Phân Biệt Dấu Hỏi Ngã Trong Tiếng Việt – Tâm Lý Trẻ Em

Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú. Một trong những yếu tố quan trọng đóng góp cho nền văn hoá đó là chữ Việt hay tiếng Việt. Tuy dựa trên mẫu tự La Tinh ABC nhưng điểm đặc biệt trong văn phạm là cách sử dụng các dấu Thanh để nhấn giọng.

Điều này làm cho khi người Việt nói, người ngoài nghe có cảm tưởng như đang hát với các âm cao thấp khác nhau.

Nhưng cũng vì thế mà các dấu thanh này cũng góp phần làm cho tiếng Việt trở nên rắc rối, khó học mà bằng chứng là rất ít người nước ngoài nói đúng về các dấu thanh. Đặc biệt là với hai dấu thanh là dấu hỏi ngã.Thật thế, dấu hỏi ngã trong tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng. Viết sai dấu hỏi ngã có thể làm đảo ngược ý nghĩa và có khi tai hại cho nội dung bài viết.

Ví dụ: Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một người có kiến thức văn hóa hay học thuật…, nhưng nếu chúng ta viết là nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ sĩ với dấu hỏi có nghĩa là sỉ nhục và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn.

Một chữ thông thường khác như hai chữ sửa chữa, nếu bỏ đi dấu hỏi ngã sẽ có nhiều ý khác nhau: sửa chữa (sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã) tức là chúng ta sửa lại một cái gì bị hư hỏng, thí dụ sửa chữa xe hơi. Nhưng nếu cho dấu ngã vào thành chữ sữa và dấu hỏi trên chữ chửa tức có nghĩa là sữa của những người đàn bà có thai nghén.

Nhóm người thường viết sai dấu hỏi ngã là người miền Nam và Trung . Còn người miền Bắc khi sinh ra là nói và viết dấu hỏi ngã không cần phải suy nghĩ gì cả. Nhưng khốn nỗi có khi hỏi họ tại sao chữ này viết dấu hỏi chữ kia lại đánh dấu ngã thì họ lại không cắt nghĩa được mà chỉ nở một nụ cười trên môi… Bài viết này nhằm mục đích đóng góp một vài qui luật về dấu hỏi ngã của tiếng mẹ đẻ chúng ta. Dấu hỏi ngã được căn cứ vào ba qui luật căn bản:

1- Luật bằng trắc,

2- Chữ Hán Việt

3- Các qui luật ngoại lệ.

1. LUẬT BẰNG TRẮC

Qui luật này được áp dụng cho các chữ lập láy, đó là các từ đôi ( hai chữ ) nhưng thường chỉ có một chữ có nghĩa, còn chữ kia thì không.

Ví dụ:

– Vui vẻ, chữ vui có nghĩa mà chữ vẻ lại không nghĩa,

– Mạnh mẽ, chữ mạnh có nghĩa nhưng chữ mẽ thì không.

– Dữ tợn : Chữ dữ có nghĩa còn chữ tợn thì không

Luật trắc

Trong danh từ lập láy thì từ không dấu hay có dấu sắc sẽ đi với từ có dấu hỏi : Ngang, sắc: Hỏi

Thí dụ: – Hớn hở: chữ hớn có dấu sắc, thì chữ hở phải là dấu hỏi.

– Vui vẻ: chữ vui không dấu, thì chữ vẻ đương nhiên phải dấu hỏi.

– Hỏi han: chữ han không dấu, như thế chữ hỏi phải có dấu hỏi.

– Vớ vẩn: chữ vớ là dấu sắc thì chữ vẩn phải có dấu hỏi.

Tương tự như mắng mỏ, ngớ ngẩn, hở hang,…

Luật bằng:

Trong danh từ lập láy thì từ dấu huyền và dấu nặng sẽ đi với từ có dấu ngã (huyền nặng ngã).

Thí dụ: – Sẵn sàng: chữ sàng có dấu huyền thì chữ sẵn phải là dấu ngã.

– Ngỡ ngàng: chữ ngàng với dấu huyền thì chữ ngỡ phải để dấu ngã.

– Mạnh mẽ: chữ mạnh có dấu nặng, do đó chữ mẽ phải viết dấu ngã.

