Ôn Cố Tri Tân - Báo Công An Nhân Dân điện Tử
Có thể bạn quan tâm
PGS Nguyễn Duy Hinh (1930-2008)
PGS Nguyễn Duy Hinh từng là một nhà nghiên cứu tôn giáo rất có uy tín của chúng ta. Quê ông ở Bình Định nhưng ông đã trưởng thành trên đất Thăng Long. Ông tiếp chúng tôi trong căn phòng làm việc trên dưới 10m2 của mình vào tháng 5/2008. Tại đây có một cái giường nhỏ, một bàn làm việc, vài ba kệ sách đầy chật ở xung quanh, giống hệt như những gì tôi đã từng trải qua hơn 30 năm trước, trong thời bao cấp. Nói thực rằng, lâu lắm rồi, tôi mới được gặp lại một khung cảnh như thế ở tư gia của một học giả… Ông đã trò chuyện với tôi rất hồn hậu và lạc quan. Lúc đó, tôi đã không ngờ được là chỉ ba tháng sau đó, ông đã đột ngột qua đời…
Hồng Thanh Quang: Trong tôn giáo hình thức rõ ràng không phải là điều quan trọng nhất, vì đến ngay cả nghi lễ thì cũng có thể thay đổi mỗi thời mỗi khác. Có lẽ cái quan trọng nhất trong bất cứ một tôn giáo nào cũng là sự tu luyện về mặt tinh thần. Có mối liên hệ nào giữa sự tu luyện về mặt tinh thần với sự phải trải nghiệm bằng thể xác? Ngày xưa thì hai cái đấy đã hòa quyện với nhau rất rõ, muốn đi lấy kinh phải qua chừng ấy chặng đường và vượt qua từng ấy kiếp nạn; muốn vào chùa Hương phải đi bộ từng ấy bậc đá. Bây giờ có rất nhiều phương tiện kỹ thuật giúp đỡ… Trong bối cảnh mới, những tiện nghi làm giản tiện các phép hành xác liệu có ảnh hưởng đến sự tu luyện về tinh thần hay không?
PGS Nguyễn Duy Hinh: Trong tôn giáo phải phân biệt hai tầng lớp: tu sĩ và quần chúng tín đồ. Giữa tu sĩ và quần chúng tín đồ có một khoảng cách rất lớn. Quần chúng tín đồ không nhất thiết phải hiểu các giáo lý như tu sĩ và chính tầng lớp quần chúng tín đồ này sẽ sản sinh ra cái gọi là tôn giáo dân gian. Họ không phải giống các ông tu sĩ; các ông tu sĩ thuộc về dòng văn hóa bác học, các ông ấy đọc kinh, đọc kệ, giải thích kinh kệ, hành xác... đủ mọi thứ. Nhưng tầng lớp quần chúng tín đồ tin ở tôn giáo chủ yếu về mặt đạo đức chứ không quá đi sâu vào các giáo lý. Tất nhiên, tín đồ thì cũng tin ở thần phật nhưng những cái mà họ vận dụng cho phù hợp với lợi ích của mình là ở yếu tố đạo đức, ở tinh thần cứu khổ, cứu nạn, bố thí, hỉ xả, là hướng thiện...
- Tiêu chí ở đây là bác ái nhân nghĩa…
- Bác ái nhân nghĩa, họ gọi là từ, bi, hỉ, xả. Còn ở trong nhà chùa, trên thượng tầng Phật giáo, các ông tu sĩ mới chia ra nào là tứ diệu đế, nào là thập nhị nhân duyên, nào là ngũ giới... Và chia ra nào là Đại thừa, Tiểu thừa... Và nhận thức của các ông tu sĩ về những điển tích, giáo lý có khi rất khác nhau… Đó là hai việc ở trong bất kỳ tôn giáo nào, đặc biệt là trong Phật giáo. Còn ở Thiên Chúa giáo thì sự phân biệt này ít hơn, bởi vì Thiên Chúa giáo rất chú trọng việc giảng dạy về giáo lý cho quần chúng. Nhưng bên Phật giáo việc này không bắt buộc, không nhất thiết, chỉ cần anh tin vào Phật, anh “nam mô a di đà Phật”, và anh không sát sinh, không làm điều ác, anh chăm chú làm điều thiện thì coi như anh là tín đồ…
![]() |
| PGS Nguyễn Duy Hinh. (Ảnh: Minh Trí) |
- Tôi hiểu, trong điều kiện của cuộc sống hiện đại, một tôn giáo càng giản tiện các thể thức nhập cuộc thì càng có cơ hội giúp quần chúng, tín đồ đến với nó được thuận lợi hơn. Nhưng đối với các tu sĩ thì sao? Nên chăng là để những tu sĩ cũng được dễ dàng hơn, sung sướng hơn khi tiếp nhận giáo lý? Và nếu đúng như thế, liệu quá trình giản tiện hoá đó có làm giảm bớt ý nghĩa và vai trò của tôn giáo không?
