt chàng trai hồn nhiên, nói cho rõ ý định của mình. Các cô gái bỗng đổi hẳn nét mặt. Họ mờianh sưởi lửa, và để đền bù tính thật thà, ngay thẳng của anh, họ bàn nhau cho anh chọn một cô về chung sống. Dường như đã nghĩ sẵn, chàng nghèo nhìn thẳng vào cô gái trẻ nhất, lại đẹp nhất. Thế là họ đem quả thần ra ước một bữa tiệc. Tiệc vui biến thành tiệc cưới. Sáng hôm sau, chàng trai cùng vợ mới cưới về xóm núi làm ăn, hưởng gia sản chung với anh. Đôi vợ chồng sống trong cảnh hạnh phúc hiếm có. Lê Trung Vũ sưu tầm, biên soạn Nguồn: Truyện cổ tích Việt Nam hay nhất, tập 2, Nguyễn Cừ tuyển chọn, Nxb. Văn học, H., 2002.TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Chiếc Cầu Phúc Đức Ngày xưa, có anh chàng chuyên sống về nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc được nhiều, có lúc được ít, nhưng trong nhà không bao giờ có của để dành. Hai mẹ con chàng thường phải chịu bữa ăn, bữa nhịn. Một hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng ôn lại cho chàng nghe cuộc đời của ông và cha chàng xưa kia. Xưa kia ông nội chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được những món hàng đáng bạc chục, bạc trăm, vậy mà khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để lại cho cha chàng được chút gì. Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi rình mò hết làng trên đến xóm dưới, mà cũng không bao giờ kiếm nổi được hai bữa cho hai vợ chồng và đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến đời chàng, lao theo cái nghề này đã gần hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoài trắng tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần bốn chục tuổi đầu. Ôn lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc đời mình chàng không khỏi thấy ngán ngẩm. Một đêm, chàng đến rình nhà ông thầy đồ ở xóm bên, định ăn trộm cái thủlợn mà một nhóm học trò mang đến biếu. Rình mãi đến khuya, ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách khác. Chợt ông thầy đọc đến câu: \"Nhà làm nhiều điều thiện ắt để lại tiếng thơm. Nhà làm nhiều điều bất thiện ắt để lại tai vạ.\" (1). Chàng bụng bảo dạ: \"Phải chăng ông cha ta làm nghề thất đức nên để khổ nhục lại cho ta?\". Rồi tự đáp: \"Phải, quả thật đúng như vậy\". Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết từ nay bỏ nghề ăn trộm. ---------- (1) Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương. Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng hái củi mang ra chợ bán. Công việc thật là vất vả, hái được một gánh củi chàng phải đổi một bát mồ hôi mới kiếm được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy yên tâm hơn mọi ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: \"Cẩn thận đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến kia!\" Cái tiếng \"ba đời ăn trộm\" làm cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: \"Từ nay ta phải làm những việc phúc đức họa may mới xóa được mấy tiếng đó\". Một ngày mùa hạ, trời mưa to, nước lũ tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội qua sông như mọi hôm được. Hàng trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã khuất sau rặng núi mà mọi người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới việc bắc một cái cầu. Đêm ấy, ngủ lại ở bến sông cùng với nhiều người khác, chàng đem chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói: - Đó là một điều phúc đức được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng đã có người làm nhưng rồi lại bỏ dở... Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội sông về nhà, tới nhà, chàng đem ý địnhbắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng hứa sẽ thu xếp ổn thỏa mọi công việc trong nhà, để chàng rảnh tay dốc sức bắc cầu! Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; chiều ra sức chuyển gỗ; trưa cố hái thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ. Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc cầu, không bao lâu, đã bắc được hơn chục sải cầu. Công việc còn nhiều nặng nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói mà làm nhiều nên chàng bị kiệt sức. Một hôm đói quá chàng nằm lăn ra mê man ở đoạn cầu đang làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng vẫn chưa hồi tỉnh. Giữa lúc ấy có một viên quan võ đi đến, thấy một đám đông đang xúm quanh một người nằm sõng soài, viên quan xuống ngựa đến gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết đây là anh chàng bắc cầu làm phúc đang làm thì vì mệt quá mà lăn ra ngất đi... Viên quan bèn mở túi lấy thuốc cho chàng uống. Được một lúc, chàng bắc cầu tỉnh lại, mọi người tản dần ra về, viên quan ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật thà kể hết cho ông nghe cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang làm. Viên quan võ nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâurồi nói: - Xưa kia, cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói nghèo. Nay, chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là hay vô cùng! Về phần tôi, tôi xin nói thật: Cha tôi, ông tôi, ông cụ ông kỵ tôi, đời đời làm quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của. Đấy cũng là điều thất đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: Lấy vợ đã hơn hai mươi năm rồi mà không có một mụn con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng hay chàng có cho tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không? Chàng bắc cầu mỉm cười nói:- Nếu quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân chúng sẽ mau được qua lại, còn gì tốt hơn! Hai người bèn kể cho nhau biết tên tuổi, quê quán rồi kết làm anh em, viên quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi, được nhận là anh. Chàng bắc cầu nói: - Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ đem củi ra chợ bán lấy tiền đong gạo. Viên quan võ thân mật bảo chàng: - Anh có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như vậy chúng ta sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào? Chàng bắc cầu nói: - Nếu được vậy thì còn gì hay hơn! Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ. Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là cầu Phúc Đức. Các cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn mừng cầu. Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão và tất cả dân chúng quanh vùng nô nức đến dự, ai cũng cầu xin Ngọc Hoàng ban phúc cho hai người bắc cầu, họ ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một cơn gió bất chợt kéo đến, gió thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ, nghiêng ngả cành cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi. Thấy người em kết nghĩa của mình hết lòng hết sức hàng ba năm trời ralàm cầu mà lại không được hưởng phúc, viên quan xót xa lắm. Sau khi mọi người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa. Lại nói đến chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một cái hang trên một ngọn núi cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững, cơn gió bỗng vụt hóa thành người tươi cười nói với chàng: - Nhà ngươi chớ sợ, ta là thần Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về đây để thưởng cho ngươi cái công thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Chàng bắc cầu nhìn vào hang, thấy đống vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng vác gói vàng lên vai, tiến ra cửa hang, thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn chàng đi, trả về bản và đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà. Chàng bắc cầu sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ chàng và hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc cầu hiện về, liền dắt nhau lại ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười, một lần nữa chàng lên tiếng gọi: - Mẹ ơi! Anh ơi! Em đây mà! Em hãy còn sống trở về nhà đây! Mau mau mở cửa! Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng quýnh, lật đật mở cửa. Vợ chồng viên quan võ cũng chạy ra, đón người em kết nghĩa. Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn ngành câu chuyện được thần Gió đưa đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo mừng sung sướng. Từ đấy mẹ con chàng bắc cầu trở nên giàu có, chàng mời hai vợ chồngngười anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn. Ít lâu sau, vợ viên quan võ mang thai, đến tháng đến ngày, chị sinh hạ được một cậu con trai. Hai vợ chồng mừng vô kể. Còn chàng bắc cầu ít lâu sau cũng lấy vợ có con và sống sung sướng đến già. Ghi theo lời kể của ông Vi Quốc Thông, xã Phú Thượng, Võ Nhai, Bắc Thái (nay thuộc tỉnh Thái Nguyên) Nguồn: Truyện cổ Tày Nùng, Hoàng Quyết sưu tầm và biên soạn, Nxb. Văn hóa, H., 1986.TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Chử Đồng Tử Thời xưa, ở làng Chử Xá (1), có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thì đóng. --------- (1) Nay thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chử Cù Vân bị ốm nặng, khi sắp chết, dặn lại con rằng: - Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lấy mà dùng. Chử Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha, rồi mới chôn. Ở một túp lều nhỏ ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử xuống sông đánh cá, rồi đổi lấy gạo ở các thuyền qua lại. Thời bấy giờ có một nàng công chúa tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã mười bảy mười tám mà không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Vua chiều con, cấp thuyền cho với đủ mọi người hầu hạ, mặc cho con muốn đi chơi đâu thì đi. Một hôm, Tiên Dung đi chơi thuyền trên sông, thuyền Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là thuyền của binh lính và thị nữ. Khi đến khúc sông thuộc làng Chử Xá, đám thuyền làm rợp cảmặt nước.Chử Đồng Tử trông thấy, vội vứt vó vào bụi, chạy lên bãi, bới cát vùi mình xuống, rồi lấy cát phủ lên. Thấy bãi sông rộng rãi, lại có lác đác từng bụi cây lớn tỏa bóng mát êm dịu, Tiên Dung lấy làm ưa thích, ra lệnh cho thuyền ghé vào bãi, rồi chọn chỗ có bóng mát, sai thị nữ giăng màn tứ vi để tắm. Tiên Dung vào màn cởi áo xiêm, giội nước thỏa thích. Không ngờ chỗ Tiên Dung giăng màn tắm lại chính là chỗ Chử Đồng Tử náu mình. Tiên Dung giội nước một lúc thì thấy Chử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dung trông thấy giật mình, hỏi duyên cớ thì Chử Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy thuyền quân quan thì sợ, nên phải vùi mình xuống cát để ẩn. Tiên Dung bảo Chử Đồng Tử rằng: - Tôi nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng ở chốn này, mới biết không cưỡng nổi được với trời. Nàng bảo Chử Đồng Tử tắm rửa sạch sẽ, lấy quần áo cho mặc, đưa xuống thuyền và sai thị nữ sửa soạn tiệc hoa. Thấy thế Chử Đồng Tử ngỏ ý từ chối, Tiên Dung bảo chàng rằng: - Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối! Đồng Tử đành phải nghe theo. Từ hôm ấy, hai người thành vợ chồng. Vua được tin nổi giận, gọi hết binh lính và người hầu của Tiên Dung về. Tiên Dung sợ cha, đành cùng chàng ở lại với nhân dân, tìm kế sinh nhai. Nàng làm ăn ngày một thịnh vượng, dần dần lập thành một xóm. Sau có người khuyên nàng ra biển tìm những vật lạ đem về đổi lấy các thứ khác. Nàng nghe theo để chồng đi.