Phân Tích đoạn Thơ: Thuý Kiều Báo ân Báo Oán ( Bài 2).

Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi chốn thanh lâu, Kiều trở thành một mệnh phụ phu nhân. Chẳng bao lâu sau, Từ Hải đã có binh cường tướng mạnh:

“Trong tay mười vạn tinh binh,

Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri"

Kiều đã dựa và uy thế Từ Hải để báo ân báo oán.

Trong “Truyện Kiều", cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450). Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:

“Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,

Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.

Tú Bà với Mã Giám Sinh,

Các tên tội ấy đãng tình còn sao?"

ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai tình tiết: Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trong đoạn thơ này.

Báo ân Thúc Sinh.

Sau khi mắc lừa Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép làm gái lầu xanh. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh "cũng nòi thư hương". Là con rể của quan Thượng thư, một con người phong tình "quen thói bốc rời". Lúc đầu chỉ là "trăng gió", nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành "đá vàng". Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy làm vợ lẽ: "Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai". Mặc dù sau này có chuyện đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh trong điều kiện có thể, nói với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các "giữ chùa, chép kinh", thoái khỏi kiếp tôi đòi. Tuy thấp cơ thua trí đàn bà nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn nặng lòng:

"Bây giờ kẻ ngược người xuôi,

Biết bao giờ lại nói lời nước non?".

Có thể chê trách Thúc Sinh này nọ, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã giúp Kiều hoàn lương. Kiều là một người phúc hậu, nên nàng không bao giờ có thể quên ơn chàng.

Trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã dược Kiều quan tâm "giữ giàng":

"Lại sai lệnh tiền truyền qua,

Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên".

Cảnh báo ân diễn ra, Kiều đã dùng một chữ "mời" rất trọng vọng "cho gươm  mời đến Thúc Lang". Kiều nói về "nghĩa", về chữ "tòng", đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là "người cũ", là "cố nhân" mà Kiều "há dám phụ". Nàng khẳng định caí tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: "nghĩa nặng nghìn non...". Kiều đã dùng một số từ như: "nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ ròng, người cũ, cố nhân..." cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa thủy chung:

"Nàng rằng "Nghĩa nặng nghìn non.

Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai, ai dám phụ lòng cố nhân?"

Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật "hậu”, khẳng định cái nghĩa với "cố nhân" trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:

"Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân.

Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là."

Sau đó, Kiều dùng lời lẽ dân dã, sắc sảo để nói về "vợ chàng". Bao năm tháng đã trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. “ Miếng ngon nhớ mãi, đòn đau nhớ  đời" có phải như thế không ? Vị thế đã đổi thay: kẻ là phạm tội, người là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cảnh "gươm lớn giáo dài":

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa."

Kiều đã có 2 cách nói khác nhau: nói về ân nghĩa thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo nên hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy thi hào rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.

Dù là được báo ân, nhưng đứng trước cánh "Bác đồng chật đất, tinh kì rợp sân". Thúc Sinh cực kì khủng khiếp: "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run” mồ hôi toát ra "ướt đầm", không nói được một lời nào, sống trong tâm trạng vừa "mừng", vừa sợ":

"Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,

Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai".

Báo oán Hoạn Thư.

Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã bao năm tháng ? Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người "chiến thắng" ra tay báo oán, Kiều đã "chào thưa" bằng những lời "mát mẻ".

"Thoất trông nàng đã chào thưa:

Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!"

Giọng nói trở nên chì chiết, đay nghiến. Các chữ "mấy tay", "mấy mặt", "mấy gan" như những mũi dao sắc lạnh:

"Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!"

Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ: "Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều".

Là "thủ phạm" đang đứng giữa pháp trường, xung quanh là bọn đao phú đã "gươm tuất nắp ra". Hoạn Thư "hồn lạc phách xiêu". Người đàn bà này đã biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt ? Vốn khôn ngoan, sắc sảo, đứa con của "họ Hoạn danh gia" đã trấn tĩnh lại, tìm cách gỡ tội. Một cái "khấu đầu" giữ lễ, khi chân tay đang bị trói. Trước hết nhận tội "ghen tuông" và lí giải đó là chuyện "thường tình" của đàn bà. Tiếp theo Hoạn Thư gợi lại chút "ân tình" ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các "giữ chùa chép kinh", không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua.

Từ khóa » Gấm Trăm Cuốn Bạc Nghìn Cân Biện Pháp Tu Từ