- Trên thế giới gần đây có một việc là một số tu sĩ cũng muốn lấy vợ. Các mục sư Tin Lành chẳng hạn, đều có vợ cả. Trong đạo Phật ở một số nơi cũng có những trường phái mà người đi tu được lấy vợ. Như tại Nhật Bản chẳng hạn, theo những gì tôi biết. Cũng đã có lần những nhà nghiên cứu tôn giáo chúng tôi có đưa ra thảo luận vấn đề này. Ý kiến của tôi là, có thể để người tu hành lập gia đình nhưng đã lập gia đình rồi thì không được ở trong chùa nữa. Thì từ ngày xưa, bản thân Phật giáo từ thuở ban đầu đã có hai loại, các nhà sư hành khất gọi là tỳ kheo, và một nhóm gọi là cư sĩ. Cư sĩ ở nhà, họ có vợ, có con đàng hoàng; có những cư sĩ rất nổi tiếng như là Duy Ma Cật. ông này viết hẳn một bộ kinh mang tên mình, gọi là bộ kinh Duy Ma Cật…
- Ông nói cũng có lý của mình. Theo cái hiểu của tôi trước đây, muốn ngộ một điều gì đấy thì cần phải có sự ép xác nhất định, cần có sự chịu đựng về da thịt mình nhất định. Nếu bây giờ muốn nhận thức chân lý hay giáo lý mà lại hoàn toàn không muốn bị ràng buộc bởi những mối quan hệ vật chất nhất định, không có sự chịu đựng nhất định khác với người thường thì liệu có là thỏa đáng không?
- Vấn đề này đã tồn tại ở trong bản thân Phật giáo, ngay tại Ấn Độ. Đấy chính là vấn đề đã tách rời đạo Phật ra thành Tiểu thừa và Đại thừa. Đại thừa thừa nhận cuộc sống của người và cứu vớt nỗi đau khổ của người bằng những phép thuật. Nhưng Tiểu thừa chủ trương đời là bể khổ, phải chấm dứt luân hồi, không tái sinh nữa. Đại thừa nhấn mạnh là phải yêu thương con người và phải giúp đỡ họ vượt qua những đau khổ đó…
- Để tìm thấy niềm vui trong cuộc sống trần thế này?
- Đúng vậy. Nhưng Thích Ca Mâu Ni từng nói rằng, không nên quá ép xác, cũng không nên quá phóng túng, phải đi theo con đường trung đạo. Bản thân Đức Phật khi bắt đầu ngồi ở trên Tuyết Sơn là tu ép xác, gầy gò, sắp chết. Cuối cùng, Người mới bỏ Tuyết Sơn xuống ngồi ở Bồ Đề Đạo Trường thì mới thành ra kết quả. Nghĩa là không tiếp tục hành xác kiểu cũ mà chuyển sang một dạng mới, có ăn uống và ngồi suy nghĩ. Đấy là một thái độ đúng với ép xác, tức là không cực đoan. Thích Ca Mâu Ni không chủ trương cực đoan, không chủ trương quá ép xác…
- Theo tôi hiểu, thì tôn giáo đó là một con đường khác để giúp con người xử lý tất cả các mâu thuẫn, những khó khăn, những phức tạp trong cõi nhân sinh của mình để cố gắng tiếp cận đến cái chân - thiện - mỹ. Tôn giáo tác động đến con người hoàn toàn khác với cách mà chính trị tác động đến con người, mặc dù một nền chính trị lành mạnh thì cũng là giúp con người như thế. Trên quan điểm như thế, hiện nay chúng ta nên hiểu thế nào trong việc một số người hoạt động tôn giáo chủ trương rất tích cực tham gia vào đời sống xã hội thường nhật với những phương thức trần tục nhất?
