Danh mục các di tích, danh thắng, lễ hội, bảo vật quốc gia đã xếp hạng trên địa bàn tỉnh Hải Dương |   Vang danh Kiếp Bạc |   Côn Sơn - những giá trị văn hóa, lịch sử vượt thời gian |   Những bí ẩn ở chùa Thanh Mai |   Người "giữ lửa" thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ |   Chuyện dưới rừng lim cổ thụ |   Đổi thay ở đền Kiếp Bạc |   Chí Linh rộng cửa thu hút đầu tư |   Cô giáo Hoàng Thị Vân, người giúp học sinh Chí Linh hứng thú với môn tiếng Anh |   Ngọt thơm chuối Đồng Lạc |   Chí Linh tăng tốc chuyển đổi số |   Núi Phượng Hoàng nơi ẩn cư của “ngọn tuệ đăng bất tử” |   Linh thiêng đỉnh núi Phượng Hoàng |   Công bố Quyết định phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Chí Linh đến năm 2040 |   Đảng bộ tỉnh Hải Dương: Dấu ấn nhiệm kỳ 2015-2020 |   Tôi viết bài thơ Sao Đỏ |   Chí Linh: Thành phố dọc đường xuân |   Tân Bí thư 7x của TP.Chí Linh hứa tận tâm, xây dựng tập thể đoàn kết |   TP. Chí Linh: Nhà kiên cố “mọc” trên đất rừng lâu năm? |   Tấm bia thiêng mang ngự bút của vua Trần |  
Những vùng đất linh thiêng ở Chí Linh
Thứ ba - 10/11/2015 10:10 - 7613 lượt xem Núi Phượng Hoàng có đền thờ thầy giáo Chu Văn An Chí Linh- miền đất nổi danh địa linh, nhân kiệt; cũng là miền quê đặc biệt sơn thủy, hữu tình. Mỗi địa danh ở nơi đây gắn liền với những truyền thuyết, những nhân vật... nổi tiếng. Từ kỳ này NCL xin đăng tải một số bài viết về những miền đất ấy. PHONG CẢNH CHÍ LINH Trong sách Chí Linh huyện sự tích (còn gọi là Lịch sử huyện Chí Linh) có bài thơ "Phong cảnh Chí Linh". Nguyên văn như sau: Dịch âm: Chí Linh bách lý phân cương giới. Địa chí tòng tiền minh ký tái Đông liên Hiệp Sơn thủy trung lưu. Tây tiếp Thanh Lâm giao dã ngoại. Nam tức Thanh Hà dữ Thanh Lâm. Bắc liên Lạng Giang đồ cụ tại. Thất tổng phân cư giám đại xuyên. Hà Nam, Hà Bắc cổ danh truyền. Bán cư sơn dã, bán bình điền. Dịch nghĩa: Huyện Chí Linh trăm dặm đây chia rõ bờ cõi Sách địa chí từ xưa đã ghi chép rõ ràng Phía Đông liền huyện Hiệp Sơn, giữa có dòng sông. Phía Tây giáp huyện Thanh Lâm ngoài cánh đồng rộng rãi. Phía Nam tức là huyện Thanh Hà, với huyện Thanh Lâm. Phía Bắc liền phủ Lạng Giang, bản đồ còn đó. Bảy tổng chia ra ở hai bên sông lớn Hà Nam, Hà Bắc tên gọi xưa còn truyền lại Gồm có sáu mươi lăm thôn, xã. Nửa ở miền rừng núi, nửa ở miền đồng bằng Dịch thơ: Chí Linh trăm dặm cõi bờ Ghi trong địa chí từ xưa rõ ràng Cách sông, Đông giáp Hiệp Sơn Tây, Thanh Lâm huyện đồng bằng bao la Nam, Thanh Lâm với Thanh Hà Lạng Giang phía Bắc nhìn qua bản đồ Giữa bảy tổng có sông to Hà Nam, Hà Bắc lời xưa còn truyền Sáu lăm (65) thôn xã vách liền Nửa miền đồng ruộng, nửa miền núi cao. Giữa huyện có con sông lớn chảy qua (sông Kinh Thày), sông này do 6 đầu sông hợp lại (Lục Đầu Giang), chảy xuống đến Đò Vạn, theo hướng Đông đối ngạn với Huyện Hiệp Sơn (Kinh Môn ngày nay), một nhánh chảy thẳng xuống sông Bạch Đằng, một nhánh nữa chảy theo hướng Đông qua huyện Thanh Hà, đến huyện Tiên Minh (nay là Tiên Lãng) rồi đổ ra biển. Huyện Chí Linh nguyên có 7 tổng: Chi Ngãi; Kiệt Đặc; Cổ Châu; Đông Đôi là 4 tổng ở phía Bắc sông lớn, còn lại 3 tổng: Cao Đôi; An Hộ; An Điền, là 3 tổng ở phía Nam sông lớn. Vì thế xưa còn gọi là Hà Nam, Hà Bắc. Bốn tổng ở phía bắc (Hà Bắc) đều ở vùng đồi núi; Ba tổng ở phía Nam (Hà Nam) đều ở đồng bằng (Nửa miền đồng ruộng, nửa miền núi cao). Trong sách địa phương chí