Đồng Tử đi qua một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, trông lên núi thấy có cái am nhỏ. Đồng Tử trèo lên núi gặp một nhà sư xưng tên là Phật Quang. Thấy Đồng Tử là người chân thật, sư Phật Quang muốn truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử không nghĩ đến việc ra biển nữa, liền ở luôn đó. Đồng Tử học được hơn một năm thì Phật Quang cho chàng một cái gậy và một cái nón, cho phép chàng xuống núi và dặn rằng: - Phép biến hóa ở cả cái gậy và cái nón này. Đồng Tử về nhà, đem phép màu truyền lại cho Tiên Dung, rồi hai vợ chồng rời bỏ xóm làng, đi tìm nơi thanh vắng để ở. Một hôm đang đi đường, trời tối mà chưa đến chỗ dân cư, hai vợ chồng chống cái gậy xuống đất và lấy cái nón úp lên đầu gậy để che sương, rồi hai người ngồi tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Đến quá nửa đêm, hai vợ chồng tỉnh dậy thì thấy mình ở trong một cung điện lộng lẫy có đủ các thứ giường sập, màn trướng, lại có cả tiểu đồng, thị nữ binh lính đi lại rộn rịp ngoài hành lang. Sáng hôm sau, hai vợ chồng ra ngoài xem thì thấy có thành cao bao bọc cung điện và có lính canh gác rất đông, chẳng khác nào tòa thành to lớn. Tin lạ đến tai vua. Vua cho là Đồng Tử và Tiên Dung làm loạn, liền sai quân đến đánh. Quân nhà vua đến gần nơi Tiên Dung và Đồng Tử thì trời vừa tối, không sang sông được. Đến nửa đêm, trời nổi cơn giông, cát bay, cây đổ, rồi toàn khu Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời, chỉ còn lại bãi đất ở giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự Nhiên (2) còn đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ (3). Thấy có sự lạ lùng như vậy, nhân dân lập miếu thờ ngay trên bãi. ------------ (2) Bây giờ thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên. (3) \"Nhất dạ\" nghĩa là một đêm.Đời sau, Triệu Việt Vương đóng quân trong đầm để chống lại quân xâm lược nhà Lương. Lúc bị quân giặc vây nguy cấp, Triệu Việt Vương thiết đàn, cầu thần giúp mình tiêu diệt quân địch để cứu nạn nước, bỗng thấy một vị thần cưỡi rồng xuống đàn, cho Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng và dặn: \"Ngươi cắm cái vuốt này lên chỏm mũ đâu mâu thì đi đến đâu, giặc sẽ tan đến đấy\". Nói xong, thần cưỡi rồng bay vụt lên trời. Theo lời thần dạy, Triệu Việt Vương cắm vuốt rồng lên chỏm mũ, thấy sức khỏe tăng lên bội phần, trí óc cũng sáng suốt, thanh thế ngày một lớn, mới đem quân phá vòng vây, chém được tướng giặc là Dương Sàn. Quân xâm lược nhà Lương bị tan vỡ, phải rút khỏi đất Việt Nam. Vũ Ngọc Phan kể Nguồn: Hợp tuyển Truyện cổ tích Việt Nam, Lữ Huy Nguyên - Đặng Văn Lung sưu tầm và biên soạn, Nxb. Giáo dục, H., 1996TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Con Út Vua Trời Và Ống Thuốc Thần Ngày xửa ngày xưa, ở một vùng, có hai anh em nhà kia phát nương, trồng được một ít lúa. Lúa mọc rất tốt và chín đều. Sắp sửa đến ngày gặt, hai anh em rất vui mừng. Nhưng tới một buổi sáng, khi ra thăm nương, thì hai anh em đã thấy lúa bị trâu rừng ăn và giẫm nát rất nhiều. Tức giận, hai anh em đêm ấy vác ná ra nấp cạnh nương lúa rình. Hai anh em không biết con trâu ăn lúa chính là trâu của bà tiên rừng thả ra. Thấy có hai người định bắn trâu, bà tiên rừng liền thổi một hơi thuốc mê, làm họ lăn ra ngủ mê mệt và thế là họ không bắn được trâu nữa. Hôm sau, tỉnh dậy thì nương lúa đã bị phá một khoảng nữa. Hai anh em tức lắm, quyết bàn lại cách giữ nương lúa cho kỳ được. Lần này, họ nấp rất kỹ, bà tiên rừng không trông thấy họ. Khi trâu của bà vừa chạy ra thì người anh kéo ná bắn một phát. Con trâu lăn ra chết. Người