- Người ta từng nói về nhập thế và xuất thế. Nhưng theo tôi thì, tôn giáo mà khi anh nhận thức được với tư cách là giáo chủ, anh truyền cho người khác, như thế là nhập thế rồi. Nhưng người ta nói nhập thế và xuất thế là ở chỗ này: ông sư đã đi tu không quản đến việc đời nữa, gọi là xuất thế…
- Không màng đến danh lợi ở đời nữa…
- Không màng danh lợi và chỉ tu cho mình, tức là tự giác, đấy là những người tu thành La Hán. Đấy là trường phái đầu tiên, giai đoạn trước Đại thừa, tu thành La Hán, người ta gọi là tự giác, mình giác mình thôi, không màng đến các ông xung quanh. Từ Đại thừa mới đưa ra khẩu hiệu “tự giác giác tha”, tức là tôi tự giác nhưng tôi giúp ông kia “giác”, giúp ông này “giác” nữa, gọi là giác tha… Đó là bồ tát thừa…
- Tôi vẫn muốn biết ý kiến của ông về một kiểu nhập thế, khi người tu hành lại muốn tác động vào cõi thế bằng những biện pháp của cuộc sống trần tục. Liệu điều này có làm mất đi nghĩa của hoạt động tu hành hay không?
- Việc bói toán, cúng sao, giải hạn… của một số nhà sư, nhà chùa cũng là một sự thích nghi với không gian. Thư tịch cổ còn lại cho thấy, những việc này có từ thời nhà Lê; sớm hơn nữa có hay không thì hiện ta không còn thư tịch để chứng minh. Chúng ta nên coi những cái đó như một sự thích nghi với bản thân không gian và thời gian. Nhưng xét cho cùng, những cái đó không phải là Phật giáo, nhưng bởi vì tư tưởng anh là cứu khổ, cứu nạn, nên người dân muốn gì thì anh phải làm cái đấy. Đó là những thủ pháp cụ thể để cho anh giải quyết vấn đề cứu khổ, cứu nạn. Ở đây có hai việc như thế này: Đứng về một mặt nào đó, phải công nhận rằng những việc như thế không phải là giáo lý, nhưng mặt khác thì cũng không thể bài bác được, bởi vì bản thân đó là một biện pháp để thích nghi với tư tưởng cứu khổ cứu, nạn của người bình thường.
- Tôi hiểu… Xin được hỏi tiếp: Trong điều kiện hiện nay thế giới rất phức tạp và sự tồn tại của các dân tộc trong thế giới hiện đại có rất nhiều mâu thuẫn thì thực sự vai trò của tôn giáo thế nào để làm sao cho vừa phù hợp với lòng yêu nước cụ thể của từng dân tộc, vừa không mâu thuẫn với những giáo lý đại đồng?
- Đây là vấn đề giữa thần quyền và pháp quyền. Bao giờ thì hai bên cũng đều muốn nương tựa vào nhau cả. Bao giờ một tôn giáo muốn tồn tại được đều phải dựa vào pháp quyền, còn những tôn giáo nào chống đối với pháp quyền thì sẽ sinh ra pháp nạn; khi nào anh chống đối với pháp quyền thì sinh ra pháp nạn.
- Và lúc đấy các nhà hoạt động tôn giáo phải tự trách mình chứ không thể trách ai khác được. Bởi vì không có cách nào khác được, một khi anh đã sử dụng biện pháp của chính trị can thiệp vào chính trị và đời sống thế tục thì chắc chắn thế tục sẽ đối với anh theo đúng thế tục chứ không phải lại lấy giáo lý ra làm cái khiên chống đỡ. Có đúng như vậy không ạ?