do quan Phó đô ngự sử Trần Tiến người xã Trực Trì biên soạn, đã ghi chép rõ ràng như sau: Dịch âm: Bích Thủy Thanh Sơn chung tú khí Phân minh thắng địa trưng kiêm ký Cổ kim ngoạn thưởng tấn liễu nhân (1) Địa thiết thiên bài nhiều thắng trí. Dịch nghĩa: Nước biếc non xanh chung đúc khí tốt Thắng cảnh đã ghi trong sách rõ ràng Xưa nay làng thơ nhiều người ngắm thưởng Tạo hóa sắp bày nhiều cảnh trí đẹp. Dịch thơ: Khí tốt non sông sẵn đúc nên Rõ ràng cảnh đẹp sách ghi truyền Làng thơ ngâm thưởng nay như trước Tạo hóa sắp bày cảnh tự nhiên Chú thích: (1): Chữ “Liễu Nhân” nghĩa là trên người. Theo ý chúng tôi (nguyên văn) cho là chữ “Tao nhân” vì Tao nhân là khách thơ. * Huyện Chí Linh nói ở đây là Chí Linh cổ - ngoài phần đất của Chí Linh hiện nay còn thêm 3 tổng phía Nam sông Kinh Thày nay thuộc đất huyện Nam Sách. NÚI CÔN SƠN Chí Linh xưa nay vẫn nổi tiếng là miền "địa linh, nhân kiệt". Trong các "địa linh" ở đây thì đầu tiên phải kể đến Núi Côn Sơn. Trong sách "Chí Linh huyện sự tích" có bài thơ sau về núi Côn Sơn: Núi Côn Sơn Dịch âm: Tiên tòng Chi Ngại thuyết Côn Sơn Phượng Nhỡn tiên bi thạch bất san Thạch Bích liên không văn mạc mạc Thanh truyền phun ngọc thúy sàn sàn Tinh khai kim trướng lâm huyền vũ Thiên thực Kỳ Lân túng thế gian Ngọc kiều Thanh động yên minh nguyệt Tăng viện thiên am hám bích than Cảnh vật bất phàm dư chí cổ Yên hà môi kỷ đạt nhân nhàn Dịch nghĩa: Bắt đầu tổng Chi Ngại nói về núi Côn Sơn Trước thuộc huyện Phượng Nhỡn, bia đá vẫn còn Vách đá ngất trời, tầng mây bay lơ lửng Suối trong phun ngọc, dòng nước chảy rì rầm Về phương Bắc có núi Kim Tinh bày rộng ra Trên núi hình như con Kỳ Lân đứng sừng sững Núi có cầu Thấu Ngọc, động Thanh Hư, ánh trăngsoi tỏ Lại có am viên của các thày tu nhòm xuống suối nước biếc Cảnh vật quý báu trong sách xưa đã có chép Thú yên hà đã làm cho biết bao khách nhàn ngắm thưởng Dịch thơ: Chi Ngại đầu tiên kể Côn Sơn Bia xưa Phượng Nhỡn đá chưa mòn Chọc trời vách đá từng mây lửng Phong ngọc suối trong mạch nước tràn Huyền vũ mạch về sao rải rác Kỳ Lân đứng sững núi chon von Ngọc kiều, Thanh động trăng trong rọi Tăng viện, thiền am thác biếc nhòm Cảnh đẹp còn ghi trong địa chí Khách nhàn vui thú nước cùng non Núi Côn Sơn ở địa phận Tổng Chi Ngại (Chi Ngãi), trước thuộc về huyện Phượng Nhỡn xứ Kinh Bắc (sau thuộc huyện Phượng Sơn Phủ Nam Sách), có bia đá ghi chép hãy còn. Mạch núi từ phương Bắc dẫn lại có núi hình kim tinh mở rộng, núi này như hình con Kỳ Lân đứng sừng sững. Núi có động cổ, trong động rộng lớn gọi là động Thanh Hư, dưới có suối đá nước thường chảy rì rầm quanh năm không cạn, còn có cầu ghép bằng đá gọi là cầu Thấu Ngọc. Sách...(chỗ này mất 3 chữ)... nói, Sách An Nam Chí đều chép : “Trên núi Côn Sơn có động Thanh Hư, có cầu Thấu Ngọc là cảnh tuyệt đẹp ở trần gian” tức là nơi này. Dưới chân núi rộng rãi, phẳng lạt như chiếu trời, các núi bên phải, bên trái lớp lớp bao quanh. Núi Yên Tử cách xa hơn trăm dặm sừng sững đối lập như ở trước mặt. Bên dưới có ao, sắc nước trong suốt; có suối ở hai bên chảy qua phía trước, dòng nước quanh co, cách núi vài chục dặm chảy vào sông lớn. Lên núi ngắm trông rất là sướng mắt, thật là cái thú lâm tuyền của một vùng. Pháp Loa là vị thánh tổ thứ 2 của Tam Lâm Trúc Thiền sư (phái Trúc Lâm Tam Tổ - BT) đời Trần lập am ở đó. Đến đời vua Trần Minh Tông, có Trạng nguyên Lý Đạo Thành, tự là Thượng