anh bảo người em ở lại canh trâu, còn mình thì về gọi dân bản ra làm thịt. Người em nghe lời, ở lại canh con trâu đã chết. Ngồi trong bụi rậm được một lúc thì người em thấy bà tiên rừng đi ra. Thấy trâu trúng tên chết, bà tiên lấy một ống thuốc, xoa thuốc vào vết thương. Con trâu cựa quậy rồi sống lại. Bà tiên rừng cưỡi ngay lên lưng trâu, rồi chạy vào rừng. Khi người em chạy ra đuổi thì chỉ còn thấy ống thuốc bị bỏ rơi nằm lăn lóc trên mặt đất. Người anh và dân làng kéo đến nơi thì trâu không còn nữa. Họ giận lắm, một người trong số đó vì quá tức giận đã khiến cho người em bị thương, rồihọ kéo nhau bỏ đi. Người em ngã xuống, may thay vết thương lại đè trúng lên ống thuốc. Gặp thuốc, máu ngừng chảy, vết thương lành miệng, người em đứng dậy, người khỏe mạnh như thường. Thấy thuốc quý, người em bèn nhặt lấy ống thuốc, rồi bỏ nhà ra đi. Để khỏi bị rơi ống thuốc, anh đựng ống thuốc vào một cái túi và đeo lên cổ. Đi mãi, đi mãi, đến một xóm kia, anh thấy một con chó đã bị ai hại chết. Thương hại nó, người em liền bôi thuốc làm cho nó sống lại. Chó vui mừng vẫy đuôi theo người. Đến một xóm khác, người em lại thấy một con chó vì cắn gà mà bị giết. Người em lại dùng thuốc chữa cho nó sống lại, chó vui mừng chạy theo anh. Từ đó, hai con chó quấn quýt không rời người em. Một ngày kia, đang đi, người em bỗng nghe có tiếng khóc thảm thiết từ trong một ngôi nhà vọng tới. Hỏi ra mới biết đó là nhà Cơ - ran. Cơ - ran có cô con gái trẻ và đẹp mới mất. Người nhà đã liệm xác cô gái và sắp sửa đem chôn. Người em bèn xin phép Cơ - ran chữa cho cô gái đó. Cơ - ran chẳng mấy tin tưởng, nhưng vẫn để cho anh chữa. Người em bôi thuốc vào cô gái, chỉ một lát sau, cô gái đã sống lại như thường. Cơ - ran mừng rỡ vô cùng, định nhường tất cả gia tài cho anh, nhưng người em không nhận. Cơ - ran bèn giết nhiều trâu, bò, heo thật béo để ăn mừng, khi bà con tới đã đông đủ, người em nói rằng nhà ai có người chết muốn được sống lại thì anh sẽ giúp. Nghe thế, ai cũng muốn ông bà, bố mẹ mình sống lại. Anh bèn nhận lời giúp, dặn họ về nấu sẵn một nồi cháo nóng và một chậu nước để người chết tỉnh dậy thì có sẵn cháo ăn và nước nóng rửa mặt. Sau đó, chàng dùng lọ nước thần cứu sống rất nhiều người. Ai cũng vui mừng. Người ta thưởng công cho anh rất hậu. Cứ như thế, ngày này sang tháng khác, người em đến đâu là người chết dù đã đem đi chôn đều được cứu sống. Lúc bấy giờ, Mơ - tao Mơ - tinh là thần coi âm phủ. Thấy người dưới âm phủ sống lại nhiều quá, hắn liền cho người lên hỏi trời. Mơ - tao Mơ - tinh dọa nạt, nạt nộ Trời rằng, nếu Trời không trả lại người cho hắn thì hắn sẽ giếtchết trời. Trời sợ lắm, Trời tìm hỏi mãi mới biết nguyên do. Trời bèn sai cô công chúa út của mình xuống trần, tìm cách lấy lại ống thuốc thần. Sau khi đã cứu sống được rất nhiều người, người em và hai con chó liền đi tìm một nơi đất tốt để làm nương sinh sống. Anh ta dựng một cái chòi cao để ở, đêm ngày hai con chó luôn ở bên cạnh. Khi anh ta đi đâu thì một con chó đi trước, một con theo sau. Ống thuốc thần anh giữ gìn rất cẩn thận. Anh vẫn đeo ở cổ, và đi đâu cũng mang theo. Con gái út của Trời xuống trần. Cô giả làm một cô gái mồ côi cha mẹ, tìm đến chòi của người em xin ở nhờ. Nàng xinh đẹp vô cùng, làm việc và nấu ăn rất khéo, nên dần dần đã được người em đem lòng yêu. Hai người lấy nhau, nhưng cô gái vẫn chưa tìm cách lấy trộm được ống thuốc chồng đeo trên cổ, vì hai con chó không rời anh một bước. Trong lúc đó, Trời vẫn giục con gái phải lấy được ống thuốc, sớm chừng nào hay chừng ấy, Mơ-tao Mơ-tinh thì mỗi ngày lại đe dọa Trời một dữ hơn. Không còn cách nào khác, cô gái bèn lập kế rủ chồng đi ra suối tắm. Tắm xong