- Tôn giáo nào cũng vậy, khi nó đã vào cuộc sống thì nó trở thành một lực lượng xã hội. Một xã hội có rất nhiều lực lượng xã hội, nhiều sức mạnh xã hội riêng, thuộc về hệ tư tưởng khác nhau. Nó sẽ diễn ra sự cọ xát giữa các hệ tư tưởng khác nhau và nó sẽ có hai xu hướng, một xu hướng là hòa nhập lẫn nhau, tiếp thu lẫn nhau; một xu hướng là bài xích lẫn nhau. Trong một xã hội tích cực thì xu hướng hội nhập bao giờ cũng là xu hướng chủ đạo. Đấy là xét về mặt toàn thế giới và tất cả các loại tôn giáo đều là như vậy. Riêng văn hóa Việt Nam lúc nào cũng chủ yếu là văn hóa tam giáo, lúc nào cũng có Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Các anh cứ xem đi, chẳng qua trong một thời gian nào đó thì có bộ phận này trội hơn bộ phận khác...
- Thí dụ như thời Lý, Trần thì Phật giáo trội hơn...
- Thời Lê thì Nho giáo nó trội. Nhưng nói Nho giáo trội thì không có nghĩa là Phật giáo hay Đạo giáo bị mất đi.
- Vẫn tồn tại song song và hòa quyện…
- Đúng thế. Cũng cần phải hiểu là, tam giáo còn có nghĩa là ba hệ tư tưởng. Bản thân Phật giáo vừa là một tôn giáo, vừa là một hệ tư tưởng. Người ta sử dụng Phật giáo có khi về mặt tôn giáo và cũng có thể về mặt hệ tư tưởng. Tôi không tán thành quan điểm cho rằng Khổng giáo là tôn giáo. Mặc dù có nhiều ông thầy cũ của tôi ở Trung Quốc đang chuyển sang quan điểm coi Khổng giáo là tôn giáo; đó là vì định nghĩa về tôn giáo của mỗi người một khác. Nhưng nếu nói theo thuật ngữ tôn giáo theo định nghĩa chung của cả thế giới thì Nho giáo không được coi là tôn giáo… Phải nhìn nhận mọi sự một cách công bằng và khoa học! Trong mỗi tôn giáo có hệ tư tưởng, nhưng trong hệ tư tưởng không nhất thiết phải có tôn giáo…
- Tôi vẫn muốn hỏi ông chuyện này: nếu các tu sĩ muốn mình cũng được sống trong điều kiện vật chất không khác gì lắm so với người bình thường thì liệu tôn giáo như thế có tương lai không? Và liệu tôn giáo như thế có còn giá trị đích thực của nó hay không?
- Có người nói rằng tôn giáo trong tương lai vẫn tồn tại. Có người bảo rằng nó còn phát triển…
- Tôi hiểu, nhưng tôi muốn hỏi ông một việc cụ thể hơn. Cái việc làm giảm nhẹ những trải nghiệm thể xác vật chất của tu sĩ đóng vai trò thế nào đối với việc hiểu đạo, thẩm thấu đạo, ngộ đạo, giác ngộ giáo lý? Được giảm nhẹ đi những gánh nặng thể xác thì có làm tăng thêm sự thăng hoa của tinh thần trong việc giác ngộ đạo lý, giáo lý hay không?
- Xu hướng thế tục hóa đời sống tu hành tất nhiên là có ảnh hưởng đến bản thân tôn giáo. Nhưng đấy lại là một xu thế không thay đổi được.
![]() |
| PGS - TS Nguyễn Tá Nhí. |
- Theo ông, đã là nhà tu hành mà vẫn muốn sự hoành tráng, vẫn muốn sự sặc sỡ, sự to cao uy quyền... thì như thế có mâu thuẫn gì không?
- Phật đã nói, dùng sắc, tức là hình thức, để mà đến với ta thì đó không phải là thờ phụng ta, không phải là tín đồ của ta. Nhưng thời gian đã khác rồi, không gian đã khác rồi. Và cũng vì thế nên đa phần các tôn giáo hiện nay đang đứng trước những thay đổi không thể nào tránh khỏi, bởi không thay đổi thì khó duy trì được vị thế của mình.