Huệ Tôn, hiệu là Huyền Quang, quê ở xã Vạn Ty, huyện Gia Lâm, từ chức về tu ở núi Yên Tử thuộc huyện Đông Triều được 3 năm, có chiếu chỉ triệu về Kinh Đô làm đàn chay 7 ngày 7 đêm. Khi xong việc, Người lại trở về chùa ở núi Côn Sơn. Vì cảm hứng, Ông có viết bài thơ bằng khổ thơ 5 chữ như sau: Vũ qua thiên sơn tĩnh Phong lai nhất mộng lương Cập quan khai thế giới Khai nhỡn tứ mang mang. Dịch nghĩa: Mưa xong ngàn núi tĩnh mịch Gió lại giấc mộng thanh sáng Tỉnh ra ngắm xem cõi trần tục Trong tâm hồn cảm thấy nhẹ bâng khuâng. Tạm dịch là: Mưa xong ngàn núi sạch thay Gió đâu đưa lại tỉnh ngay giấc nồng Cõi trần ngoảnh lại mà trông Buông xa tầm mắt trong lòng bâng khuâng. Đến ngày 22 tháng Giêng thì người về chốn Niết Bàn, tức là cõi phật, thường có hiển ứng, nên các triều đại đã chỉ chuẩn ban sắc cho xã sở tại phụng thờ, dần dần thành một chốn danh lam. Đến cuối đời Trần, quan đại tư đồ Trần Nguyên Đán, biệt hiệu là Băng Hồ Tướng Công cũng từ quan, về ở nơi này. Đầu triều Lê, quan thừa chỉ Nguyễn Trãi, biệt hiệu là ức Trai tiên sinh đã tới làm nhà ở đây, nhiều thơ ca đề vịnh của Ông thường thấy trong các tập sách Nam Việt quân thần. Vua Lê Thánh Tông qua chơi núi Côn Sơn có ngự chế bài thơ như sau: Tính thổ lâm đài cảnh trí kỳ Cổ nhân trầm tích dĩ y hy Nhất thiên thảo mộc cùng ngự thưởng Bất tận giang sơn nhập chỉ huy Đại hữu phế hưng kim thị tích Dự vô ký tái thị dã phi Hành trung thặng hữu nhàn cư lạc Phân phó tăng đồng ý tự tri Dịch nghĩa: Lâu đài trên không, đất im lặng, cảnh đẹp lạ thường. Dấu cũ người xưa, vẫn còn phảng phất Cây cỏ một vùng giúp cho ta ngâm hứng Non nước bao la cũng trong mắt ngóng trông Đời có thịnh suy, đến nay coi lại trước Việc không ghi chép, biết chăng đúng hay sai? Trong cuộc du hành được nhàn là vui thích Dặn dò chú tiểu sẽ hiểu ý đó của ta . Tạm dịch là: Khoảng vắng lâu đài cảnh đẹp thay Người xưa dấu cũ vẫn còn đây Bao la cảnh đẹp cùng non nước Lai láng tình thơ cỏ lẫn cây Đời có thịnh suy nay soi trước Việc không ghi chép đúng hay sai ? Cuộc đời cảm thấy nhàn là thú Uớm hỏi tăng đồng ý có hay ? Xem thơ trên của Lê Thánh Tông có ngụ ý cảm khái. Mỗi năm đến mùa Xuân, trai thanh gái tú ở địa phương này đến xem hội, đường đi như mắc cửi, thực là ngày hội vui của vùng này !. NÚI PHƯỢNG HOÀNG Sánh vai cùng Côn Sơn (Kỳ Lân) là Núi Phượng Hoàng- đó cũng là một vùng địa linh nổi tiếng của Chí Linh gắn với tên tuổi của rất nhiều danh nhân nổi tiếng như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thị Duệ v.v... Trong cuốn "Chí Linh huyện sự tích" có bài thơ về Núi Phượng Hoàng như sau: Dịch âm: Phượng Hoàng Kinh Bắc danh sơn cổ Kiệt Đặc chiếm lai kinh kỷ đô Chúng phong triều hướng tượng tinh la (?) Lưỡng tý trương khai hình phượng vũ Tử cực cung trung nguyệt nhất luân Lưu quang điện hạ tùng thiên thụ Miệt trì, châu tính lệ kỳ am Huyền vân, Sơn động, Hàn than mộ Nhất hồ thu thập vạn ban thành Tiều ẩn, Bạch vân quy hứng bộ Thạch bi nhàn vấn nhận di tông Sơn cảnh nhân danh tương đối thọ. Dịch nghĩa: Núi Phượng Hoàng từ xưa có tiếng ở Kinh Bắc, Làng Kiệt Đặc chiếm lại đã bao năm rồi. Các núi chầu về giống như sao bày, Hai tay giang ra hình như phượng múa. Trong cung Tử cực trăng một vầng soi, Dưới điện Lưu Quang thông ngàn cây đứng. Ao Rùa, giếng son với Am Lệ kỳ, Chùa động Huyền Vân và mộ Hàn Than, Thu thập lại trong một bầu trời muôn vẻ thanh nhã, Tiều ẩn (1), Bạch