mà cô vẫn chưa lấy được ống thuốc, vì hai con chó đứng trên bờ suối đã giữ chặt lấy ống thuốc thần. Cô đành phải nghĩ cách khác. Ngay khi tắm xong, cô vờ bắt chấy cho chồng. Vừa bắt chấy cô vừa bỏ thuốc mê làm chồng và hai con chó ngủ mê mệt. Thế là cô lấy được ống thuốc, bay thẳng về trời. Khi người em tỉnh dậy, thấy vợ đã đi mất, liền vội vàng đánh thức chó, đuổi theo. Thấy vậy, Trời bèn cho đóng kỹ cổng Trời lại, người em và hai con chó không làm sao vào nổi. Tức quá, hai con chó chạy khắp nơi, cắn chết không biết bao nhiêu trâu bò, gà heo, đoạn ngồi ngay ở cổng nhà Trời canh miết không cho một ai ra vào. Ít lâu sau, trong nhà Trời, nước đã cạn, củi đã hết, nhưng không một ai có thể ra ngoài cổng mà kiếm nước kiếm củi được. Chẳng biết làm thế nào thoát nạn, Trời đành dàn hòa vời chàng con rể và hai con chó. Đầu tiên, Trời hứa sẽ cho chàng rất nhiều của cải. Chàng từ chối, và khăng khăng đòi lại ống thuốc. Lúc ấy, Mơ-tao Mơ-tinh cũng cho người đến đòi lấy ống thuốc. Mơ-tao Mơ- tinh sợ Trời sẽ dùng ống thuốc thần ấy mà cướp hết người của hắn ở dưới âmphủ. Hắn nhất định bắt Trời phải nộp ống thuốc thần cho hắn, nếu không nộp, hắn sẽ giết Trời ngay. Không biết làm thế nào nữa, Trời phải đồng ý để vợ chồng con gái út sống cùng nhau, cho chàng rể và hai con chó được sống mãi mãi, có quyền rất to trên Trời, để đổi lấy ống thuốc đưa nộp cho Mơ-tao Mơ- tinh. Trời lại hứa mỗi năm sẽ đóng thuế cho con rể rất nhiều báu vật. Nếu Trời không giữ đúng lời hứa thì chàng rể có quyền cho chó đến hỏi. Vợ chàng cũng nói vào mãi, thương bố vợ, chàng bèn ưng lời. Từ đấy, Trời không nộp thuế đúng hạn cho con rể, chàng con rể lại cho chó tới cắn Trời để đòi. Những khi ấy, Trời sợ, phải bỏ trốn. Vắng mặt Trời, trời tối lại. Đó là những kỳ nhật thực. Bùi Duy Tân biên soạn theo lời kể của bác Mang-cang. Nguồn: Truyện cổ Ba-Na, Tây Nguyên, tập 2, Nxb. Văn học, H., 1965.TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Con Chó Chín Đuôi Xưa kia, có hai vợ chồng nghèo sinh được một đứa con gái. Vợ chồng họ tuy nghèo nhưng sống rất hạnh phúc, yêu thương nhau. Song chẳng may, người vợ mất sớm, để lại người chồng sống trong cảnh gà trống nuôi con. Thế rồi, người chồng lấy vợ nữa, hy vọng rằng người vợ kế sẽ giúp mình chăm sóc đứa con gái còn nhỏ dại. Vậy nhưng, người dì ghẻ này lại đối xử rất cay nghiệt với con riêng của chồng. Đứa nhỏ thường xuyên bị đói, và bị chửi mắng. Một hôm, vừa bị đói lại vừa bị đòn oan, đứa bé bèn chạy ra chỗ mộ mẹ ngồi khóc nức nở. Hồn người mẹ hiện lên hỏi: - Sao con lại khóc nức nở thế kia? Đứa bé kể cho mẹ nghe chuyện bị dì ghẻ đối xử tàn tệ. Thương con, nên hồn người mẹ mới bảo: - Đợi khi nào con lớn thành thiếu nữ, thì hãy chịu khó đem dao ra bờ suối ngồi chờ. Lúc nào con thấy có thân cây chuối rừng trôi qua thì con cầm dao chém cho đứt đôi. Con chém cho đến khi thấy xuất hiện một con chó có chín cái đuôi màu sặc sỡ, thì con bế nó về nhà nuôi. Con chó chín đuôi ấy chính là hồn của mẹ về sống bên con đấy. Ghi nhớ lời mẹ dặn, khi trở thành thiếu nữ, người con gái liền đem dao rabờ suối ngồi đợi. Thấy cây chuối rừng trôi qua trước mặt là cô chém. Khi chém đến thân cây chuối thứ chín thì đột nhiên trước mặt cô xuất hiện một con chó có chín cái đuôi, mỗi đuôi một màu rực rỡ. Người con gái liền bế chó về nhà nuôi. Và từ đấy, cô đi đâu, làm gì cũng có con chó đi theo cùng. Rồi thời gian trôi qua, bố của cô gái đi buôn có được rất nhiều vàng bạc. Nhưng có bao nhiêu ông đều đưa cho người vợ kế quản hết, mặc cho đứa con gái của mình suốt ngày phải vất vả lam lũ lo công việc ruộng nương, mà lại phải ăn đói mặc rách. Thấy con chó chín đuôi ngày ngày quấn quýt bên cạnh đứa