- Như chính bản thân xã hội loài người hiện nay, những biểu hiện văn minh của xã hội loài người hiện nay. Một số mặt dường như đã đến đỉnh của nó và đã đến giai đoạn “cùng tắc biến”, sẽ phải có những biến đổi nào đó...
- Có những hiện tượng mới cần phải để tâm nghiên cứu kịp thời.
PGS - TS Nguyễn Tá Nhí
PGS-TS Nguyễn Tá Nhí sinh ra ở vùng đất khoa bảng Thanh Oai (Hà Đông cũ). Ông từng thi đỗ vào Đại học Nông nghiệp nhưng rồi lại vào học ở Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ, Khoa Trung văn. Đó chính là cơ sở để sau này ông đi sâu vào nghiên cứu Hán Nôm. Và ông làm việc ở Viện Hán Nôm 38 năm cho đến lúc nghỉ hưu. Tôi đã có cuộc trò chuyện với ông về dòng chảy ngôn ngữ Việt trong tâm thức chúng ta.
Hồng Thanh Quang: Ông có điều kiện để theo dõi những biến đổi của tiếng Việt qua các thời. Theo ông, có nhiều từ Việt bị thay đổi ngữ nghĩa theo dòng thời gian không?
PGS - TS Nguyên Tá Nhí: Nhiều chứ. Thí dụ như từ Khốn nạn bây giờ nét nghĩa đã đổi hẳn.
- Tôi nhớ là bộ tiểu thuyết trứ danh của văn hào Pháp Victor Hugo ngày xưa được Cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch là “Những kẻ khốn nạn”. Có lẽ thời đó, từ Khốn nạn vẫn có nghĩa tốt.
- Cái câu than “Khốn nạn thật!” trong tiếng Việt trước kia không có nghĩa xấu. Lúc đó Khốn nạn đồng nghĩa với khốn khổ hiện nay… Bản thân cái tên gọi của dân tộc ta cũng đã có những nét nghĩa khác nhau ở những thời khác nhau.
- Ông có thể nói cụ thể hơn về việc này không?
- Trong tiếng Hán ngày xưa cái từ Việt được dùng để chỉ các dân tộc cư trú phía Nam, ở ngoài khu vực Trung Nguyên, tức là ở ngoài khu vực nằm giữa lưu vực sông Hoàng Hà và sông Trường Giang. Sách Hán cổ miêu tả người Việt “cư sơn như hành thuỷ” (sống trên núi và đi trên nước). Chữ Việt gợi ra hình ảnh một người cầm rìu. Cái rìu thoạt đầu là một công cụ lao động, nhưng đó cũng có thể là một thứ vũ khí…
- Tức là người Việt thiện chiến và thạo việc…
- Đúng. Nhưng đấy là cách người Hán gọi những dân tộc khác ở phía Nam như thế. Những dân tộc này đông lắm và cũng rất khác nhau…
- Nên mới có từ Bách Việt?
- Đúng thế. Bởi vậy mới có những cái tên như Âu Việt, Bân Việt, Mân Việt ở trên vùng đất của Trung Quốc. Còn người Việt Nam ta thoạt tiên được gọi là Lạc Việt… Tuy nhiên, lúc đầu bản thân những tộc Việt ở phương Nam không chịu nhận cho mình cái tên Việt đâu nhưng rồi dần dà gọi mãi thành quen. Và sau đó chính mình cũng thấy không có vấn đề gì cấn cá với cái tên ấy nữa.
- Liệu có văn bản cổ nào ghi lại chuyện này không ạ?
- Tôi cũng không rõ nữa. Nói chung tên gọi hay từ ngữ là những thứ biến đổi không ngừng theo dòng thời gian.
- Trong việc này điều duy nhất bất biến là nhận thức mọi sự đều biến đổi?
- (Cười): Đúng thế. Tôi xin nói thêm một ý này nữa liên quan đến cả tên gọi của dân tộc mình. Chúng ta khi kê khai lý lịch thường hay ghi ở phần dân tộc là Kinh. Thực ra lúc đầu các cụ nhà ta không nhận mình là người Kinh đâu…
- ???