Vân(2) đi về thường ngâm vịnh. Thấy bia đá nhân hỏi đến di tích Cảnh núi, tên người song song còn mãi. Tạm dịch thơ: Kinh Bắc năm xưa núi Phượng này Thuộc về Kiệt Đặc đã bao ngày. Nhiều non chầu lại như sao rải, Hai cánh giương lên tựa Phưọng bay. Cung Tử Cực soi trăng một mảnh, Điện Lưu Quang thông mọc ngàn cây. Miệt trì, Lệ tự, giếng son lấp, Huyền động, Hàn Than mộ cổ xây, Tiều ẩn, Bạch Vân nhiều cảm hứng, Một vùng thắng cảnh đẹp xinh thay ! Dấu xưa muốn hỏi xem bia đá? Cảnh núi, tên người thọ mãi đây. Núi Phượng Hoàng ở xã Kiệt Đặc, nguyên trước thuộc về huyện Phượng Nhỡn, xứ Kinh Bắc. Núi này nhiều ngọn chầu vào giống như sao rải rác, hai cánh giương ra tựa như chim Phượng múa, thực là một cảnh đẹp, vì thế đặt tên huyện là Phượng Nhỡn. Tục truyền núi này có cung Tử cực, Điện Lưu Quang nên Băng Hồ Công có câu thơ: Lưu Quang điện hạ tùng thiên thụ Tận thị kinh thiên nhất thủ tài. Tạm dịch là: Dưới điện Lưu Quang thông ngàn gốc Đều cao cao vót một tay trồng. Dưới núi này có giếng son đẹp, chỗ đất này sản xuất ra son có sắc đỏ tươi, khác hẳn nơi khác, sắc nước đỏ như son, sắc đất cũng như son, dân địa phương thường lấy ống nứa nhọn cắm vào đáy giếng, lấy được son mềm như bún, đem phơi khô, son đỏ tươi và rắn, chất lượng tốt nhất. Trung gian có đức bà Quí Phi dự biết sẽ đánh thuế, liền thúc giục người làng lấy đá lớn lấp đi, từ đó lạc mất chỗ giếng cũ. Lã Đường công có thơ rằng: “ Tăng hộ thường quan nhân ủy hổ Thạch nhàm đã quật vị tầm chân”. Tạm dịch là: “ Cửa thiền cài chặt vì kinh cọp, Hang núi đào bừa bởi kiếm son” Tức là tả cảnh nơi này. Gần đây triều đình thường sai quan đến khám nhưng không thấy tung tích gì cả, chính người làng cũng không biết nơi nào. Hiện nay son tìm được đều không phải là son cũ. Lại có một nơi ở mé sông Miết thủy, gọi là ao Miết thủy, trong sách Thức âm phụ (3 chữ này chưa rõ nghĩa - NBS) có chép “Miết thủy tri” tức là ao này, tục ngữ gọi là “đĩa son nước móc”. Sườn núi có chùa gọi là Lệ Kỳ, ông Huyền Vân, tiến sĩ đời Trần ẩn cư luyện đan ở đây(luyện thuốc tiên - NBS), vua Trần Dụ Tông thường vời vào kinh hỏi phép luyện đan, cho hiệu là Chùa động Huyền Vân. Phía Đông có chùa gọi là chùa Hàn Than, ở đó có mộ vị sư Vô Dĩ. Đời Trần có quan Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, người xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì dâng tờ sớ Thất trảm (Thất Trảm sớ - NBD) rồi treo mũ từ quan về quê, yêu phong cảnh núi Chí Linh đến ở đây gọi là Tiều ẩn tiên sinh (ChuVăn An) tức là ở núi này. Trong tập thơ của Lã Đường công có câu: “ Tương phùng vị hữu hữu quan ước Linh Triệt hoàn ứng tiếu ngã phần” Tạm dịch là: “ Lúc gặp, về hưu chưa ngỏ ý Chắc Thày Linh Triệt đã cười tôi” (Linh Triệt là tước hiệu của Chu Văn An.) Sau ông được tặng là Văn Trinh công, được phối tự ở Quốc Tử Giám, việc này quốc sử đã chép rõ. Người sau có thơ vịnh là: “Thất trảm chương thành tiện quải quan Chí Linh chung lão hữu dư nhàn” Tạm dịch là: “Thất trảm dâng rồi quyết bỏ quan Chí Linh trọn đời được thanh nhàn” Huyện Thanh Trì tôn thờ Ông là bậc Tiên hiền, đền thờ ông ở làng Cung Hoàng huyện này, tức là nhà dạy học của Ông khi trước. Trong bia có câu: “Ngôn yên bất tức ngộ, Tức nhật quải thiên quan, Vu cử Linh sơn hạ, Thái thiên tự thích nhàn”. Tạm dịch là: “Nói rồi mà không tỉnh Liền treo mũ về ngay Về núi Linh ẩn dật Tiêu dao trọn tháng ngày”. Đến cuối đời nhà