con riêng của chồng, người dì ghẻ bèn tìm cách đánh chết chó rồi đem vứt xuống hố củ mài. Tìm không thấy chó đâu, cô con gái khóc sưng húp hết cả hai mắt. Người bố đi buôn xa trở về nhà thấy vậy, mới hỏi: - Tại sao con lại khóc sưng húp hết cả hai mắt thế? Cô con gái đáp: - Con khóc vì không tìm thấy con chó của con đâu cả. Người bố nói: - Mất con chó thì việc gì mà phải khóc. Vàng bạc quý giá, mất đi mới thật là đáng tiếc. Cô con gái lại nói: - Bố ơi, vàng bạc quý đến mấy thì cũng không bằng thóc gạo. Người già đã nói: \"Miếng cơm nuôi người\", bố quên rồi sao. Nghe con gái nói mình vậy, người bố giận quá bèn gọi một kẻ ăn xin đến và gả con gái cho anh ta làm vợ.Người bố không chia cho con gái một chút của cải nào, ông chỉ đóng cho một chiếc bè nứa, rồi bảo con gái và con rể hãy ngồi lên bè nứa mà chèo xuôi theo dòng. Bè nứa bị mắc ở chỗ nào thì ở lại chỗ đó mà làm ăn sinh sống. Thế rồi, bè nứa chở hai vợ chồng cô gái mắc vào một bãi sậy. Ngay cạnh bãi sậy là một cánh rừng già cổ thụ. Hai vợ chồng cô gái dựng tạm lều và bắt đầu phát nương, đắp ruộng. Nhờ chăm chỉ, đất đai lại màu mỡ, nên chỉ vài năm sau hai vợ chồng họ đã có của ăn của để. Thóc ngô làm được, họ đem đi bán đổi tích cóp lấy vàng, không chỉ có thế, họ còn sinh được một đứa con giai và một đứa con gái xinh xắn, bụ bẫm. Tiếng rằng vợ chồng người con gái nay đã trở nên rất giàu có đồn đến tai người bố. Ông bèn cùng người vợ kế xuôi thuyền đi thăm. Nhưng xuôi thuyền mới được nửa chặng đường thì bất ngờ người vợ kế bị ngã xuống nước chết đuối tìm không thấy xác. Người bố đành một mình đến thăm con. Đến nơi, ông được vợ chồng người con gái rải chiếu hoa cho ngồi. Tới bữa, người con gái đặt lên chiếu hai mâm, một mâm bày cơm canh thịt cá, một mâm bày toàn là vàng bạc và đá ngọc. Trước khi ngồi vào mâm ăn cơm, cô gái hỏi bố: - Bố ơi, đối với cuộc đời con người, thì cơm gạo quý hơn hay là vàng bạc quý hơn? Người bố đáp: - Vàng bạc quý hơn cơm gạo! Cô gái bảo: - Theo ý con thì, đối với đời người cơm gạo là thứ quýgiá nhất!Người bố khăng khăng: - Vàng bạc là thứ quý giá nhất! Cô gái không tranh cãi thêm nữa, mời bố ngồi xuống trước mâm đựng vàng bạc. Còn cô cùng chồng và các con thì ngồi xuống mâm cơm thịt ăn ngon lành. Người bố ngồi trước mâm vàng bạc mà đói bụng, nước miếng ứa ra. Đến lúc này ông mới thấy con gái nói có lý, đối với đời người, cơm gạo mới là thứ quý giá nhất. Bởi thế, người Thái mới có câu: \"Vàng bạc ngôi dưới, thóc gạo ngôi trên\". Nguồn: Truyền thuyết và truyện cổ dân gian người Thái - Mường Xo, Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu, Nxb. Văn hóa Dân tộc, H., 2011.TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM CHỌN LỌC Nhiều Tác Giả www.dtv-ebook.com Con Dâu Nhà Trời Trong một ngôi làng của người Chăm H'roi nọ có một đôi trai gái nghèo và rất xấu xí. Người trai tên là Y Rít và cô gái tên là Dơn. Họ giống nhau như củ nâu tía trên rừng. Trong ruột thì đỏ như gấc nhưng ngoài vỏ thì sần sùi. Hai người sống ở trong làng như sống giữa đám gai góc. Con trai nhà giàu chê ném đá trước mặt. Con gái nhà giàu cười chế giễu sau lưng. Chẳng ai chơi với họ nên cuối cùng họ tìm đến với nhau. Trước là bạn, sau thành vợ chồng. Trong nhà, hai người sống vui vẻ ấm cúng, nhưng ra đường thì họ chỉ cúi gầm mặt mà đi, tựa như có tội. Bọn nhà giàu ác mồm, ác miệng chê bai nguyền rủa đủ điều. Chúng kháo nhau là để cho họ ăn ở trong làng như vậy, sau này họ đẻ ra một tí cóc thì xấu mặt cả làng. Tên chủ làng ra lệnh cho họ lên núi ở. Họ chỉ mang theo cái gùi nhỏ đựng một ít đồ vật và một con dao rựa để đẵn cây làm lán, phát rẫy làm nương. Một hôm, hai vợ chồng đang trồng sắn, thì chị vợ thấy một con cóc yếu ớt nằm trong một hốc cây. Chị liền bỏ vào gùi mang về. Anh chồng thấy thế, liền hỏi: - Cái của nợ ấy mang về làm gì? Vứt đi cho rảnh! - Em thương nó lắm! Thân phận nó cũng như thân phận chúng mình. Em mang về nuôi. Y Rít nghe vợ nói, không bảo vứt đi nữa, nhưng trong bụng không vui. Trưa, hai vợ chồng nằm nghỉ, anh nghe có tiếng người bảo mình:- Bố ơi, đừng bỏ con. Hãy nuôi con để sau này chúng ta sẽ đủ cơm ăn áo mặc, giàu mạnh hơn lũ làng, bố ạ! Y Rít kinh ngạc, liền hỏi vợ: - Mình có nghe ai nói gì không? Dơn trả lời là không. Y Rít bèn kể lại chuyện vừa nghe thấy cho Dơn nghe. Hai vợ chồng đều tin là lời của cóc. Họ thương cóc, nuôi cóc tử tế hơn trước. Được bảy ngày, đột nhiên trong nhà xảy ra một chuyện lạ. Sáng hôm ấy, hai vợ chồng cùng đi rẫy, trưa về họ thấy giữa sàn có một mâm cơm ngon lành, đủ thịt gà, cá nướng thơm phức, khói còn bốc nghi ngút. Giữa rừng âm u, lạnh lẽo này, còn có ai nấu hộ cơm cho mình nữa? Hai vợ chồng đâm nghi, họ gọi to xem xung quanh có ai không. Hỏi, gọi mãi chẳng thấy ai thưa, hai vợ chồng đành ngồi ăn bữa cơm ngon lành. Mấy hôm liền, cảnh ấy cứ diễn ra. Hai vợ chồng ăn thì ăn, nhưng bụng vẫn áy náy, không biết ai là ân nhân của mình. Một hôm, Dơn giả vờ theo chồng lên nương, được nửa đường, Dơn bèn quay trở về nấp ở ngoài nhà, nhìn qua khe cửa. Chị giật mình, vì trong nhà bỗng xuất hiện một cô con gái rất xinh đẹp đang dọn dẹp nhà cửa. Chị nhìn vào góc buồng, nơi con cóc vẫn nằm thì không thấy cóc đâu, chỉ thấy một tấm da bẹp rúm. Chị biết cô gái xinh xắn chính là cóc hiện hình, liền mở cửa chạy vào cầm lấy tấm da cóc. Cô gái cũng hoảng hốt chạy lại, nhưng không kịp nữa rồi. Cô mếu máo xin Dơn: - Mẹ trả con tấm da. - Không, con gái yêu của mẹ, mẹ đã vì xấu xí mà khổ suốt đời, mẹ không thể để con lại hóa con cóc xấu xí nữa! Nói xong, Dơn vứt tấm da cóc vào bếp lửa. Cô gái ôm chầm lấy mẹ. Haimẹ con quyến luyến không rời. Trưa về, Y Rít nghe vợ kể chuyện cũng mừng rỡ vô cùng. Hai người được cô con gái \"trời cho\" thì hết sức yêu chiều, chăm sóc. Họ không cho con gái đi làm nương, làm rẫy, sợ con vất vả và gặp chuyện chẳng lành. Cô bé không bằng lòng, nhưng đành phải nghe lời bố mẹ, ở nhà lo việc dọn dẹp, bếp núc. Một hôm, vua sai một toán lính vào rừng chặt nứa. Bọn lính đi qua nhà Y Rít, dừng lại nghỉ chân. Mấy người ghé vào nhà chơi. Họ thấy cả rừng vắng vẻ chỉ có một ngôi nhà trơ trọi giữa rừng, trong nhà lại có một cô gái nhỏ rất xinh. Họ liền hỏi chuyện. Cô gái thật thà kể lại rằng bố mẹ bị cả làng ghét bỏ, nên phải vào đây nương náu. Lời cô dịu dàng, giọng cô ngây thơ hiền hậu, ai nghe cũng xót thương cho bố mẹ cô và căm giận bọn nhà giàu độc ác. Họ gửi đồ đạc, gạo muối nhờ cô trông giúp, trưa về sẽ thổi cơm ăn. Cô gái nhận lời, bảo họ: - Các bác cứ đi chặt nứa đi, còn cơm nước đừng lo, cháu sẽ nấu giùm. Tốp lính mừng lắm, cảm ơn rối rít. Trưa ấy họ thấy cô gái bày ra đủ bát đũa nhưng chỉ có một nồi cơm nhỏ. Họ liền hỏi: - Cơm nước chúng tôi nhờ cô nấu giùm đâu? - Cháu nấu đủ cả rồi! - Sao lại chỉ có chừng này thì ai ăn ai nhịn? - Các bác cứ ăn đi, nếu hết cháu sẽ thổi thêm ngay mà. Một người lính già bảo: - Thế thì đi thổi ngay đi cháu, bác ăn hết ngay đây này! Bác ta xới ngay một bát. Nhưng nồi cơm không vơi mà lại đầy lên ngay.

      Pages:
    • 1 - 50
    • 51 - 100

    TỦ SÁCH ONLINE

    Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Share Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes! Create your own flipbook

    TOP SEARCH

    business design fashion music health life sports home marketing children

    RELATED PUBLICATIONS

    Từ khóa » Bố Lên Núi đốn Củi Con ở Nhà Hốt Dì Ghẻ