- Chữ Kinh thoạt đầu do người thiểu số trên mạn ngược gọi chúng ta. Số là ngày xưa, trong số những người Việt đi lên làm ăn ở miền núi thì có đủ loại người mà trong đó cũng có không ít những kẻ không lương thiện. Những kẻ không lương thiện ấy từ phía kinh thành đi lên miền ngược đã làm cho không ít đồng bào thiểu số ở đây phải ngán ngẩm bởi những thói hư tật xấu. Có những con buôn dưới xuôi lên đổi hàng thì chỉ toàn bày trò lường gạt. Đến mức ca dao của đồng bào dân tộc Cao Bằng đã có câu: “Con ra ngoài cửa con trông/ Thằng Kinh nó hỏi bảo không có gì”… Nhưng rồi về sau, từ Kinh lại có nghĩa tích cực, mang tính phồn hoa đô hội, văn minh… Và bây giờ chúng ta nhận mình là người Kinh một cách hồn nhiên và không cảm thấy có cái gì sai quấy ở đây cả.
- Cho nên, chuyện ngữ nghĩa lắm khi chỉ là các phép quy ước?
- Đúng, chỉ là quy ước!
- Trong ngôn ngữ tính dân chủ cũng có giá trị cao như trong bầu cử. Từ nào gợi lên trong lòng số đông một cảm xúc tốt thì đó là từ tốt, còn từ nào gợi lên trong lòng số đông những tình cảm tiêu cực thì đó là từ xấu…
- Có một thời chúng ta ghi vào phần tôn giáo trong lý lịch chữ Lương, tức là mình không theo tôn giáo nào. Chữ Lương ấy trong tiếng Việt có nghĩa là lương tâm, lương thiện, tốt đẹp.
- Có lẽ người ta gọi là tiền lương, có nghĩa là tiền tốt đẹp, tiền chính đáng, tiền hợp pháp chăng? (Cười).
- (Cũng cười): Cách sử dụng từ Lương như thế xuất hiện từ xa xưa, khi mà người theo Công giáo không được chính quyền phong kiến triều Nguyễn công nhận và bị coi là tà đạo. Bây giờ thì không ai sử dụng cách viết này nữa.
- Tôi muốn nghĩ thêm một khía cạnh khác nữa. Việc dùng từ Lương chỉ việc không theo tôn giáo nào đến chỗ không dùng nó nữa là một việc tốt. Nhưng nếu để từ Lương trong khía cạnh tiền lương, tức là khoản tiền công là nguồn sống rất tốt, có thể thực sự chu cấp cho các nhu cầu căn bản của người nhận nó và gia đình họ đến thành không thể đủ sống thì lại là việc không hay. Thực ra bây giờ sống chỉ bằng đồng lương chính thức theo quy định của Nhà nước là một chuyện vẫn còn chật vật… Tất nhiên, nhiều người trong chúng ta vẫn phải sống như thế nếu không thể có thêm những nguồn thu phụ chính đáng khác…
- Sự thay đổi nét nghĩa của từ ngữ đều mang tính xã hội, điều kiện xã hội thay đổi thì nét nghĩa và cách dùng từ có thể thay đổi.
- Xét trên phương diện khoa học lịch sử, liệu chúng ta có thể xác định được thời điểm mà các cụ nhà ta nhận mình là người Việt không?
- Việc này có những chứng cớ xác thực trên cơ sở sử liệu. Chúng ta hiện nay có bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, được in năm 1697. Ngô Sĩ Liên khi viết đã dựa vào tư liệu lịch sử của Lê Văn Hưu, còn Lê Văn Hưu lại dựa vào các tư liệu lịch sử trước thời đó nên độ tin cậy khá cao. Ít nhất là chúng ta đã có tên nước Đại Cồ Việt từ thời Đinh Tiên Hoàng.
- Có lẽ khi ấy từ Việt đã mất đi cái ý nghĩa nguyên thủy là tộc người “cư sơn như hành thuỷ”, chỉ biết cầm rìu mà sống?
- Chắc là vậy.
- Thế khi ấy, nội hàm của từ Việt là gì ạ? Ông có thể giải thích được không?