Mạc có Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hiệu là Bạch Vân tiên sinh, người huyện Vĩnh Lại cũng đến ẩn cư ở nơi này. Đời Tiền Lê, quan Hành tu tham chính họ Bùi, người xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì dựng lều ở mé núi. Đến nay các nhà sư trụ trì ở núi này thường giỏi phù chú (coi bói), ý chừng được Thần núi ngầm giúp, lại các nhà sư thường trồng thông, tới nay rậm rạp trông như đám mây, đem lời cổ ngữ này soi, há có phải là chỗ đất nên trồng thông hay sao? PHAO SƠN Di cảo của Cao Biền có câu: Chí Linh cổ phao Thủy thâm sơn cao Long sơn giáng khí Hổ lực phao giao Nghĩa là: Chí Linh cổ Phao, Nước thẳm non cao Núi long giáng khí Sức hổ đồi trao Nơi mà Cao Biền nhắc tới ở đây chính là Phao Sơn. Trong sách Chí Linh huyện sự tích có bài thơ về Phao Sơn như sau: Phiên âm: Tới ải Phao Sơn đệ nhất phong Quần Tinh củng sáp dẫn dương long Cổ thành sơn thượng anh hùng tích Cổ tự sơn đầu ẩn dật tông Phả Lại kinh âm phong nghịch xứ Bình Than ngư hóa nguyệt sinh trung Hữu cổ Bạch Nhạn Kim đôi ám Thập bát anh hùng tuế đình chung Hồi vọng tả chi Nam Giản cảo Sùng Nghiêm quý khí giữ Thăng Long Trần am Lý phủ tang thương dị Sơn thụ giang hàm cổ hậu đồng. Dịch nghĩa: Rất đáng yêu là ngọn thứ nhất Phao Sơn Như các sao về chầu, dẫn dương Long lại Thành xưa trên núi có dấu vết người anh hùng Chùa cổ đầu non có dấu chân người ẩn dật Là nơi gió đón tiếng chuông Phả Lại Là nơi lửa chài le lói dưới ánh trăng trong Bên hữu, bãi Bạch Nhạn là mộ tổ người Kim Đôi Mười tám người anh hùng kế tiếp nhau hưởng lộc. Bên tả là kiểu đất Nam Giản, có chùa Sùng Nghiêm Quí khí của nó tương đối với chi mạch Thăng Long. Am nhà Trần, Phủ nhà Lý thay đổi có khác, Cây núi, nước sông, trước sau vẫn như một Tạm dịch thơ: Đỉnh Phao Sơn đẹp vô cùng Quần tinh quay lại, dương Long dẫn vào(1) Thành xưa còn vết anh hào Chùa xưa còn dấu người vào ẩn cư. Tiếng chuông Phả lại gió đưa Bình Than nguyệt đãi, nhặt thưa lửa chài. Hữu trông Bạch Nhạn Kim Đôi Anh hùng mười lẻ tám đời đình chung Tả quay Nam Giản chùa Sùng Khí thiêng với mạch Thăng Long sánh bày Lý, Trần am phủ đổi thay Rừng cây, sông nước ngày rày như xưa. Di cảo của Cao Biền có câu: Chí Linh cổ phao Thủy thâm sơn cao Long sơn giáng khí Hổ lực phao giao Nghĩa là: Chí Linh cổ Phao, Nước thẳm non cao Núi long giáng khí Sức hổ đồi trao Đó chính là nói về đất ấy. Trên núi có thành cổ vây quanh, sách sử ký gọi là Chí Linh Cổ thành cũng tức là nơi ấy. Người đời thường kể lại rằng: Thành xây dựng vào đời Vĩnh Lạc, triều Minh. Đời Trần đã có thành rồi. Đến năm Khang Hữu, nhà Mạc đo đạc lại và mở rộng ra. Thời Tây Sơn, cựu thần Nhà Lê đã khởi quân ở đây. Người ta còn cho đây là nơi danh lam cổ tích. Cách núi về bờ bên kia, có chùa Phả Lại xứ Kinh Bắc, tiếng chuông vọng sang bên này nghe rất gần. Nhìn về phía trước có bãi Đại Than sông Lục Đầu, lửa chài, ánh trăng rất là đẹp mắt. Cụ Lã Đường có vịnh thơ như sau: Phiên âm: Nhật tảo Bình Than ngư dịch đoán Dạ hàn Phả Lại hỏa đăng cô. Bất tri kim cổ đăng lâm khách Diệc hữu giang sơn điều vọng vô ? Dịch nghĩa: Buổi sớm, tiếng sáo dân chài Bình Than ngân (gấp) Đêm lạnh, ngọn đèn chùa Phả Lại lẻ loi Chẳng hay khách du xưa nay đến đây Có ngắm nhìn non nước này không ? Tạm dịch thơ: Sáo sớm Bình Than chài gấp giọng Đèn khuya Phả Lại lẻ loi chong Chẳng hay du khách xưa nay tới Nước ấy, non này có ngắm không ? Lại có thơ rằng: Vĩnh bạng dung âm lục tự đài Đã trình hành tận thiếu hồi hồi Thập niên khách nhỡn hồng vân quyện Phó dữ giang sơn nhất phóng khai. Dịch nghĩa: Tựa mãi dưới bóng cây đa xanh biếc như rêu Đường đông quê đi hết dạ bồi hồi Mười năm mắt khách đã mỏi mệt với mây hồng Nay mới có dịp ngắm nhìn non nước Tạm dịch thơ: Dưới bóng đa xanh ngồi nghỉ mãi Đồng quê dạo khắp dạ bồi hồi Mây hồng mắt khách mười năm mỏi Non nuớc bây giờ mới mở coi. Phía đông nam dãy núi, một dải cát nổi lên như hình chim Nhạn, sắc trắng như bạc, chiều dài chừng vài mươi trượng, cao vài thước, người ta gọi là bãi Bạch Nhạn (Nhạn trắng), gần trông như bạc, xa trông như nước. Tục truyền người Tàu có câu: “Bạch Nhạn sinh mao, sinh tận anh hào” nghĩa là: “Chim Nhạn trắng mọc lông, người sinh ra hết thảy là anh hào”. Ngôi mộ Tổ họ Hoàng, xã Kim Đôi, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc, táng tại núi này, chính là đối diện với bãi cát ấy. Tại đây, kế tiếp sinh ra được 18 vị Tiến sĩ. Gần đây cỏ mọc xanh lên, mười phần chỉ còn ba, bốn. Tiếp cận nơi này, có chùa Sùng Nghiêm, dựng ở địa phận xã Nam Giản. Thày địa lý bảo đó là: “An Nam quí cục” nghĩa là “Thế đất quí báu của nước An Nam”, lấy xã Cổ Bi làm chi giữa, Thành Thăng Long làm chi hữu, xã Nam Giản làm chi tả. Sau chùa có một khu Phủ Lý cũ, dựng từ triều Lý, đến triều Trần có tu sửa lại am chùa, trong hai triều này, các hậu phi thường đến đây du ngoạn. DƯỢC SƠN - VẠN KIẾP Trong sách Chí Linh huyện sự tích có bài thơ vịnh về đất này như sau: Phiên âm: Dược Sơn Vạn Kiếp lưỡng tinh đảo Bắc đẩu, Nam tào, song đối hạo Thiên đức, giang loan ất tự triều Nộn sơn trung trĩ long hình bão Di nhàn tích thặng thụ hoa vi Phá tắc dư uy hương hoa miệu Hoán tịch trừ ma, sự hữu vô Danh tướng linh thần tràng bất lão Dịch nghĩa: Xã Dược Sơn, xã Vạn Kiếp có 2 tinh đảo Là Bắc Đẩu, Nam Tào, hai ngọn đối nhau Khúc sông Thiên Đức chầu vào theo hình chữ ất Ngọn giữa Nộn Sơn như khúc rồng ôm lấy Dấu vết dưỡng nhàn, cây hoa vây quanh Dư uy phá giặc có đồn miếu hương lửa Đối chiếu trừ ma, việc có hay không Tướng giỏi thần thiêng, tiếng truyền mãi mãi. Tạm dịch thơ: Dược Sơn, Vạn Kiếp hai tinh đảo Lấy tên Bắc Đẩu với Nam Tào Thiên Đức quanh co dòng nước ủ Nộn Sơn giữa đứng dáng rồng chầu Nuôi nhàn cảnh cũ hoa vây bọc Giết giặc oai xưa hương ngạt ngào Đổi chiếu trừ ma nào đã chắc ? Thần thiêng, tướng giỏi tiếng ngàn sau. Xã Dược Sơn, tiếp giáp xã Vạn Kiếp (Nay là Vạn An) huyện Phượng Nhỡn, địa thế như rồng uốn khúc từ trên núi xuống, hình như tay ngai. Hai bên nổi dậy hai ngọn núi: Một ngọn ở xã Dược Sơn, tục truyền trên núi có chùa, trong chùa có một cụ già biết đoán may rủi, lời nói thường hiệu nghiệm, người bốn phương lại hỏi rất đông, về sau không biết đi đâu, chỉ thấy trên vách núi có đề một câu: “Nam Tào thượng linh tiêu” nghĩa là “Mây thiêng trên Nam Tào”. Vì thế, người ta lập đền thờ tại đây, gọi là núi Nam Tào. Một ngọn núi thứ hai ở xã Vạn Kiếp. Tục truyền có một nguời lái buôn, đêm đi dưới núi, nghe có tiếng người bàn đi nói lại về việc thiện, ác, thọ, yểu của người đời, lúc gà gáy bỗng có cơn gió Tây, mây bốn phía tụ lại, phảng phất như có tiếng người đi trong gió, người lái buôn nhìn lên núi, thấy một người cao lớn, mũ sao, áo thắt đai, ngồi xe mây lên trời. Hôm sau, người ấy đem chuyện kể lại, dân địa phương bèn lập đền thờ, đặt tên núi là Bắc Đẩu. Núi này và núi Nam Tào đứng đối nhau, giữa có núi Nộn Sơn, trước mặt trông ra sông Thiên Đức, sông uốn khúc như hình chữ ất. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, tôn thất nhà Trần lấy đất này làm vườn hoa (theo nguyên văn của người biên soạn - theo những truyền thuyết khác thì Trần Hưng Đạo trồng thuốc để chữa bệnh cho quân sĩ nên gọi là Dược Sơn - núi thuốc). Vì Trần Hưng Đạo giết Phạm Nhan và Ô - Mã - Nhi trên sông Bạch Đằng nên người đời lập đền thờ, gọi là đền Kiếp Bạc. Theo tục truyền, người phụ nữ nào mắc bệnh không sinh đẻ thì gọi là mắc bệnh Phạm Nhan, ghé đến đền cầu đảo, đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ của Thần vị đem về cho bệnh nhân nằm, thì bệnh sẽ khỏi, xa gần kéo đến lễ đền, đi lại tấp nập, năm này qua năm khác đông như nước chảy, đến nay tục ấy vẫn còn. LẠC SƠN Lạc sơn xưa nay là khu vực phố Thiên, Thái Học, Chí Linh. Trong sách "Chí Linh huyện sự tích" có viết về Lạc sơn như sau: Phiên âm: Lạc Sơn sơn tượng uyển Kim Qui Diệc thị danh sơn tú khả kỳ Thụ sắc hoa viên tinh nhật tiễu Mục ca tiều xướng viễn phong suy Tiểu giang Thu sắc ba trừng tễ Cổ thị chiêu dương khách hội thì Chinh lữ viên thần thanh mộng giác Cố sơn, tân miếu cộng sinh huy Dịch nghĩa: Núi Lạc Sơn giống như con Rùa Vàng Đó cũng là một ngọn núi có tiếng, vẻ đẹp khá lạ Sắc cây, vườn hoa tươi lên dưới ánh mặt trời hửng Gió xa thổi lại tiếng ca hát của mục tiều Sông nhỏ, nước lặng in bóng mùa Thu Chợ cổ, khách họp vào lúc buổi sáng Trên đường dẹp loạn, Tướng quân tỉnh giấc mộng Núi xưa, miếu mới đều thêm vẻ huy hoàng Tạm dịch thơ: Lạc Sơn dáng núi tựa Rùa Vàng. Đây cũng danh sơn cảnh khác thường, Trời hửng tô mầu hoa cỏ thắm, Gió xa đưa động mục tiều vang. Sáng ra chợ cổ người như hội, Thu tới sông con nước tựa gương. Chinh lữ tướng quân bừng tỉnh giấc, Non xưa, miếu mới rạng đôi đường. Xã Lạc Sơn có một ngọn núi gọi là Nguyệt Sơn, đột khởi bên bờ sông, hình tựa như con Rùa Vàng, cây cỏ xanh tươi, kẻ chăn trâu, người kiếm củi thường thường qua lại. Dưới chân núi có một cái chợ cổ, tục gọi là chợ Thiên, mỗi tháng họp chín phiên. Đó là một nơi đô hội của huyện. Năm Mậu Thìn (Tự Đức thứ 21 - 1868 ) có một vị tôn thất làm quan đầu tỉnh, đem quân đi đánh giặc, đồn trú tại núi này, đêm thấy thần báo mộng bèn sai dựng đền trên ngọn núi này. QUY SƠN Thôn Mặc Động có một trái núi, đột khởi ngọn chót vót, long sơn chiếm một khoảng đồng bằng tên gọi Quy Sơn, cũng là một nơi thắng địa ở Chí Linh Trong sách Chí Linh huyện sự tích có bài thơ vêết về Quy Sơn như sau: Dịch âm: Mặc Động Quy Sơn thanh cảnh chiếm Hiệp Sơn đối trĩ phân thiên hiếm Thiền am Linh thượng thụ sâm si Giang đới yêu hoàn ba liễm diễm Lạc Thiên khê bão cực chấn đường Vạn Doanh tục hoán kim do nghiệm Đặng lâm nhất vọng nhỡn trung khoan Thất quận sơn hà qui chí điếm Dịch nghĩa: Cảnh đẹp Quy Sơn chiếm một vùng xã Mặc Động Hiệp Sơn đối ngọn chia nhau thế hiếm của trời Am thiền trên đỉnh núi cao thấp Dải sông uốn lưng sóng nhấp nhô Khe Lạc Thiên ôm lấy ngôi nhà trấn cũ Vạn Doanh tục gọi nay vẫn đứng Lên núi đứng nhìn tầm mắt rộng ra Non nước bảy quận trông thấy rõ hết Tạm dịch thơ: Quy Sơn Mặc Động cảnh thanh nhàn, Thiên hiếm cùng chia với Hiệp Sơn. Đỉnh núi am thiền cây lố nhố, Lòng sông dòng nước sóng chờn vờn. Trấn cũ móng nền khe Lạc bọc, Tên xưa dấu vết Vạn Doanh còn. Lên cao đứng ngắm xa tầm mắt, Bảy quận thu vào của nước