Tương tự như các trường hợp lặng lẽ, vững vàng,…

2. CHỮ HÁN VIỆT

Ngôn ngữ Việt Nam sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, và đó cũng là một nguồn từ ngữ phong phú cho tiếng Việt mà ta chưa khai thác hết. Thí dụ như các chữ khả năng, lữ hành, lãng du, viễn xứ, xấu hổ, đau khổ .v.v.v Là những từ ghép có nguồn gốc Hán được Việt hoá. Đối với chữ Hán Việt được sử dụng trong văn phạm Việt Nam, luật về dấu hỏi ngã được qui định như sau:

Tất cả những chữ Hán Việt nào bắt đầu bằng các chữ D, L, V, M và N đều viết bằng dấu ngã, các chữ Hán Việt khác không bắt đầu bằng năm mẫu tự này sẽ được viết bằng dấu hỏi.

Thí dụ:

– Dĩ vãng: hai chữ này phải viết dấu ngã vì dĩ vãng không những là hán tự mà còn bắt đầu bằng chữ D và V.

– Vĩ đại: vĩ có dấu ngã vì chữ vĩ bắt đầu với mẫu tự V.

– Ngẫu nhiên: chữ ngẫu dấu ngã vì áp dụng qui luật Hán Việt nói trên.

– Lý lẽ : lẽ dấu ngã vì chữ L.

Tương tự như: lữ hành, vĩnh viễn …

Còn các chữ Hán Việt nếu bắt đầu bằng các mẫu tự khác đều viết bằng dấu Hỏi

Như : Xấu hổ, đau khổ, đả thương…

Để thể nhớ luật Hán tự dễ hơn, ta có thể nhớ câu “Dân Là Vận Mệnh Nước” mỗi khi muốn sử dụng qui luật Hán tự nói trên.

3. CÁC QUI ƯỚC KHÁC

1. Trạng từ (adverb):Các chữ trạng từ thường viết bằng dấu ngã.

Thí dụ:

– Thôi thế cũng được. Trạng từ cũng viết với dấu ngã. (Còn chữ củng với dấu hỏi là nằm trong từ Hán Việt củng cố )

– Xin anh đừng trách em nữa. Trạng tự nữa viết với dấu ngã. (nếu viết dấu hỏi : nửa thì có nghĩa là một nửa hay một phần hai, không còn là trạng tự)

– Chắc anh đã mệt lắm rồi. Trạng từ đã viết với dấu ngã. (khác với chữ Đả trong các từ như: đả đảo, đả thương, ẩu đả là các từ Hán Việt)

2. Tên họ cá nhân và quốc gia: Các họ của người Việt thường được viết bằng dấu ngã.

Thí dụ:

– Đỗ Đình Tuân, Lữ Đình Thông, Nguyễn Ngọc Yến, Vũ Trọng Phụng…: các chữ Đỗ, Lữ, Nguyễn , đều viết bằng dấu ngã.

3. Thừa trừ: Một qui ước thừa trừ ta có thể dùng là đoán nghĩa để áp dụng theo luật lập láy và bằng trắc nói trên.

Thí dụ:

– Anh bỏ em đi lẻ một mình. Chữ lẻ viết dấu hỏi vì từ chữ lẻ loi mà ra, chữ loi không dấu nên chữ lẻ viết với dấu hỏi. (còn trong từ lặng lẽ, thì chữ lẽ lại phải viết với dấu ngã vì đi với dấu nặng trong chữ lặng )

– Anh trông có vẻ mệt mỏi quá nhỉ : Chữ Vẻ viết dấu hỏi do từ chữ dáng vẻ (dấu sắc). Tuy nhiên trong từ mệt mỏi thì chữ mỏi lại phải viết bằng dấu hỏi vì đây là từ thuần Việt ( mệt mỏi, mỏi vai, mỏi gối,mỏi mòn, v.v.v ) Điều này cho ta thấy các từ đôi thuần Việt thường được viết với dấu hỏi : hớn hở, vẻ vang, thoải mái, khủng khiếp …

D. KẾT LUẬN

Ngôn ngữ là nền tảng của văn hóa, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm sai lạc cả câu văn, đó là chưa kể đến nhiều sự hiểu lầm tai hại cho chính mình và người khác cũng như trong các việc trọng đại. Không gì khó chịu cho bằng khi đọc một cuốn truyện hay một bài viết mà dấu hỏi ngã không được chỉnh tề. Hiện nay, việc viết sai hỏi ngã có vẻ như đã được « bình thường hoá » và « phổ thông hoá » nên trong các bài viết của các em học sinh, khi viết sai Hỏi – Ngã đã không bị xem là một lỗi chính tả ( nếu so với các lỗi khác nặng hơn ). Đây là một điều hết sức đáng buồn cho ngữ pháp Việt Nam thời hiện đại.

LÊ KHOA ( ST theo tài liệu của Cao Chánh Cương )

Từ khóa » Hai Từ Có Dấu Ngã