- Nói thực là bọn tôi cũng chưa có dịp để tìm hiểu sâu về chuyện này. Có lẽ chúng tôi cũng cần phải suy nghĩ thêm.
- Tôi luôn nghĩ rằng, dân tộc mình kiêu hãnh lắm, chắc là không tự chịu công nhận mình chỉ là dân săn bắn hái lượm, với cả chèo thuyền đâu. Chúng ta luôn tự hào là một dân tộc văn hiến nên chắc chữ Việt trong tâm thức các cụ phải có một ý nghĩa đặc biệt khác với điều mà người Hán ở Trung Nguyên đã nghĩ khi tạo ra tên gọi đó.
- Cái chữ Việt của ta với chữ Việt của Trung Quốc khác nhau ở bộ chữ Hán gọi là bộ Tẩu thêm vào. Tẩu có nghĩa là đi, thậm chí còn có nghĩa là đi nhanh. Có câu “Tẩu mã quan hoa”, tức là cưỡi ngựa xem hoa…
- Phóng ngựa xem hoa?
- Đúng, phóng ngựa xem hoa, cưỡi ngựa đi nhanh thế thì xem được cái gì cẩn thận! Trong bản thân chữ Việt để chỉ người Việt mình nó vẫn giữ bộ Việt chỉ cái rìu cộng với bộ Tẩu, tức là đi nhanh.
- Cầm rìu cưỡi ngựa phi nhanh (cười)?
- Thực sự là chúng tôi chưa đặt vấn đề nghiên cứu kỹ điều này. Trước chúng tôi đã từng có rất nhiều học giả, nhiều tên tuổi lớn như Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cụ Lê Quý Đôn… Các Cụ cũng đã nghĩ về rất nhiều thứ nhưng không hiểu sao chưa thấy ai đặt ra vấn đề này như anh. Hoặc giả các Cụ đã nghĩ rồi mà mình không biết? Có lẽ chúng tôi cần phải suy nghĩ thêm…
- Trở lại với tính dân chủ trong ngôn ngữ… ông chắc chắn đã biết từ Cứu cánh có nghĩa là mục đích cuối cùng. Thế nhưng, hiện nay, đối với rất nhiều người Việt, kể cả những người chữ nghĩa bời bời, kể cả không ít nhà thơ danh tiếng, từ Cứu cánh trước hết cứ gợi cho họ cảm giác gì đó như cứu rỗi. Tôi đồ rằng, một khi những người hiểu cứu cánh cứu rỗi trở thành đa số thì bắt buộc các nhà làm từ điển tiếng Việt sẽ phải ghi như thế thôi. Theo ông, trong chuyện này, chúng ta nên ứng xử thế nào?
- Phải theo số đông thôi, ngôn ngữ là quy ước.
- Vậy nên thái độ của một số người cứ nhất nhất dựa theo điển cố để vặn vẹo những sáng tạo từ mới là điều không nên có? Nói cho cùng, “mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi”…
- Những người như anh vừa nói ấy, thực ra chỉ là “điêu trùng tiểu kỹ” thôi. Chấp nhặt quá không phải là một thái độ mang tính khoa học.
- Khi nào đại đa số trong xã hội sử dụng nghĩa mới của từ, tức là cái nghĩa mới đó đã được công nhận?
- Chỉ trừ trường hợp nghĩa của từ bị hiểu lệch đi sai nhiều quá…
- Cái nghĩa mục đích cuối cùng với sự cứu rỗi cũng là khác xa nhau đấy. Trong trường hợp này, các học giả có nên can thiệp vào đó hay là khoanh tay thúc thủ để mà nhìn cho mọi sự tự biến chuyển thế nào thì biến chuyển?
- Tôi cho là một mặt cũng nên tuyên truyền và giải thích để giữ gìn cái nghĩa tốt hơn…
- Tiếng Việt hiện nay đang trong quá trình tiếp nhận ảnh hưởng của rất nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau. Nói thực rằng, mặc dầu Việt Nam nằm trong Cộng đồng Pháp ngữ (Francofonie) nhưng thực ra hiện nay ảnh hưởng của tiếng Pháp vào tiếng Việt không mạnh bằng từ tiếng Anh. Có một hiện tượng là một bộ phận giới trẻ bây giờ đã sử dụng không ít từ tiếng Anh vào tiếng Việt một cách sống sít chứ không phải tìm cách biến hóa những từ ngoại lai để cho tiếng Việt biểu cảm hơn, thâm thúy hơn…
- Tôi cho rằng đón nhận tiếng Anh như một công cụ để hội nhập sâu hơn với thế giới là việc nên làm. Tất nhiên, trong quá trình này, việc tiếp nhận những cái mới từ các bộ phận, các khu vực khác nhau sẽ rất khác nhau. Và đó là chuyện bình thường. Thí dụ như cháu tôi đến chơi nhà ông bà, khi ra về thì mẹ nó bảo: “Con bye-bye ông bà đi!”. Và tôi thấy cái miệng chúm chím của cháu tôi nói chào ông bà bằng tiếng Anh rất dễ thương. Nhưng cũng tình huống ấy, nếu diễn ra ở nông thôn thì chưa chắc đã được người lớn tuổi tiếp nhận bình thường đâu… Thậm chí ông bà ở quê còn có thể cảm thấy khó chịu là đằng khác…
- Suy cho cùng, mọi chuyện ở trên đời đều do góc độ quan sát cả. Tôi nhớ hồi nhỏ, đọc truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Công Hoan về cô Kếu tân thời ham ăn diện, tôi cứ a dua theo người lớn và các thầy cô giáo ở trường cho rằng, cô Kếu thật lố bịch. Sau này, trưởng thành, tôi đã nghĩ, biết đâu cô Kếu không đáng chê cười như thế mà chỉ đáng thương thôi. Và cả cái thời đại ấy đều đáng thương khi không được đáp ứng hay bộc lộ một cách bình thường những nhu cầu chính đáng ấy, dù có thể là hơi xa xỉ! Ngày xưa ai cũng công nhận bác Nguyễn Công Hoan rất giỏi miêu tả và giễu cợt những thói hư tật xấu ở đời. Bây giờ đọc lại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thời trước năm 1945, đôi khi tôi lại nghĩ, Cụ có lúc cũng hơi quá đà. Chung quy chỉ do góc nhìn… Nhưng dù nhìn từ góc độ nào có lẽ cũng là để yêu thương và thông cảm với con người hơn chứ không phải là chế giễu họ… Tiếng cười luôn chỉ là vũ khí của kẻ yếu. Xin lỗi, tôi nói rộng ra như thế vì tự nhiên nghĩ thế thôi…
- Anh nghĩ đúng đấy chứ. Khi phê phán mà lại đi chế giễu con người bị kém cỏi hay bệnh tật trong cuộc sống, thì không nên…
Từ khóa » Dịch ôn Cố Tri Tân
-
ôn Cố Tri Tân - Wiktionary Tiếng Việt
-
Câu Hỏi “ôn Cố Tri Tân” - Làng Mai
-
Từ điển Thành Ngữ Tiếng Việt - ôn Cố Tri Tân Là Gì?
-
'Ôn Cố Tri Tân': Kim Chỉ Nam Tạo Nên Thành Công Của Người Nhật
-
Ngày Quốc Khánh Và Chuyện “Ôn Cố Tri Tân” - Hànộimới
-
Nghĩa Của Từ ôn Cố Tri Tân
-
Glosbe - ôn Cố Tri Tân In English - Vietnamese-English Dictionary
-
[PDF] Ôn Cố Tri Tân. - NDC-LNH-MYTHO
-
Ôn Cố Tri Tân
-
ôn Cố Tri Tân Trong Tiếng Anh Là Gì? - English Sticky
-
ÔN CỐ TRI TÂN - Giáo Phận Qui Nhơn
-
"Ôn Cố Tri Tân": Người Nhật Khéo Léo Vận Dụng Trí Huệ Cổ điển Trung ...
-
TRANG ÔN CỐ TRI TÂN - Tamtangpaliviet
-
"ôn Cố Tri Tân" Tiếng Anh Là Gì? - EnglishTestStore