non. Xã Mặc Động có một trái núi, đột khởi ngọn chót vót, long sơn chiếm một khoảng đồng bằng. Đối ngạn bên kia sông là huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, có một bến đò gọi là Đò Vạn, đó là sông Thanh Lương. Lại có một khe nhỏ giáp núi Phượng Hoàng xã Lạc Đạo. Tục truyền triều trước có đặt trấn ở đấy, cho nên còn gọi là núi Doanh Vạn. Trên núi có chùa cổ, lên đó đứng trông non nước bảy quận thuộc Kinh Môn đều thu được trong tầm mắt. LỤC ĐẦU GIANG Sông Lục đầu hay Lục đầu giang đã đi vào lịch sử với những chiến công vang dội. Đó là nơi 6 đầu sông tụ lại như 6 con rồng chầu về đất Chí Linh. Trong sách "Chí Linh huyện sự tích" có bài thơ về sông Lục Đầu như sau: Dịch âm: Tái cử danh xuyên tục thuyết tường Nhạn Loan cổ độ thị Triền Dương Lục Đầu thượng đoạn giang lưu hội Trung hữu than châu nhất đới tường Đông Bắc long châu tranh hội xứ Uông uông vạn khoảnh đạt huyền đường Truy tự nhàn tướng yên ba lộ Mãi thán ngư thuyền yết cổ Vương Đảo cứu nhung hầu sưu hạm lộ Nhất phàm phong lục áp Nguyên cường Tức kim phong cảnh trường như hử Tứ thủy phân minh giáp nhất phương. Dịch nghĩa: Lại đem con sông có danh tiếng tiếp tục nói rõ Bến Nhạn Loan thủa xưa tức là bến đò Triền Dương ngày nay. ở trên là đoạn có 6 con sông tụ lại, ở giữa sông này có một dải cát dài. Về phía Đông Bắc là kiểu đất ba con rồng tranh nhau hạt ngọc. Muôn khoảnh mông mênh, chảy thông ra ngoài bể lớn. Nhớ lại đó là con đường thủy của một viên nhàn tướng (tướng gia đã thôi việc), Ông bán than, từ thuyền vào yết kiến vua cũ. Lại nhớ đó cũng là con đường của các chiến thuyền các bậc danh tướng, Đã thuận buồm xuôi gió đánh bại quân giặc Nguyên cường bạo, Phong cảnh ngày nay vẫn còn như trước, Con sông này rõ ràng là thắng cảnh nhất của một phương. Tạm dịch thơ: Lại nói tiếp đến con sông Cả (sông lớn) Bến Nhạn Loan thuộc xã Triền Dương Sáu đầu chầu lại mênh mang Nổi lên cồn cát Đại Than giữa dòng. Đông Bắc: kiểu “ba rồng tranh ngọc”, Nước mênh mông chảy dốc ra khơi Sông đây nhớ trước có người Bán than sau lại được vời chầu Vua Đường quân thủy, thủa xưa xuôi ngược Thuận buồm ra diệt được giặc Nguyên Đến nay thắng tích y nguyên Con sông lịch sử danh truyền ngàn thu. Bến đò xã Triền Dương (theo bản đồ cũ là xã Lý Dương) khi trước gọi là bến Nhạn Loan (Nhạn Loan Cổ độ) nay là bến đò Triền. Con sông này rộng lớn, tên là sông Lục Đầu, tiếp giáp với các huyện Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Quế Dương, Gia Bình, xứ Kinh Bắc cũ. Một nhánh từ huyện Phượng Nhỡn chảy xuống (không có tên); một nhánh từ sông Xương Giang chảy xuống gọi là Đức Giang; một nhánh từ sông Nguyệt Giang chảy xuống gọi là Thiên Đức Giang. Các nhánh sông hội hợp lại, đến bến Nhạn Loan thì lại chia làm hai chi: Một chi từ xã Lâu Khê, huyện Thanh Lâm chảy xuống phía Nam đổ ra sông Hàn; một chi từ xã Ninh Xá chảy ra phía Đông. Đó là sông Lục Đầu, giữa có một bãi cát bồi gọi là bãi Đại Than, Nhà địa lí cho là kiểu đất “3 con rồng tranh nhau một hạt ngọc”. Trần Khánh Dư là tướng nhà Trần, phạm lỗi bị cách chức, về núi Chí Linh làm nghề bán than để sinh sống. Khi vua Trần Nhân Tông đến đây tổ chức Hội nghị Bình Than, trông thấy cho gọi lại, Ông chèo chiếc thuyền câu, mặc áo tơi đội nón lá vào yết kiến, vua cho phục lại chức cũ, phù Vua Trần diệt giặc Nguyên. Khi Trần Hưng Đạo tiêu diệt Ô - Mã - Nhi, thủy quân cũng đi theo con sông này.